Khi phát tâm Tăng thượng sinh, tu tập pháp môn chân chính bình thường để được tái sinh làm người, làm trời, là con đường hạ sĩ trong Phật pháp. Đây cũng là pháp căn cơ của hàng Thánh xuất thế, cho nên gọi là pháp chung Ngũ thừa. Đây là nói người tu xuất thế Tam thừa Thánh pháp, tuy không cầu quả báo trời người, nhưng không thể không đầy đủ công đức của trời và người. Đây giống như từ Tân Trúc đi Đài Bắc, tuy không phải đến vườn hoa đào thì xuống xe, nhưng lịch trình tất nhiên phải đi qua vườn hoa đào. Như mục đích cầu sinh về nhân gian và sinh lên trời, thì gọi là Nhân thừa, Thiên thừa, là pháp chung cho thế gian của Phật giáo. Như đạo Nho gần với Nhân thừa; Đạo giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo thông với Thiên thừa, tất nhiên đều là pháp thế gian, nhưng cũng có thể đạt đến mục đích sinh làm trời và người. Thế nên người cầu sinh làm trời, làm người, đâu nhất định phải quy y Tam bảo và tu học pháp chung Ngũ thừa của Phật giáo? Phật pháp không có nói: Muốn sinh lại nhân gian và lên cõi trời thì không cần quy y Tam bảo, tu theo Phật thì không thể sinh làm trời, người được.
Thế nhưng, nếu quy y Tam bảo mà tu pháp chung Ngũ thừa, không chỉ ẩn chứa sự xứng đáng mà đã tiến dần vào cửa lớn Phật thừa. Chỉ cần thẳng tiến trên con đường hướng thượng là có thể trực tiếp thể nhập vào pháp xuất thế. Ngược lại, nếu tín ngưỡng những tôn giáo khác, tuy cũng có sinh làm người và trời, nhưng không được tích tập thiện duyên nơi Tam bảo. Hoặc như người phát khởi những cố chấp không cần thiết (thành kiến tôn giáo). So với người theo pháp tu nhân thiên mà tiến nhập vào đại đạo xuất thế, không chỉ không thể thông suốt mà còn bị tắc nghẽn. Cho nên cũng đều là muốn sinh tại nhân gian hay sinh lên thiên quốc, nhưng người quy y Tam bảo tu hành trong Phật pháp vẫn tốt hơn nhiều so với người tu theo các tôn giáo khác!
Người chính tín quy y,
Nên tu bằng chính kiến.
Cùng tu nơi chính mạng,
Thẳng tiến đừng ngại chi.
Thường là những người chính tín với Tam bảo mà thụ nhận pháp quy y để trở thành đệ tử Phật, làm một Phật tử. Đệ tử Phật tu học pháp chung Ngũ thừa thì bắt đầu từ chỗ nào? Theo lý giải từ phương diện Phật học, trước tiên là nên tu với “chính kiến”. Học Phật ở phương diện thực hành, trước nên tu tập trọn đủ về “chính mệnh”. Phật đã từng nói: Người tu rất khó đạt được chính kiến và chính mệnh. Đối với hai lĩnh vực này, nếu như tu tập thành tựu mà thừa thắng xông lên thì không có gì là khó cả. Hướng thượng tu học pháp xuất thế cũng không khó, huống chi là việc cầu sinh chốn nhân gian và lên trời.
Chính kiến là kiến giải chính xác, kiến và tri thức không giống nhau, kiến là chủ trương kiên định từ sự suy luận mà ra, cho nên chính kiến là “chọn lựa pháp lành mà giữ vững nó”1. Học Phật cần có chính kiến, như khi chuẩn bị cuộc hành trình, cần phải một phen hiểu thật rõ và chính xác về con đường sắp đi, để xác quyết đây là con đường chính đi tới đích. Nhận thức chính xác chưa chắc đã trở thành chính kiến. Như ông Ga-li-lê (1564 - 1642) nói rằng, hiện nay quả địa cầu mỗi ngày đều quay quanh mặt trời, đây chính là tri thức. Nhưng Ga-li-lê đã vì sự thật này mà không ngại chịu sự bức hại, giam cầm của Ky Tô giáo, đây mới chính là kiến. Cho nên, cần phải luôn luôn đem sự nhận thức chính xác để tu tập, nuôi lớn chính kiến cho trở nên kiên định vững vàng. Chính kiến, có chính kiến thế gian và chính kiến xuất thế gian. Trong pháp chung Năm thừa vẫn còn là pháp thế gian. Chính kiến tuy có kiên định nhưng chưa đủ mà cần phải có năng lực thật mạnh, như trong kinh có nói: “Giả sử có thế gian, người chính kiến tăng thượng, tái sinh trăm ngàn lần, không hề đọa ác thú”2.
1 Vững vàng kiên định với chọn lựa thiện lành.
2 Tạp A hàm kinh, quyển 28. Đại chính tạng, quyển 2, trang 204c.
Thế nào là chính mạng? Mạng nghĩa là sinh tồn, là cuộc sống. Bất luận là xuất gia hay tại gia đều không thể không sinh sống với các điều kiện như: ăn, mặc, ở, đi lại v.v. Tất cả đời sống kinh tế nhận dùng hợp pháp đều được gọi là chính mạng, hoạt động cuộc sống chính đáng thường ngày rất là quan trọng, bởi đa số những tội ác đều phát xuất từ đời sống kinh tế không chân chính bình thường. Người học Phật tại gia, không chỉ chấp hành luật pháp quốc gia đã quy định, mà còn không được trái với Phật pháp. Như làm nghề sát sinh (giết mổ heo, gia súc…), trộm cắp và tà dâm (làm nghề bán dâm hoặc mở kỹ viện…), nói dối (sống bằng sự lừa gạt người khác, hành nghề giang hồ…), uống rượu (như nghiện rượu và nấu rượu, nghiện thuốc phiện…) đều là nghề nghiệp, nhưng trong Phật pháp gọi là tà mạng “phi luật nghi”, chướng ngại cho việc tiến tu Phật pháp. Người xuất gia, đều dựa vào sự bố thí cúng dường mà sống, là chính mạng. Nếu phục vụ trong ngành y thì hoàn toàn là việc có ý nghĩa không phạm; lấy việc bói toán, chiêm tinh, xem tướng làm nghề nghiệp, hoặc làm những chuyện lừa bịp tín thí đều là tà mạng. Nguồn kinh tế đúng như chính pháp, không hoang phí xa xỉ, không keo kiệt bủn xỉn là chính mạng. Cần phải sống như vậy mới có thể tương ưng với Phật pháp, nếu không thì khó có thể tái sinh trở lại làm người, nói gì đến chuyện vượt thoát sinh tử?
Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Nhật, có vị cư sĩ ở Hồng Kông tu pháp môn niệm Phật một cách vô cùng thành kính, vì nơi ở của ông hoang sơ rộng lớn u nhàn an tịnh, nên đã mời Đại sư Ấn Quang rời khỏi vùng chiến để đến Hồng Kông an trú. Đại sư Ấn Quang hỏi ông ấy, mới biết rằng ông lấy việc sản xuất rượu làm kế sinh nhai. Ngài Ấn Quang nói với vị cư sĩ này rằng: “Ông hãy dừng cái nghề sản xuất rượu đi, tôi mới có thể đến Hồng Kông được”. Nhưng vị cư sĩ này lại không nỡ bỏ nghề nấu rượu. Người học Phật mà không tu chính mạng, có thể là nguyên nhân làm cho Phật giáo Trung Hoa bị suy yếu. Học Phật pháp, nhất định cần phải có nghề nghiệp hợp pháp, thà rằng chịu đựng sự khó khăn ngắn hạn trong việc thay đổi nghề nghiệp, chứ quyết không làm nghề tà mạng trong suốt thời gian dài, dẫn đến hại mình và hại người!
Người chính kiến đã nói,
Thật quán về nhân sinh.
Như ở trên đã nói về chính kiến, rốt cuộc là thế nào? Theo chính kiến của thế gian, chính kiến là những kiến giải chính xác về nhân sinh, và cũng là nhân sinh quan đúng đắn. Ý nghĩa của sự quán sát nhân sinh, người đời nên tuân theo chính đạo, từ sự quan sát chính xác mà trở thành những kiến giải đúng đắn với niềm tin không bị lay chuyển, đó là chính kiến. Đối với người tu học Phật pháp, chính kiến là vô cùng quan trọng, ví như bánh lái của con tàu. Đức Phật từng nói: Rất khó để thành tựu được chính kiến, đặc biệt là những người Phật tử tại gia thì thật là khó đạt được. Như có người vô cùng kính tin Tam bảo, hoan hỷ thực hành hạnh bố thí, hiểu rõ lời Phật dạy, xem như là một người Phật tử điển hình vậy. Nhưng đến khi già yếu, lại nghe lời người khác xúi giục rằng dinh dưỡng trong thực vật là không đủ, thế nên đã ăn chay được mấy mươi năm, giờ trở lại phạm giới sát sinh. Có người bị bệnh phải điều trị dai dẳng, trong thời gian ngắn không thể hết bệnh được, bèn đi cầu thần, xem bói toán, dựa vào đồng bóng, cầu chúa Giê-su, nghe ai nói cái gì cũng đi xem thử xem thế nào. Có người hoàn cảnh kinh tế gia đình không tốt thì lại đi cầu thần tài để mong được trúng số, đi miếu Tiên Ông để cầu mộng. Có một số người tu trì tinh tấn, nhưng đến khi về già, vì yêu tiếc cái thân thể sớm muộn gì cũng mục rữa này mà đi luyện tinh, luyện khí, nghiêng hết về phía ngoại đạo tà giáo. Mấy năm trước ở Đài Bắc có một vị Phật tử, nghe nói là có tu có học, nhưng chỉ vì muốn có sức khỏe và trường thọ mà đi làm thủ thuật cấy ghép não khỉ vào tuyến thùy dưới, kết quả là bị mất mạng. Đây đều là không có đầy đủ chính kiến, chẳng thể thành tựu niềm tin kiên định không nghi ngờ, đây mới chỉ do hoàn cảnh và thân thể không được tốt thì đã bị dao động và chuyển hướng rồi. Người học Phật, khoan hãy nói về chuyện sinh tử, khai ngộ… mà trước tiên nên tu cho thành tựu chính kiến rồi hãy nói.
