Sáng sớm. Gà trên thuyền gáy o o. Sài Gòn chưa sáng, trăng muộn vẫn mờ mờ trên cao. Vài chiếc xe ben lao vun vút trên đường, cố nốt chuyến hàng đêm trước khi hết thời gian cho phép. Kênh lềnh phềnh rác rến ngay cạnh phố. Chợ cóc chẳng biết mọc lên tự bao giờ. Vầng dương dần tỏ, nhà cao tầng bên kia sông lấp loáng bóng hình dưới nước.
Chiếc xe đẩy chở hoa quả nặng nề leo dốc. Tủ kính được bày lên ngay bờ kênh. Xe cộ bắt đầu nổ máy, gắt còi. Tiếng học sinh lao xao vọng cả đoạn đường nhỏ. Sài Gòn cao điểm. Đường đông dần rồi tắc. Chen chúc. Biển xe ép sát nhau cố nhích lên từng ly từng tí. Chờ thêm nữa cũng thế. Tôi đành tạt vào quán hoa quả sát bờ kênh.
- Cho con miếng đu đủ đi bà Tám.
- Có ngay. Chờ tao chút.
Đôi tay già nhăn nheo mà gọt đu đủ thoăn thoắt. Loẹt xoẹt loáng cái là xong. Mấy miếng đu đủ đều tăm tắp dần hiện ra, lấp đầy đĩa như một tác phẩm nghệ thuật.
- Con ăn hết nghen bà Tám?
- Cha bây. Ai cấm đâu.
Ăn xong một miếng đu đủ, chiếc đĩa trên bàn lại được lấp đầy bởi miếng khác. Chắc bà nghĩ tôi là cái thùng không đáy. Trái cây miệt vườn vừa thơm vừa mát, ăn một lại muốn ăn hai, y như lời quảng cáo trên tấm biển nguệch ngoạc.
- Ăn nữa hông để tao cắt thêm?
- Con no rồi bà.
Mấy đứa học sinh ăn sáng xong, đến chỗ bà Tám ăn miếng hoa quả, đứa nào đứa nấy cười đùa thích thú. Bà cũng cười với tụi nó. Điệu cười móm mém, đôi khoé mắt nhăn nheo hằn lại. Tôi nhìn bà chăm chú rồi cũng cười góp vui. Cười cho bà vui thôi, tôi cũng chẳng có tâm trạng đó lúc này. Bà Tám thấy tôi cười, mặt chợt nghiêm lại:
- Rồi kiếm được việc chưa con?
- Có chỗ gọi rồi nhưng con thấy không hợp.
- Thời buổi thóc cao gạo kém, có chỗ làm tốt rồi, kén chọn chi?
Lại câu nói ấy. Bà nói cứ như thể bà nội tôi, dù tôi với bà chẳng phải họ hàng thân thích. Ừ thì bà cũng cô đơn, tôi cũng thế. Hai người cô đơn giữa Sài Gòn rộng lớn. Đâu ai để ý. Đâu người kết thân. Sao lại cứ tìm đến nhau.
Đường vẫn tắc, chẳng biết nguyên nhân tại sao. Đĩa đu đủ gần hết, bà Tám đứng dậy lấy mấy trái xoài cắt bỏ vào đĩa chẳng cần biết tôi đồng ý hay không.
- Ăn đi tao mời.
- Bà mời thế lấy đâu ra lời?
- Tao hổng cần. Bây đến ăn tao vui rồi.
Tôi quay sang nhìn đường. Vẫn tắc. Lại đưa miếng xoài lên cắn một miếng. Ngọt lịm, thơm mát. Tôi định khen một câu cho bà vui thì thấy bà rơm rớm. Điệu cười xởi lởi móm mém nhường chỗ cho hai giọt nước mắt, thứ hiếm hoi của một cụ già gần đất xa trời.
- Bữa nào cũng vô mà tao chưa biết tên. Bây tên chi?
- Dạ con tên Trung.
- Rồi làm gì cũng trung bình hả con?
Chắc già làm bà lú lẫn. Ai lại đùa thế bao giờ. Không, bà hoàn toàn đúng. Từ học hành đến thể thao, tôi luôn mờ nhạt. Ra trường, làm ở đâu cũng bình thường, không có gì nổi bật. Sự thật trần trụi lắm, tức cũng phải chấp nhận. Miếng xoài trong miệng bỗng trở nên đắng ngắt.
- Còn cháu tao. Nó tên Hạnh mà không có đức hạnh.