Tâm tịnh hay bất tịnh,
Lợi người hay hại người,
Hành thiện không hành thiện,
Phật tử nên thấy rõ.
Phật nói về chính kiến thế gian, trong kinh có những câu văn nhất định, hiện tại giản lược phân thành bốn loại: Chính kiến có thiện có ác. Cần tin rằng khi chúng ta khởi tâm làm việc, có việc thiện và việc bất thiện, cũng như việc đạo đức và việc không có đạo đức. Chính kiến theo Phật pháp, từ việc xác định cách nhìn của thế gian (xuất thế gian) có sự vận hành của quy luật đạo đức. Nếu như kiên quyết phủ định đạo đức, tất nhiên là rơi vào tà kiến rồi, cũng giống như lục sư ngoại đạo ở Ấn Độ, triết học hòai nghi, thuận thế ngoại đạo của duy vật luận v.v.
Thế nào là thiện và bất thiện? Từ trong nội tâm của mình: “Tâm tịnh” là thiện, còn nếu tâm “bất tịnh” tức là bất thiện. Nội tâm của chúng ta thường có một số những nhân tố nhiễm ô làm phiền động não loạn (phiền não), nếu như trong tâm không khởi tạp nhiễm phiền não mà lại khởi những nhân tố thanh tịnh thì đấy là thiện. Nếu như có tâm tương phản với tham, sân, si, tức là vô tham, vô sân, vô si, quý trọng điều thiện lành mà biết hổ thẹn và cự tuyệt những điều xấu ác, khiến cho tâm có niềm tin an định và trong sáng, tinh tấn thực hành ngăn chặn điều xấu, phát triển điều tốt. Đây tất cả đều là thiện, là lành vậy. Ngược lại, nếu tham lam, sân hận và mê si, không biết hổ thẹn, không có niềm tin, sống buông thả v.v.; ấy chính là bất thiện và bất tịnh vậy. Từ những việc làm ảnh hưởng đến mọi người, thì việc gì lợi ích cho mọi người là thiện lành, nếu có sự tổn hại đến tha nhân chính là điều bất thiện. Người với người (người với chúng sinh) đều có những mối quan hệ xã hội, nên tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng có lợi ích, phải tuân theo phép tắc chung của cộng đồng để có sự hòa đồng vui vẻ. Nếu những việc làm xâm hại đến cộng đồng nhưng mang lợi ích cho mình (tổn tha lợi kỷ) đều là việc xấu ác không nên làm. Nếu là việc cống hiến lợi ích to lớn cho mọi người nhưng phải hy sinh lợi ích của bản thân mình (tổn kỷ lợi tha), thì đấy cũng là điều tốt nên gắng làm. Từ trong nội tâm mà ảnh hưởng ra bên ngoài, quyết định sự khác nhau của việc thiện và việc bất thiện. Hành, mà hành vi tác động từ nội tâm gọi là ý hành, hành động từ thân thể gọi là thân hành, và hoạt động ngôn ngữ gọi là ngôn hành. Ở đây hàm chứa cả điều thiện và bất thiện, cho nên nói làm lành và làm ác. Tất cả chúng ta đều là đệ tử Phật, là những người tiếp nối sự truyền thừa đạo nghiệp của Như Lai, nên phải quán sát thật cẩn thận. Không chỉ phải xác thực niềm tin với thiện và bất thiện, mà còn phải biết phân biệt thiện ác rõ ràng, nuôi lớn chính kiến kiên định không hoài nghi làm thước đo cho sự tu hành và tiến bộ trong tâm ý của tất cả chúng ta.
Quả báo ắt do nghiệp.
Từ nhỏ chuyển thành lớn,
Có thể thiếu hoặc dư,
Quyết định hoặc bất định,
Đời này hoặc hậu báo,
Các nghiệp không hoại mất.
Chính kiến có nghiệp có báo, có thiện có ác, đây ngoại trừ một số ít tà kiến, thông thường thì đa số mọi người đều tin nhận điều này. Thế nhưng thiện với ác, ước theo giá trị hành vi mà nói, tự đi tới quả báo của nó. Nếu không thể có chính kiến vững vàng đối với một số trường hợp, hoặc trong hoàn cảnh nào đó, thì tin và giải thích về thiện ác sẽ bị dao động.
Ngày xưa có một vị đại thần trung quân ái quốc, bị nhà vua xử tội tử hình. Lúc sắp chết, ông nói với con rằng: “Ta muốn dạy con làm việc ác, thế nhưng việc ác làm không được. Ta muốn dạy con làm thiện, ta như vậy chẳng phải là làm mất việc ác sao!”1. Ông ta tự mình làm thiện nhưng lại không nhận được kết quả tốt, thế nên đối với thiện ác phát sinh nghi hoặc. Cho nên, không chỉ phải có chính kiến về thiện ác, mà còn phải có chính kiến về quả báo của thiện ác.
1 Hậu Hán thư - Phạm Bàng truyện.
Tất cả chúng sinh đều có hết thảy quả báo, tất nhiên đều là do nghiệp lực chiêu cảm. Có tạo nghiệp tất nhiên sẽ có quả báo, có đủ các loại khác nhau về nghiệp, nên sẽ có đủ những sự báo ứng khác nhau. Nghiệp thì nhiều vô số và vô cùng phức tạp, vì vậy quả báo cũng nhiều vô kể và lại phức tạp vô cùng. Thế “Nghiệp” là gì? “Báo” là gì? Nghiệp là sự kết tập của các hành động. Trong nội tâm chúng ta, lời nói và hành động đều do sự suy nghĩ và sức mạnh của ý chí tác động, đây đều là nghiệp. Nhưng hiện tại cần nói là chỉ có hoạt động hoặc thiện hay ác từ thân, khẩu và ý của chúng ta mà dẫn khởi động lực của nghiệp, đây chính là giá trị của đạo đức hay phi đạo đức. Nghiệp của việc làm thiện hay làm ác cũng giống như năng xuất của người lao động vậy, nghiệp lực cũng như tiền công hoặc giá trị mà người làm được trả. Dựa vào công sức, hay mức tiền lương của người lao động, mà có thể đổi được những vật phẩm cần dùng tương xứng, cho nên mỗi loại nghiệp sẽ nhận về một loại quả báo riêng. Nói đến báo, ý nghĩa thật chặt chẽ là “dị thục”1, “dị loại nhi thục”2, trong mối quan hệ nhân quả này, thuộc loại nhân quả không đồng nhau. Như làm thiện thì được phúc lạc của cõi trời, làm ác thì chịu quả thống khổ nơi địa ngục. Tùy theo nghiệp lực đã tạo mà chiêu cảm quả báo vui hay khổ, đây là điều quan trọng trong nhận thức chính kiến. Chỉ có như vậy, thiện ác mới có giá trị nhất định của nó.
1 Từ dùng để chỉ chung cho quả báo của cái nhân thiện hay ác đã tạo ra từ đời trước. Vì quả khi chín (thục) thì tính chất lại khác (dị) với nhân nên gọi là dị thục. Kết quả đã chín (dị thục) của nghiệp thiện và bất thiện.
2 Khác loại mà chín: Khi chưa chín, trái chuối có vị chát, đến khi chín lại có vị ngọt. Dị loại: Khác tính chất.
Liên quan đến ý nghĩa nghiệp báo, nên nói giản lược mấy điều trọng yếu này.
1. Nghiệp lực rất nhỏ lại có thể chuyển biến thành rộng lớn. Đây là nói nghiệp thiện hay ác, tuy là nhỏ nhưng tạo tác liên tục không gián đoạn, lâu ngày sẽ tích tập thành nghiệp lực rất lớn như Pháp cú kinh nói rằng: “Chớ xem nhẹ ác nhỏ, cho rằng không tai họa, giọt nước tuy nhỏ bé, lâu dần đầy chum to”1. Nghiệp thiện cũng như vậy. Như người xưa từng nói: “Chớ cho rằng việc ác nhỏ mà vẫn làm, đừng cho rằng việc thiện nhỏ mà không làm”, ý nghĩa đều giống nhau. Còn nếu như tạo nghiệp ác hại người, xưa nay chẳng thể tính được rộng lớn ra sao, nhưng tự người ấy đối với mỗi nghiệp ác mình đã làm đều cảm thấy thỏa mãn và đắc ý, sự vui theo ác nghiệp ấy cứ tiếp diễn không dứt thì lực dụng của nghiệp ác nhỏ sẽ trở thành to lớn, với nghiệp ác lớn cũng vậy. Giống như thế, tuy chỉ là nghiệp thiện rất nhỏ thôi, nhưng nếu mình thường sinh tâm hoan hỷ với những điều thiện đã làm được thì dù cho điều thiện nhỏ cỡ nào cũng dần dần trở thành thiện nghiệp lớn lao. Vì vậy, chúng ta đừng nên xem thường nghiệp, không nên vui theo với nghiệp ác mà chỉ nên tùy hỷ với nghiệp thiện.
2. Trong tất cả các nghiệp, có một loại nghiệp lực vô cùng mạnh mẽ, có thể dẫn chúng ta đi nhận báo ở một thú trong năm thú như: hoặc sinh lên trời, hoặc đọa xuống địa ngục, hoặc đọa làm bàng sinh. Trong đó lại có các loại nghiệp khác nhau như trong bàng sinh lại có nghiệp sinh làm loài hổ hay loài cá v.v. Thường là do nghiệp lực mạnh mà cảm thụ một loại nào đó trong tổng thể các loài thú (đắc uẩn, đắc xứ, đắc giới), trở thành chúng sinh trong bàng sinh, gọi là nghiệp dẫn. Còn có một loại nghiệp, tuy không thể dẫn chúng ta cảm thụ vào tổng báo của sinh tử, mà có thể khiến chúng ta đối mặt với nhiều phương diện của một báo thân này, đạt đến quyết định viên mãn, gọi là mãn nghiệp. Như được sinh làm người, nhưng lại có muôn vàn sai khác trong cõi người này, người là tổng thể cảm thụ quả báo của nghiệp lực dẫn dắt. Khác nhau như sáu căn đầy đủ hay khuyết thiếu, tướng mạo được trang nghiêm hay xấu xí, dung sắc đen hay trắng, đôi mắt tinh anh hay bị khiếm thị, tiếng nói có trong trẻo hay thô tháo, thanh thoát hay khàn đục khó nghe… Những người này có nhiều sai khác bất đồng đều là do cảm ứng đầy đủ của nghiệp mà tạo ra. Tuy nhiên, trong đó cũng có sự sai biệt giữa nghiệp báo với công lực hiện sinh (trưởng dưỡng), như tầm nhìn của con người bị hạn chế ở một giới hạn nhất định (cũng là mỗi người mỗi khác), đây là nghiệp lực. Thông qua dược phẩm, dinh dưỡng, chăm sóc, luyện tập, giúp duy trì hạn sử dụng đến mức tốt nhất, hoặc người già nhưng nhãn lực rất tốt, đây chính là có dựa vào công lực đời này đã nuôi dưỡng.
1 Pháp cú kinh, quyển thượng. Đại chính tạng, quyển 4, trang 55a.
3. Nghiệp lại có hai loại: quyết định hoặc bất định, trong đó có sự bất đồng giữa thời gian và quả báo. Có loại nghiệp, để cảm thụ quả báo thế nào thì đã định rồi, nhưng khi nào thì thụ nhận quả báo, hiện tại hay là tương lai thì không quyết định được. Có quả báo với thời gian thụ quả báo đã được định rồi, ở đây giống như đã tạo năm tội vô gián: giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm thân Phật chảy máu, và phá hòa hợp Tăng, kiếp sau nhất định bị đọa xuống địa ngục. Cũng có quả báo với thời hạn không quyết định được, ở đây đại thể là nghiệp nhẹ. Theo như cổ Đức có nói: “Tất cả nghiệp, đều là không quyết định được”. Nói cách khác, tính chất của tất cả nghiệp đều có thể cải thiện. Cho nên, chỉ cần hạ quyết tâm, thì nghiệp ác nào cũng có thể chuyển nặng thành nhẹ, hoặc có hy vọng được bất định thụ báo. Muối dụ kinh nói: “Khi đã phạm ác nghiệp trọng đại, chỉ cần có đầy đủ thời gian” (như già chết bức bách thì khó). Nhưng dựa vào Quán Vô Lượng Thọ kinh, còn có một pháp niệm Phật Di Đà, nếu hạ quyết tâm “tu thân, tu giới, tu tâm (tu định), tu tuệ”, nghiệp nặng có thể trở thành nghiệp nhẹ hoặc nghiệp bất định. Ví như đem một lượng muối lớn bỏ xuống dòng sông dài rộng, nước sẽ không vì thế mà bị mặn. Ngược lại, nếu như chỉ tạo tội tương đối nhẹ, mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, thì cũng chịu sự chiêu cảm quả báo khổ. Điều này giống như một lượng muối nhỏ, để vào trong một cái cốc nhỏ, thì nước trong cốc cũng trở nên mặn chát1. Ở đây có thể minh chứng cho nghiệp bất định. Trong pháp Đại thừa, quán nghiệp tính vốn không, có thể chuyển hóa, sám trừ tội nặng muôn trùng, cũng chính là ý nghĩa của việc tu tuệ.
1 Trung A hàm kinh, quyển 3, (Diêm dụ kinh). Đại chính tạng, quyển 1, trang 433c–b.
Vì thế, khi đã phạm ác nghiệp nặng, đừng nản lòng, nên tha thiết sám hối và tu học Phật pháp.
4. Từ việc tạo nghiệp với thời gian thụ báo, có thể phân thành ba thời của nghiệp: “Hiện báo” nghiệp, là đời này tạo nghiệp, hiện tại phải chịu nhận quả báo. “Sinh báo” nghiệp, là đợi thân này sau khi chết mới chiêu vời quả báo. “Hậu báo” nghiệp, là sau khi tạo nghiệp, cần phải cách một đời, hai đời, hoặc trải qua trăm ngàn đời sau quả báo mới đến. Cho nên, việc tạo nghiệp và chịu quả báo, không thể đơn giản tại ngay đời này mà suy nghĩ bàn luận được. Như trong kinh nói rằng: “Làm ác gặp vui, vì nghiệp chưa chín, đợi nghiệp chín rồi, sẽ tự chịu khổ; làm thiện gặp khổ, quả thiện chưa chín, đợi quả thiện chín, tự thấy điều vui”1. Ở đây là hiện báo của nghiệp trong ba đời, có thể là nghiệp báo nhẹ, cũng có thể là quả báo của nghiệp nặng. Cho nên quả báo trong đời này, tất cả đều là do nghiệp lực thiện ác từ trước đến nay chiêu cảm quyết định; nếu còn chưa chết thì không thể có cơ sở cho sự thay đổi quan trọng được. Nghiệp nhẹ tại sao vẫn có thể thụ báo trong hiện tại? Bởi vì nghiệp nhẹ không thể thay đổi quả báo quan trọng trong đời này. Ví dụ như chính phủ do một đảng nắm quyền, tự có một chính sách căn bản, không thể trái nghịch với những cải cách quan trọng. Trong khi đảng tự do có ý kiến không quan trọng, thì chính quyền hiện tại vẫn phải vui vẻ tiếp nhận. Nghiệp trọng vì sao phải nhận quả báo trong đời này (đối với quả báo tương lai mà nói)? Bởi vì nghiệp lực quá nặng, nên đối với toàn thể thụ báo trong hiện tại đã chịu sự ảnh hưởng vô cùng quan trọng. Đây cũng như trường hợp đảng tự do đã có thế lực quá lớn mạnh, cho nên chính quyền hiện tại không thể không tiếp thu ý kiến, chỉ cần không có sự nguy hại đến sự tồn vong của chính quyền và chính sách chủ yếu của đảng này là tốt rồi. Đến cả nghiệp báo đời này và nghiệp báo đời sau, đều là có nặng có nhẹ.
1 Pháp cú kinh. Khảo sát nguyên văn, quyển 3.
Nói tóm lại, nghiệp có nhiều chủng loại khác nhau, nhưng có một điểm tuyệt đối tương đồng là các nghiệp trước khi tiếp nhận quả báo, nếu chưa chứng đạt đến quả vị giải thoát, thì dù thế nào cũng không bị mất đi. Có nghiệp thì phải có quả báo, nếu đời này chưa thụ báo, đời sau cũng chưa thụ báo, thì hàng ngàn hàng vạn đời sau nghiệp lực sẽ chiếu rõ tồn tại, chỉ cần nhân duyên hội đủ thì ắt phải chịu quả báo. Phẩm Duyên khởi trong Tam muội thủy sám kể rằng: Vào thời Tây Hán, vì Viên Áng bị trúng thương mà giết lầm Triều Thác. Nghiệp sát sinh của Viên Áng (giáo tha sát), mãi nhiều kiếp vẫn chưa chịu quả báo. Đến một kiếp, tái sinh lại làm Ngộ Đạt quốc sư vào cuối thời nhà Đường. Ngộ Đạt quốc sư vì tham nhiễm chiếc ghế trầm hương do nhà vua ban tặng mà chiêu cảm nghiệp ác, khiến sinh ra một cái mụn ghẻ mặt người trên chân ngài. Đây là thuyết xưa kể lại, nhưng biểu thị ý nghĩa rằng nghiệp lực không bao giờ mất đi, chỉ là chưa đủ duyên để trổ ra thôi.