Bà Tám lại bắt đầu kể chuyện. Câu chuyện như mọi ngày. Bà kể rồi lại quên. Tám mươi tuổi chứ có ít đâu, câu được, câu mất nhưng cũng đủ để tôi hình dung, rồi lắp ghép lại cho ra một câu chuyện hoàn chỉnh. Người Vĩnh Long lên Sài Gòn làm ăn cũng nhiều, nhưng dân buôn thuyền bán trái bám vào dòng kênh chỉ có vài người. Bà vốn là dân chợ nổi. Ở đó cũng không đến nỗi nghèo, sống trên thuyền nhưng con cái được đi học trên bờ. Đứa con gái duy nhất lại bỏ bà ra đi. Đi vài năm, nó ôm một đứa bé trở về.
- Má hổng giúp con thì ai giúp con nữa?
- Đi đâu thì đi. Để cháu tao nuôi.
Lại sông, lại nước. Lại xách trái cây xuôi dòng đi bán. Định nghỉ, cái tội nợ lại níu chân. Tiền để dành cất nhà trên bờ cũng cho đứa con để nó lập nghiệp. Bà lại tay trắng. Mấy chục năm buôn bán trên sông bỗng tan thành mây khói. Thời gian lặng lẽ trôi, như dòng nước sông Hậu hiền hòa vẫn chảy mãi không ngừng. Con nhỏ Hạnh, cháu gái bà dậy thì, phổng phao, trai theo từng tốp. Học xong lớp 11, nó đột ngột đòi lên Sài Gòn.
- Ngoại cho con tự lập nghen ngoại?
Bà cụ nghẹn ngào:
- Bây thích cứ đi, tao hông cấm. Đừng mang bụng bầu về nghe con.
Bà khóc. Con bé mặc kệ, xách ba lô đi thẳng. Y như rằng hơn một năm sau, nó vác bụng bầu về thật.
- Ngoại còn tiền cho con mượn đi phá thai.
Còn bao nhiêu, bà vét hết đưa nó. Nhìn cháu đi, bà chỉ biết khóc, rồi lắc đầu tuyệt vọng. Dưới sông, con thuyền cũng là tài sản duy nhất còn lại đang lắc lư, chao đảo. Trời chẳng thương bà già tội nghiệp. Có lẽ kiếp trước mang nợ nhiều quá. Rồi một hôm, có người trên Sài Gòn xuống báo tin, con Hạnh làm cave, lại hút chích nên bị bắt rồi. Bà gói ghém đồ đạc, một thân một mình lao vào dòng người đông đúc trên thành phố phồn hoa. Ước mong tìm lại cháu sao mà xa vời quá. Hỏi đủ nơi, tìm đủ chỗ cũng không thấy con bé đâu. Cuối cùng, bà dừng chân ở cái chợ ven kênh này. Toàn dân buôn bán sông nước, sống bám vào chút ồn ào dư thừa của cuộc sống năng động. Cái cuộc sống quá lạ lẫm với người như bà.
Đường đã vãn bớt. Có vẻ cảnh sát giao thông đã tìm ra nguyên nhân gây tắc và giải tỏa nó. Tập hồ sơ bên cạnh đã phủ đầy bụi, tôi phủi qua, đứng dậy dặng hắng:
- Thôi con phải đi. Chào bà nghen!
Bà cụ buông tiếng thở dài đánh thượt. “Ừ bây đi đi. Đi làm phải ngẩng cao đầu nghe con. Đừng dậm chân tại chỗ. Tên Trung mà hổng có được trung bình đâu con. Mà làm chi cũng phải nhớ đến ba má, đừng bỏ gia đình đi nghe con?”. Vừa nói, bà cụ với tay rút tờ giấy ăn, lau lau hai khóe mắt. Già thế, chắc nước mắt chảy cũng cạn rồi. Tôi lại lao vào dòng người vội vã. Đường phố hỗn loạn tiếng máy nổ, tiếng còi xe, nhưng sao tôi không nghe thấy gì cả. Chỉ còn lại nụ cười móm mém, đôi mắt nhăn nheo bên dòng kênh đầy rác rến. Đôi mắt ngày ngày hướng về biển người đông đúc, cố tìm ra chút hy vọng mong manh… Nhưng nhiệm vụ của tôi còn đang ở trước mắt, thành phố rộng lớn này còn biết bao nhiêu cảnh ngộ đáng thương nữa. Tôi tự nhủ, mình phải làm tròn bổn phận, như mong ước của bà cụ già đáng thương kia: “Tên Trung mà hổng có được trung bình đâu con”. Nghĩ về cảnh ngộ, không biết còn bao nhiêu con người, bao nhiêu số phận nổi trôi như thế nữa. Tôi mong ước công sức của mình sẽ góp phần nhỏ bé giải quyết bớt gánh nặng. Mong sao rằng, ở nơi nào đó những phận đời hãy giác ngộ đừng gây ra hoàn cảnh đáng thương cho người khác.