Tùy nghiệp báo thiện ác,
Năm thú thường lưu chuyển,
Tùy trọng hoặc tùy tập,
Hoặc lại tùy ức niệm,
Do nghiệp đến sau này,
Củi tắt lửa truyền lại.
Chính kiến có đời trước có kiếp sau, có thiện ác báo ứng, đa số người đều có thể tin nhận; nhưng có một số người chỉ tin nghiệp báo trong hiện tại, mà không tin nghiệp báo ở kiếp sau. Thực ra, việc làm ác hay thiện, quả báo trổ ngay trong hiện đời chỉ là một phần rất nhỏ, vậy nên không thể hiểu lầm rằng “thiên đạo vô tri”. Có một số người chỉ tin nghiệp báo thiện ác được thụ nhận tại đời con cháu, như nói: “Trong nhà tích thiện, ắt dư niềm vui, nhà nào bất thiện, tất thừa tai họa”. Người Trung Quốc nói đến họa phúc tốt xấu, đại khái không ra ngoài hai điều. Không biết trong thế gian rất nhiều trường hợp cha hiền lành mà con lại bất hiếu, cha thất đức nhưng con lại thiện lương. Với lại nếu không có con cháu, thì nghiệp thiện ác của người ấy há lại bỏ không hay sao? Có một số người, chỉ tin đời này đến đời sau thôi chứ không tin đời trước, ví dụ như đạo Ky Tô chẳng hạn. Tuy dựa vào đó có thể giúp người hướng thiện xa rời cái ác, nhưng không thấu rõ về đời quá khứ, đối với muôn ngàn sai biệt của quả báo trong đời này thì không thể giải thích rõ ràng, cũng không thể khiến cho người ta phát khởi niềm tin đúng đắn và hợp lý. Chúa Giê-su nói: Người bị mù là vì thần muốn hiển hiện quyền lực trên thân thể người ấy. Kỳ thật Giê-su không thể trả lời thỏa đáng vấn đề này, bởi vì trong thế giới ngày nay tại sao người bị mù lại nhiều như vậy? Cho nên, không chỉ cần phải có chính kiến về thiện ác nghiệp báo, mà cần tiến một bước là phải kiên định với niềm tin được lý giải về kiếp trước và kiếp sau, qua đó có được chính kiến.
Chúng sinh tạo tác biết bao nhiêu là thiện nghiệp, ác nghiệp, dẫn nghiệp, mãn nghiệp, sinh báo nghiệp, hậu báo nghiệp v.v. Tùy theo nghiệp lực như vậy mà cảm thụ quả báo trong đời sau. Nghiệp thiện, thì quả báo được sinh làm trời, người trong cõi thiện. Nghiệp ác, thì báo ứng sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh. Địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, người, trời, được gọi chung là “năm thú”. Chúng sinh từ vô thủy đến nay, tùy theo nghiệp lực thiện ác, thường lưu chuyển luân hồi trong năm thú từ đời này sang kiếp khác nối tiếp nhau không dứt. Thú, là thú hướng, là tùy nghiệp mà tái sinh về một nơi trong năm đường như vậy, cho nên gọi là năm thú. Hoặc thêm A tu la (dịch ý là phi thiên) nữa được gọi là “lục đạo”, đạo là một cách dịch khác của thú. Trong kinh luận của Đại thừa và Tiểu thừa, hoặc nói năm thú, hoặc nói lục đạo. A tu la thường ở trong biển lớn, số lượng không nhiều, cho nên nếu đưa vào quỷ thú hay bàng sinh thú thì được hợp thành năm thú. Lưu chuyển tức là luân hồi, đây chẳng phải nói là thăng trầm trong năm thú, kiếp trước tới đời sau đều phải theo thứ tự nhất định, là nói được thăng lên hoặc bị đọa xuống, chuyển đến chuyển đi, chung quy cũng không thể ra khỏi phạm vi năm thú. Lấy đời này mà nói, những nghiệp đã tạo thật khó mà tính được. Hơn nữa nghiệp lực trong kiếp đã qua vẫn còn dư, lại được tích lũy đến hiện tại, thật là nghiệp trước chưa trả xong, nghiệp sau đã lại đến. Như vậy ngày càng kết nhiều thêm nghiệp sinh tử vậy, thế rốt cuộc thì một loại nghiệp báo được chiêu cảm sau là gì? Ở đây thật sự chẳng thể xác định được, nhưng không ra ngoài ba loại:
1. Có “tùy trọng”: Hoặc tạo tác nghiệp thiện thật to lớn, hoặc gây ra ác nghiệp rất nghiêm trọng như năm tội vô gián… Nghiệp lực to lớn dị thường, dù cho có ý thức hay không ý thức, nghiệp nặng vẫn luôn chiếm một địa vị rất quan trọng. Đến khi người sắp qua đời, hoặc thấy địa ngục hay thấy thiên đường, thì nghiệp tướng xuất hiện trước mặt, là dấu hiệu cho thấy được lên cao hay bị đọa xuống. Theo đó, hoặc nghiệp thiện lớn hay nghiệp ác nặng mà khởi lên tác dụng chiêu cảm quả báo quyết định trong tương lai.
2. Hoặc có “tùy tập”: Tức là không có ác nghiệp lớn, cũng không có thiện nghiệp lớn, một kiếp cứ thế bình bình trôi qua. Trong một đời này, tuy không hiển lộ trọng nghiệp, nhưng những việc thiện ác đã làm trong quá trình trạng thái lâu dài đó, đối với mỗi một loại thiện hoặc ác nghiệp, được nuôi lớn thành một loại tập quán tính, đây cũng có năng lực rất quan trọng. Khi người đó sắp mạng chung, loại nghiệp lực của tập quán này, tự nhiên sẽ dẫn khởi tác dụng mà quyết định chiêu cảm quả báo cho đời sau. Thời xưa, Đại Danh trưởng giả hỏi Phật: “Con thường ngày niệm Phật, không mất chính niệm. Tuy nhiên, có lúc đi ngoài đường đến ngay ngã tư, thấy người đông quá và ngựa xe tấp nập, đến nỗi niệm Phật chính niệm cũng bị quên luôn. Con chợt nghĩ, ngay tại lúc đó mà chẳng may qua đời, thì không biết có bị đọa lạc hay không?”. Đức Phật nói với ông rằng: “Sẽ không bị đọa lạc. Bởi ông thường ngày niệm Phật, đã nuôi dưỡng thành tập quán thiện hướng về Phật, dù mất đi chính niệm mà chết cũng sẽ được sinh lên cảnh giới tốt đẹp. Bởi vì nghiệp lực lớn mạnh, không nhất định phải tương ưng với tâm. Như một gốc cây lớn nghiêng về phía Đông Nam, thì khi cây bị đốn hạ, chắc chắn nó sẽ ngã về hướng Đông Nam”1. Cho nên, bỏ ác làm thiện, mới có thể tạo được nghiệp thiện to lớn, đương nhiên là rất tốt, việc gấp rút nhất chính là mỗi ngày tu hành, nuôi lớn tập tính thiện lành, khi chết tự nhiên sẽ theo nghiệp lực mà được đi lên.
1 Tạp A hàm kinh, quyển 33. Đại chính tạng, quyển 2, trang 237b–c.
3. Hoặc có “tùy ức niệm”: Người mà khi còn sống không tạo được thiện nghiệp lớn hay gây ác nghiệp nặng, cũng chưa từng tạo tác thành tính tập quán cho nghiệp thiện hoặc ác, đến khi sắp chết, hoảng hốt hoang mang, tình thế không biết sẽ đi về đâu. Đến gần cuối, bỗng nhiên nhớ lại việc thiện đã từng làm, thì có thể dẫn phát nghiệp thiện mà cảm thụ quả báo lành sinh lên cõi trời, cõi người. Nhưng nếu bỗng nhiên lúc đó nhớ lại những việc ác đã làm lúc còn sống, thì sẽ vì thế mà đi theo sự dẫn dắt của nghiệp ác chiêu cảm quả báo đọa lạc ác đạo. Đối với những người này, trong lúc sắp chết mà nhớ lại ký ức là việc rất quan trọng. Cho nên, khi người nào đó đang hấp hối, việc tốt nhất là thuyết pháp cho họ nghe, giúp họ niệm Phật, nhắc cho họ nhớ lại những việc thiện mà họ đã làm trong đời mình khiến họ hồi tưởng lại những việc thiện, qua đó có thể dẫn phát thiện nghiệp mà cảm thụ quả báo lành. Phương pháp trợ niệm trước lúc lâm chung của Tịnh Độ tông, chính là chứa đựng đạo lý này vậy. Nhưng có điều, đây chỉ là trường hợp “tùy ức niệm”, như những trường hợp chúng sinh có “tùy trọng” hay “tùy tập” nghiệp, khi sắp lâm chung, nghiệp lực lớn nhất của “trọng nghiệp” và “tập nghiệp” là ác thì rất khó khiến họ nhớ đến Tam bảo. Hoặc cảm nhận được công đức lớn của các việc bố thí, trì giới, cho đến học Phật tu hành rốt cuộc cũng là việc gấp rút!
Chúng sinh còn trong sinh tử thì không thể tự tại, đều phải nghe theo sự sắp đặt của nghiệp lực. Sinh mạng hiện tại này, khi trải qua giai đoạn tử vong, thì theo nghiệp chuyển mà bắt đầu tiếp nhận một đời sống mới, về sau cũng vậy. Chết như vậy rồi lại sinh, giữa kiếp trước và đời sau, không khác cũng không giống, không gián đoạn cũng không thường hằng mà tiếp nối mãi không dứt, đây quả thật là vấn đề rất thâm sâu không dễ gì nhìn cho rõ được. Do nghiệp cảm mà nhận về quả báo, sinh tử tiếp nối nhau bất tận, các bậc Thánh nhân không hề có sự nghi ngờ gì về điều này, đặc biệt là những vị chứng đắc thiên nhãn thông (ngoại đạo cũng có thể chứng được, cho nên ngoại đạo cũng có ít nhiều tin giải vào nghiệp báo của kiếp trước với đời sau). Ở đây tuy là nhìn rõ như vậy, nhưng người bình thường không có trí thanh tịnh, đối với chuyện khi còn sống đến sau khi chết thì hoàn toàn mù tịt, không biết gì cả. Tuy có một số rất ít người thấy được nhân đời trước, có thể biết được kiếp trước, cũng bị những nhà duy vật luận tầm thường áp chế. Cho nên, tốt nhất là tu học theo Phật pháp đạt được trí tuệ thanh tịnh, phát triển được thiên nhãn thông, rồi tự mình thực chứng được vấn đề này. Hơn nữa, duy chỉ có niềm tin vào lời dạy của Đức Phật, mà có thể dùng chân lý trí giải thích rõ vấn đề này.
Giáo lý giải thích rõ, mới học thật là không dễ, ở đây tạm lấy một ví dụ như: “Củi hết lửa truyền đi” để thuyết minh rõ. Trang tử nói: “Lửa của củi truyền đi, không biết khi nào hết”1. Đại sư Lô Sơn Viễn Công, đã từng dẫn dụ để so sánh đạo lý của việc sinh tử tiếp nối bất tận. Như ánh lửa của đống củi khi được đốt cháy, đợi đến khi củi tàn lửa tắt, lại đốt tiếp một đống củi khác, lửa lại càng cháy lớn. Củi trước không phải là củi sau, lửa sau cũng không phải là lửa trước, mà không thể không nói lửa sau là do lửa của củi trước mà có. Giống như nói, sinh mệnh của đời trước khi ngừng hoạt động, thì một sinh mệnh mới được khởi đầu, đời trước không phải là kiếp sau, mà kiếp sau chính là dựa vào nghiệp lực của đời trước mà có. Tuy nhiên từ tử đến sinh, thời gian với không gian, đều có thể có khoảng cách, cho nên việc tái sinh sau khi chết được tiếp nối như thế nào, thì cần phải giải thích.
1 Trang Tử - Dưỡng sinh chủ.
Theo nghĩa lý thâm sâu của Phật pháp, hoạt động của thân và tâm là sự hiển hiện hình thái của sinh mệnh. Ngay lúc chết đi, thân tâm mau chóng mất đi, những biểu hiện hoạt động của thân và tâm (trong lúc đó) bị dừng lại, nhưng mà những hoạt động đã qua của thân và tâm không phải là không có, đây là “nghiệp diệt qua đi, công năng không mất” (đây được quyền nói là sinh mệnh đang tiềm ẩn). Đợi đến lúc nhân duyên chín muồi, nghiệp lực trong quá khứ sẽ dẫn phát một hoạt động của thân tâm mới, để bắt đầu cho một sinh mệnh mới. Ở đây lại lấy thí dụ như lửa củi cháy hết: Khi lửa đốt vật, phát ra nguồn nhiệt năng mạnh mẽ, như biểu hiện hoạt động của sinh mệnh. Đợi tới khi lửa cháy xong rồi, ánh sáng của lửa tắt ngấm, đây giống như kết thúc giai đoạn của một sinh mệnh, là sự chết. Lửa tắt, than nóng dường như cũng không còn, nhưng bỗng nhiên có vật gì đó dễ cháy rơi vào, lại gặp cơn gió nhẹ thổi đến thì tro tàn kia sẽ bùng cháy trở lại, và hình thành nên một đám cháy mãnh liệt khác. Đây giống như nhân duyên hợp thời tụ hội đầy đủ, nghiệp lực trong quá khứ sẽ lại dẫn phát hình thành nên một sinh mệnh mới. Tro tàn bỗng nhiên bén lửa trở lại, không phải là lửa cháy lần trước, mà nó có mối liên hệ đến lửa cháy của lần trước; ở đây y như kiếp trước thì không phải là đời sau, nhưng sự vận hành của nghiệp giữa đời sau và kiếp trước có mối quan hệ mật thiết. Từ lửa trước tiếp đến lửa sau, trên mặt thời gian có thể có gián đoạn, như giữa đời sau và kiếp trước, thời gian và không gian đều có khoảng cách. Nhưng ở đây chỉ là ví dụ mà thôi. Nói một cách ước lệ theo Phật pháp, nghiệp lực trong quá khứ cũng như là huyền ảo trong pháp tính Không. Vốn không thể nói có sự gián đoạn về không gian và thời gian, chỉ là khi nhân duyên hòa hợp (như con người, cần phải có sự hòa hợp giữa tinh cha và huyết mẹ…), thì có thể tại một thời gian, một không gian nào đó, bỗng nhiên dẫn phát một sinh mệnh mới với hoạt động bắt đầu cho một giai đoạn mới.
Sinh tử thường nối nhau,
Bậc Thánh được giải thoát,
Phàm Thánh buộc thoát khác,
Tin sâu đừng nghi hoặc.
Chính kiến có phàm phu, có Thánh nhân, có thiện ác, nghiệp báo, có kiếp trước đời sau. Tuy nhiên rất khó đạt được chính kiến, như không tin cảnh giới giải thoát của Thánh nhân, chúng sinh thật là khổ! Lưu chuyển trong năm thú, sinh tử tử sinh, thăng trầm lên xuống như vậy, đây chính là vở bi kịch của nhân sinh diễn hòai không hết, làm sao được! Nhân sinh quyết không nên tuyệt vọng như vậy, vững tin vào cảnh giới tự tại giải thoát của Thánh giả, mới có thể tinh tiến hướng tới phá bỏ vô minh mà mở ra ánh sáng vô biên. Cho nên, cần có sự thấy biết đúng đắn, cuộc đời này có phàm phu và có cả Thánh nhân.
Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, thường sống chết luân hồi lưu chuyển trong năm thú, đây thông thường là những hạng phàm phu. Trải qua sự tu hành mà chứng đắc Thánh quả, có thể giải thoát khỏi biển khổ sinh tử. Như thế nào được xem là bậc Thánh? Nếu hành giả có thể phát sinh trí tuệ thanh tịnh vô lậu, thể chứng pháp tính chân như của tất cả các pháp, tức là Thánh nhân (đừng nhầm lẫn với những người thế gian giả danh Thánh nhân). Thánh nhân cũng có rất nhiều giới vị, nhưng với hạng phàm phu thì tất nhiên có điểm bất đồng, như có được trí tuệ thanh tịnh, chứng được chân lý. Thế nào gọi là giải thoát? Giải tức là giải trừ, thoát là thoát ra. Chúng sinh sống trong sinh tử không được tự tại, giống như bị dây thừng trói buộc, trong lưới bủa vây. Thánh nhân khi đạt được trí tuệ thanh tịnh, thì cắt đứt được phiền não là gốc rễ của sinh tử, đến đây mới được giải thoát khỏi sinh tử và đạt được an lạc chân thật.
Thánh nhân và phàm phu, vốn như nhau về thụ báo có “thân” và “thức”. Chỉ bởi vì phàm phu ngu muội lấy vô minh làm chủ, đấy chính là sự trói buộc tiếp nối trong sinh tử, không được tự tại. Thánh giả do tu trì mà đạt được trí tuệ thanh tịnh, lấy trí tuệ làm chủ, đấy chính là thoát khỏi sự trói buộc của sinh tử. Đây chính là điểm khác biệt giữa ràng buộc và giải thoát của phàm và Thánh, nhất định cần phải thấu hiểu một cách triệt để, giữ một niềm tin vững chãi đừng nên nghi hoặc dù chỉ là rất nhỏ. Bởi vì có thể tin rằng có Thánh nhân, có giải thoát; tin Thánh nhân có được trí tuệ chân thật, có năng lực lớn đối với những công đức như: tam minh, lục thông, thập lực, tứ vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Phật, v.v. đều có thể tin nhận. Nếu được như vậy, thì có thể phụng hành pháp môn Nhân thừa và Thiên thừa, hiện tại chưa thể thụ trì pháp môn xuất thế trong Phật pháp, cũng có thể dần dần nuôi lớn thành pháp môn giải thoát xuất thế. Nếu không, tất cả công đức của chư vị Thánh nhân đều không thể tin rồi, đây không chỉ là phỉ báng sự thật, huân tập thành những loại chủng tử tà kiến, và làm chướng ngại việc tiến tu của mình. Có một số người tự cho mình thông minh, đem cái thấy biết của phàm phu mà đánh giá tất cả, thấy rằng mình không phải là Thánh nhân, không có trí thanh tịnh, không có thần thông, con người chẳng qua cũng chỉ vậy thôi, làm gì có Thánh nhân trong đó chứ? Những người như vậy thật đáng thương vô cùng. Giống như dùng đất sét làm bánh, chưa qua sự nung nhiệt của lửa, nên khi gặp nước liền bị rã, gió thổi nắng rọi lâu dần cũng tan hoại. Nếu trải qua công đoạn lò nung sẽ trở thành chiếc bánh gốm sứ, gặp nước không rã, gió thổi nắng chiếu cũng không tan hoại. Chuyện thế gian thô thiển, trải qua việc tập luyện còn có những bất đồng rất lớn, thế nào mà tự xưng con người là “linh hồn của vạn vật”! Lẽ nào tu hành theo chính pháp, trải qua sự huân tập rèn luyện nhiệt năng của trí Bát nhã, mà vẫn còn phàm phu như thế sao? Sự tồn tại Thánh nhân và phàm phu, nhất định cần phải tin hiểu sâu sắc mới có được sự kiên định về chính kiến. Như trên, đã nói rõ nội dung chủ yếu về chính kiến thế gian, đấy là cái thấy biết không thể thiếu cho những người tu học Phật pháp.
Lưu chuyển trong năm thú,
Thân tâm nhiều bức khổ.
Chúng sinh luân hồi lưu chuyển trong năm thú, thật sự không dễ chịu chút nào, cả hai phương diện thân và tâm đều chịu nhiều bức bách khổ cực. Chẳng qua là từ chuyện khổ lớn chuyển sang chuyện khổ nhỏ, nên cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu hơn nhiều. Ba ác đạo khổ vô cùng, không cần nói nhiều; người thế gian cũng vậy, trong mười chuyện thì chín chuyện không như ý.
Chư thiên hưởng phúc nhưng cũng vẫn còn ưu khổ, đặc biệt là khi đến lúc sắp chết, tự biết rằng mình sẽ bị đọa lạc, thì thật sự đau khổ không thể nói nên lời!
Địa ngục nóng cùng cực,
Hành trình khắp gần bên,
Tám hàn cùng cô độc,
Khổ nhất trong các khổ.
Trước tiên nói về sự khổ trong địa ngục. Địa ngục, tiếng Phạn là “Nại lạc ca”, ý là chỉ nơi thống khổ, địa ngục được phân thành bốn loại, cộng lại có mười tám ngục.
1. Chủ yếu mà căn bản là tám loại địa ngục lớn, do phải chịu lửa lớn cực nóng thiêu đốt bức bách, cho nên còn gọi là địa ngục Bát nhiệt. Theo kinh luận nói rằng: Bát nhiệt địa ngục ở tầng đất thấp, là địa ngục trung tâm, thật sự là lửa thiêu đốt rất dữ dội. Giống như miệng của ngọn núi lửa nứt ra phun trào lửa nóng cực độ vậy. Kinh Phật với kinh Ky Tô (Cựu ước), đều có những bản kinh đề cập đến địa ngục, đất nứt toác ra chôn người vào trong địa ngục, cho nên địa ngục Bát nhiệt nhất định là nằm trong lòng đất, nơi trung tâm của quả địa cầu là điều không thể nghi.
Có người hoài nghi: Nhiệt độ lửa nóng như vậy thì làm gì có sự tồn tại của sinh mệnh? Không hề biết rằng nghiệp lực của chúng sinh “bất khả tư nghị!”1 Có loại vào trong nước thì chết, có loại vào trong nước mới sống được, có loại chôn xuống đất sẽ chết, nhưng có loại sinh trưởng và lớn lên từ đất. Chúng sinh bất khả tư nghị, đừng nên đem hoàn cảnh sống và sinh lý của bản thân mình mà áp đặt cho tất cả. Bát đại địa ngục là: Đẳng hoạt, Hắc thằng, Chúng hợp, Hào khiếu, Đại hào khiếu, Viêm nhiệt, Cực nhiệt, Vô gián. Các loại địa ngục này có hai đặc điểm: Một là đều chịu sự thiêu đốt của lửa nóng, nhiệt độ thiêu đốt nấu chảy cả đồng sắt (gần bằng nhiệt độ nóng chảy của nham thạch), nơi nào cũng bị đốt hại. Đất sắt, phòng sắt, chảo sắt, vách sắt, núi sắt, dây sắt, dao sắt, lá sắt, dùi sắt, chuỗi sắt, than sắt, đinh sắt, kìm sắt, viên sắt; lửa đốt cháy tất cả những loại đồng sắt này để dùng rất nhiều cách bức khổ tội nhân.
1 Không thể suy nghĩ và bàn luận thấu đáo được.
Hai là thân thể to lớn, thọ mạng kéo dài (thời gian tại địa ngục kéo dài một trung kiếp), cho nên ở địa ngục là vô cùng thống khổ, muốn sống không được, mà muốn chết cũng không xong. Bởi lẽ, khi nghiệp lực từ trước chưa hết, không có cách nào để có thể chết được, đốt cháy thành than rồi vẫn phải sống lại mà chịu đựng ác báo đó. Địa ngục Vô gián thâm sâu tận cùng trong lòng đất (Phạn ngữ gọi là A tỳ), thiêu đốt dữ dội, xác thân thống khổ cùng cực, ngay đến cả gián đoạn một chút xíu thôi cũng không có, đây là nơi thụ báo của những người phạm tội cực ác.
2. Địa ngục Cận biên, cũng gọi là du tầng địa ngục. Nơi đây gần với ranh giới của tám địa ngục lớn, nhiệt độ nóng cũng tương đương nhau. Mỗi một địa ngục lớn đều có bốn cửa, từ mỗi cửa bước ra lại đều có bốn địa ngục giống như vậy. Như thế, mỗi địa ngục có bốn cửa, mỗi cửa có bốn địa ngục, tổng cộng có mười sáu địa ngục, tám địa ngục lớn cũng đều như vậy, thì tổng cộng có 128 địa ngục. Chúng sinh trong tám địa ngục lớn thụ khổ xong rồi, thì khi đi ra cửa tất nhiên phải trải qua bốn địa ngục còn lại, từ chỗ này qua chỗ khác nỗi thống khổ càng tăng lên, cho nên gọi là du tầng địa ngục. Bốn địa ngục này gồm: Một là địa ngục Đường ôi, đây là hầm tro của lửa đốt; hai là địa ngục Thi phẫn, đây là hố chứa toàn là phân bùn và có những loại giống như loài sâu trùng, ruồi nhặng sinh ra từ đó; ba là địa ngục Dao nhọn, ở đây lại có ba chỗ, một là đường lưỡi dao, hai là rừng kiếm diệp, lại có cả chó dữ và rừng sắt đâm, ở đây lại có chim lớn bằng sắt, những nơi này đều phải chịu nỗi thống khổ bị dao cắt; bốn là địa ngục Vô cực hà, đây là dòng nước vôi tro nóng sôi sục, tội nhân rớt vào trong đó giống như đậu rán trong vạc dầu nóng.
3. Địa ngục Bát hàn: Hay nói là từ tám địa ngục lớn, địa ngục trung tâm đi tới các nơi xung quanh, hoặc nói ở bên kia núi Thiết vi. Núi Thiết vi, là một thế giới nằm ven địa cầu, nghe đâu là mặt trời và mặt trăng rất khó chiếu đến, băng lạnh kinh khủng. Cho nên cắt giảm địa ngục lạnh tại vùng Nam Cực, Bắc Cực, quả thật là không sai. Bát Hàn địa ngục là: Bào (mụn nhọt), Bào liệt (mụn nhọt vỡ ra), Hát triết tra, Hách hách phàm, Hổ hổ phàm (đều là địa danh, ba nơi này, dựa theo sự lạnh giá mà có tên gọi như vậy), Thanh liên, Hồng liên, Đại hồng liên (ba nơi này đựa theo màu da và tình hình rạn nứt mà có tên gọi). Thọ mạng rất dài lâu, cho nên thống khổ vô cùng. Như nói rằng:
“Lạnh thấu cốt xương không gì sánh, khiến thân run sợ co rúm lại,
Hàng trăm mụn nhọt sinh ròi bọ, bắt nhai dầu mỡ chảy dầm dề,
Răng run buốt lạnh lông tóc dựng, mắt tai cổ họng đều đóng băng,
Thân tâm mờ mịt trong u tối, tận cùng đau khổ ngục hàn băng”.
4. Địa ngục Cô độc: Đây có thể nói là địa ngục nhân gian, hoặc tại núi thẳm, hoặc nơi hải đảo, hoặc chỗ hoang dã, hoặc chốn rừng sâu, những nơi này đều có. Ở những nơi này không có nhiều người tập trung, mà chỉ có thiểu số, hoặc một hoặc hai chúng sinh, do vì nghiệp lực cá biệt mà cảm thụ quả báo địa ngục khổ như vậy, cho nên gọi là địa ngục Cô độc. Gần đây trên báo có đăng về một nơi tại Đài Loan, có một người cha ngược đãi con gái ruột của mình, nhốt con trong một phòng tối tăm thiếu ánh sáng, thiếu không khí, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, trải qua suốt 15 năm, vì thế cơ thể đứa trẻ phát triển một cách bất bình thường. Mặt mũi chẳng có chút thần sắc, da dẻ bị sưng phù, quả thật là diện mạo không giống như người nữa. Nghiệp lực của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn. Trong những nơi phồn vinh náo nhiệt, dưới ánh sáng mặt trời chiếu rọi này vẫn tồn tại những người phải chịu quả báo khổ sở như vậy, đây chính là những nơi tương đồng với địa ngục Cô độc.
Bốn loại mười tám địa ngục này, chính là nơi chịu tội báo của tất cả chúng sinh, là nơi thống khổ nhất. Trước việc không thể giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, mỗi người đều có một ít tâm tính giải đãi sa đọa, nên phải biết sợ hãi và đừng làm chuyện xấu ác.
Bàng sinh nhiều loại khác,
Rượt ăn nuốt lẫn nhau.
Lại nói đến nỗi bức khổ trong cõi bàng sinh. Bàng sinh, hoặc là súc sinh, nhìn bao quát ngoài con người ra còn có tất cả các loài động vật sống khá gần. Chúng có hình thái, màu sắc, nơi ở, sinh sống, thọ mạng, v.v. vô cùng khác nhau. Phật pháp phân thành các loài không chân như con giun, rắn v.v.; loài hai chân như các loài chim; loài bốn chân như các loài thú; với các loài nhiều chân thì có loài sáu chân, tám chân, có loài có nhiều hơn đều thuộc loại sâu trùng. Từ chỗ ở mà nói, vốn là sống trong biển lớn, sau này mới di chuyển và sống ở nhiều nơi, cho nên có sự khác nhau về các loài sống trong nước, có loài sống nơi đất liền, có loài sống trên không trung. Trong đó, cũng có các loài lưỡng thê có thể bay trên không và đáp trên đất, lại có thể bơi dưới nước. Chỉ số trí năng của các loài này cao hay thấp, mạng sống dài hay ngắn, tiếp nhận niềm vui hay nỗi khổ đều có sự khác nhau rất xa. Như rồng với kim sí điểu v.v. Có loài còn hưởng thụ vượt hơn con người nữa! Nhưng thông thường, thì những loài ác thú chịu nhiều sự thống khổ. Trong kinh nói: “Các loài chim, bởi có muôn loại tâm mà hiện muôn loại hình sắc”1. Theo như các nghiên cứu gần đây đã chứng minh được phần nào về vấn đề này. Như đôi mắt của loài chim thú (dẫn phát nhãn thức), có thể phân biệt được những màu sắc khác nhau như xanh, hồng, tím v.v., thì bộ lông vũ trên thân mình của chúng cũng vô cùng đẹp đẽ sặc sỡ; đối với loài không thể nhận ra sắc hồng v.v., thì bộ lông vũ nó có màu xám hoặc màu vàng tối. Còn nếu như những loại côn trùng có đặc tính lưu giữ màu sắc, thì hình thể sẽ giống với nhánh cây hoặc lá khô. Đây chẳng phải là do chúng thường sống trong môi trường đó, luôn luôn nhận thức như vậy rồi huân tập vào nội tâm mà có sự ảnh hưởng đến sự tổ chức của sinh lý và biểu hiện màu sắc ra bên ngoài hay sao?
1 Tạp A hàm kinh, quyển 10. Đại chính tạng, quyển 2, trang 69c.
Nỗi thống khổ của loài bàng sinh, chủ yếu là giết hại và ăn nuốt lẫn nhau. Cá lớn nuốt cá bé, trùng lớn ăn trùng nhỏ, cảnh tượng này ở đâu cũng nhìn thấy. Loài nhện giăng lưới ở một góc nhà bắt giết những loài côn trùng bay qua. Ếch và các loài chim ăn nuốt các loài côn trùng, số lượng thật kinh khủng. Các loài trùng nhỏ trốn núp trong thân cây cũng có những loài chim gõ kiến đến mổ ăn. Trong khi kiến là loại thức ăn ngon và duy nhất của loài chim xuyên sơn giáp. Long vương còn gặp nạn chim cánh vàng (kim sí điểu) ăn nuốt. Nhân loại đối với loài bàng sinh cũng đã gieo biết bao nghiệp ác tàn sát và ăn nuốt chúng. Có người còn giết hại động vật với số lượng lớn để lấy da, lông, răng, xương của chúng dùng làm nguyên liệu sản xuất thời trang v.v. Trong thế giới loài bàng sinh, thật là cảnh giới không có phút giây nào không có sự tàn sát, giết chóc lẫn nhau! Còn như những loài trâu bò, lừa ngựa v.v. lại bị con người trói cột, dùng roi đánh đập và ép chúng làm việc cực khổ, không được tự tại chút nào. Nỗi thống khổ trong thế giới bàng sinh là tầng thứ của địa ngục. Trước kia, khi Phật Thích Ca còn là thái tử, một ngày nọ cùng với vua cha đi thị sát công việc ruộng đồng, thấy người nông phu vất vả làm lụng; người nông phu dùng roi đánh con bò đến chảy máu, bắt nó phải cày ruộng; dưới đất lại có những côn trùng nằm quằn quại lộ ra dưới lưỡi cày vừa kéo qua; liền ngay đó, trên không trung lại có loài chim bay xuống mổ ăn những con trùng nhỏ này. Thái tử nhìn thấy sự ăn nuốt, tàn sát lẫn nhau trong thế giới súc sinh, bởi vì lòng đại bi thương xót chúng sinh mà phát khởi nguyện lớn xuất gia tu hành. Nhân loại thường tình không chỉ chẳng có chút cảm động hay đồng cảm nào, mà còn ăn nuốt chúng, những người này có khác gì với loài bàng sinh đâu chứ!
Ngạ quỷ thường đói khát,
Thức ăn đều bất tịnh
Ngạ quỷ trong ba đường ác thú, y theo mặt chữ nghĩa, thì có thể biết chúng thường bị cái khổ của đói khát bức bách. Ngạ quỷ là một trong năm thú, theo tập tục nước ta có nói người chết trở thành quỷ không giống nhau. Trong Phật pháp nói rằng: Ngạ quỷ có ba loại lớn là Vô tài, Thiểu tài và Đa tài. Quỷ Vô tài cũng có ba loại: Một là Cự khẩu (tức là miệng lửa, loài quỷ đói), khi thức ăn vào miệng thì lập tức biến thành ngọn lửa. Hai là Châm khẩu, đường hô hấp nhỏ như cây kim, thức ăn cũng không thể hút vào được. Ba là Xú khẩu, miệng sinh ra đầy những chất xú uế, chẳng thể ăn uống gì được. Quỷ Thiểu tài thì ít nhiều chúng đều có thể ăn uống được, cũng có ba loại: Một là Châm mao, hai là Xú mao, ba là Anh (bướu cổ), ba loại này đều do đặc trưng trên cơ thể mà có tên gọi như vậy. Có loại gặp phải thức ăn thì liền biến thành máu mủ bất tịnh, hoặc thức ăn chuyển thành đàm, dãi, phân, nước tiểu v.v., nhơ bẩn bất tịnh. Loại quỷ này sẽ dùng những thứ ô uế mà người ta nôn mửa ra để làm thức ăn. Quỷ Đa tài thụ hưởng được tương đối nhiều thứ, cũng có ba loại: một là Khí giả (vứt đi), loài quỷ sống nhờ sự hưởng thụ những thứ do con người cúng tế, ở đây gần giống với truyền thuyết thần đạo ở nước ta; hai là Thất giả, loài quỷ chuyên lấy những vật phẩm thế gian bị rơi vãi mà sinh sống, loài quỷ này thường xuyên bị đói khát bức bách; ba là Đại thế, đây là những loài quỷ vương có sức mạnh như la sát, dạ xoa v.v. chúng hưởng thụ phúc báo tương đương với cõi trời. Tuy có nhiều loại như vậy, nhưng đa số là quỷ Vô tài và Thiểu tài, đều chịu cái nạn đói khát cực độ nên gọi chung là ngạ quỷ.
Đều do ba bất thiện,
Làm ác chịu quả báo.
Ở trên đã nói đến ba ác thú, đều là do phiền não của ba bất thiện là nguồn gốc, tạo tác những việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm v.v. Những việc xấu ác này chắc chắn sẽ chiêu cảm quả báo tương ứng. Dục giới với ba thứ: tham dục, sân hận và tà kiến (si mê), là gốc rễ của các việc làm bất thiện, do vậy mà phát sinh phiền não, và tạo ra vô số hành vi tà ác. Làm việc ác sẽ tạo thành ác nghiệp, đây chính là điều dẫn tới những quả khổ của cảnh giới ác thú. Tạo nghiệp sát sinh có nguyên nhân từ tham dục dẫn dắt, như mưu kế chiếm hữu tiền bạc tài sản mà giết hại mạng người. Do vì lòng sân hận dẫn dắt như việc phục thù báo oán, hoặc là cơn nóng giận nhất thời bộc phát mà sát hại đối phương. Cũng có nhiều nguyên nhân do tà kiến dẫn dắt, như ngoại đạo giết dê giết bò để tế trời, ở Đài Loan có những cuộc lễ cúng bái mà giết heo to. Việc sát sinh như thế, tham lam trộm cướp, tà dâm cũng vậy, ba việc căn bản bất thiện này sẽ dẫn đến ác nghiệp, cao nhất là cực trọng nghiệp thì chiêu vời lấy quả báo địa ngục, nghiệp ác bậc trung sẽ cảm thụ quả báo bàng sinh, nghiệp ác thấp nhất là sẽ cảm thụ quả báo vào thế giới ngạ quỷ.
Nói tóm lại, nếu không phát khởi phiền não nghiêm trọng, không làm những việc tội ác nghiêm trọng, sẽ không thể bị đọa vào ba đường ác.
Loài người khổ cùng vui,
Đầu mối của thăng trầm.
Vốn người lầm gốc quỷ,
Bắt chước tập tục sai.
Bây giờ cần nói đến thân người trong thiện thú, ở đây là những gì gần gũi dễ hiểu với chúng ta. Cảm thụ quả báo được làm người, không phải chịu khổ như ba ác thú (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), cũng không giống như hưởng phúc sinh lên trời, thân người là khổ và vui xen tạp lẫn nhau, có khổ có sướng, lúc buồn lúc vui. Điều này đối với việc tu học Phật pháp là hoàn cảnh rất tốt. Bởi vì trong ba đường ác chịu nhiều sự khổ, không có thời gian và điều kiện để tu. Cõi trời lại quá an vui hưởng thụ khoái lạc, nên trí tuệ bị giảm bớt, sẽ không tương ứng với Phật pháp. Tại nhân gian, như lấy dao mài đá càng mài càng bén, sống trên cõi trời như lấy dao cắt đất, càng cắt thì dao càng bị cùn.
Trong năm đường (trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), loài người là “đầu mối của thăng trầm”. Như sinh lên trời là do khi làm người đã tạo các thiện nghiệp và thực hành thiền định. Nếu ở trên trời mà lại được tái sinh cao hơn nữa thì không nói, nhưng nếu trong giới ác thú mà được sinh lên trời thì nhất định phải trải qua việc làm phúc thiện trong thế giới loài người. Còn bị đọa xuống ác thú, thì hơn phân nửa là do tạo ác nghiệp của con người. Nếu như từ trên trời mà bị đọa xuống cõi ác, đây không phải là do chúng trời tạo nghiệp ác, bởi vì chư thiên là không có nghiệp ác nghiêm trọng (từ cõi trời Sắc giới trở lên, chỉ có sự che đậy vô ký phiền não), đây chính là hưởng hết phúc báo cõi trời, đến khi nghiệp ác thành thục sẽ phải chịu quả báo. Nếu như từ địa ngục mà sinh vào súc sinh hoặc ngạ quỷ, cũng không phải chúng sinh ở địa ngục đã tạo ác nghiệp, vì chúng sinh ở địa ngục chịu quả khổ còn không kịp thì làm sao có thể tạo nghiệp ác được? Đây đều là những nghiệp ác do con người tạo ra khi còn làm người. Quỷ và bàng sinh, trừ một số rất ít thuộc loại cấp cao, còn đại đa số đều không thể tự tạo ra ác nghiệp được. Chỉ có loài người trên thế gian hiểu biết nông cạn, thiếu trí tuệ, cuồng loạn quên mất bản tâm, đã giết người rồi còn không dám nhận tội mình đã phạm. Hơn nữa, đa số bàng sinh, vừa khờ dại lại vô trí, chỉ dựa vào trí năng sinh tồn mà hành động. Cá lớn nuốt cá bé, trùng lớn nuốt trùng nhỏ, đó là hiện tượng thật đáng thương của chúng sinh giới, thật là không thanh tịnh, có thể có nghiệp nhẹ thụ quả báo nhẹ, nhưng đó nhất định không phải là nghiệp dẫn dắt khiến chúng sinh bị đọa vào trong ba đường ác.
Cho nên, bởi nghiệp lực mà thăng trầm (trừ thiểu số quỷ và súc sinh), chủ yếu là do nghiệp thiện ác của con người mà chiêu cảm ra. Đọa địa ngục là do ác nghiệp của con người, chỉ có con người mới có khả năng cắt đứt thiện căn, độc ác tột cùng, để đến nỗi một chút thiện căn trong nhất thời cũng không có. Ngược lại, tu thiền định mà sinh lên cõi trời là do thiện nghiệp của người đó. Từ việc xuất gia, giữ giới, tu hành, thoát khỏi sinh tử, cho đến cả việc thành Phật, duy chỉ con người mới có khả năng này. Cho nên, thân người làm ác có thể đến cực ác, làm thiện cũng có thể đạt đến chỗ cực thiện. Quy chiếu theo sự thăng trầm trong năm thú mà nói, việc làm thiện hay tạo ác nghiệp của thân người là đầu mối then chốt, tất cả đều từ đây mà biến chuyển sinh lên hay đọa xuống. Thân người biến đổi khôn lường như vậy, cần phải nên cảnh giác, đừng để mất đi thân này mà đọa lạc vào đường ác. Được làm người, phải nên cảm thấy thật hạnh phúc, vì bạn đang có trong tay cơ hội vượt thoát sinh tử, viên thành Phật vậy!
Trong quan niệm về sinh tử luân hồi, có rất nhiều người hiểu sai lệch. Ấn Độ giáo cho rằng: Người chết rồi, không kể là Thánh nhân hay phàm phu, người hiền hay người ác, tất cả đều phải đi vào thành đô của vua Diêm ma. Những kẻ tà ác, sẽ trải qua sự phán xử của vua Diêm ma rồi bị đưa vào địa ngục để chịu hình phạt. Người Trung Quốc thường cho rằng “người chết thành quỷ”, “quỷ cũng trở về”. Quan niệm về luân hồi của Phật giáo cho rằng, nhìn qua quan niệm lâu đời của người Trung Quốc, đại để cho rằng: Tất cả những người đã chết đều trở thành quỷ. Người có công đức thì trở thành thần, người có tội phải trải qua sự báo ứng trong những địa ngục khác nhau để chịu sự trừng phạt trong mười điện của vua Diêm la. Đến khi chịu hình tội xong, mới dựa theo những gì người đó đã làm khi còn sống, mà quyết định cho đi đầu thai làm người hoặc súc sinh trong thế gian. Nhiều tín đồ Phật giáo ở Trung Quốc không biết Đức Phật dạy về sự vận hành của sinh tử là rất nhân bản, tức là nói do con người tạo ra các nghiệp thiện ác khi chết sẽ tùy theo nghiệp lực mà nhận quả báo được sinh lên trời, trở lại làm người, hoặc làm quỷ đói, làm bàng sinh, hay đọa vào địa ngục. Mọi người cứ nhầm theo kiểu “quỷ bản” của người Trung Quốc, cho rằng tất cả người sau khi chết đều thành quỷ. Đồng thời cho rằng: Quỷ không thể tách rời với địa ngục, cho nên loài quỷ phải chịu khổ trong đó xong mới trở lại thế gian mà đầu thai làm súc sinh. Điều này thật vô cùng sai lầm! Vậy mà, quan niệm lầm lạc này lại được lưu truyền sâu rộng, lâu ngày dần trở thành phong tục trong ý thức dân gian. Có một số người học Phật, cảm thấy muốn sinh lên trời, hay sinh về Tịnh độ mà nhất thời chưa quên được quan niệm cũ “người chết thành quỷ”. Thế rồi, miệng thì cứ luôn nói rằng sẽ sinh lên trời, sinh về Tịnh độ; nhưng đồng thời tâm thế lại định liệu sẽ trở thành quỷ, nào là tiền âm phủ, nhà giấy, v.v. còn chuẩn bị rất chu đáo nữa là khác. Thân làm con gái thì cảm thấy chưa thể báo hiếu một cách đầy đủ. Không biết rằng con người sau khi chết sẽ tùy theo nghiệp mà lưu chuyển tái sinh làm người và làm trời cũng không ít, niệm Phật thì được vãng sinh về Tây phương Tịnh Độ. Làm sao mà có thể một mực đoán định rằng cha mẹ mình sau khi chết sẽ bị đọa lạc vào con đường quỷ trong ác thú được chứ! Sao lại có thể sỉ nhục cha mẹ mình và trở thành đứa con bất hiếu như vậy ư! Theo Quỷ bản luận thông dụng của Trung Quốc, lấy sai lầm để truyền bá sai lầm từ thuở rất lâu xa, không dựa trên căn bản sự thật mà điều chỉnh lại cho đúng đắn là điều không thể được.
Thiên thú sơ Dục giới,
Sắc và Vô sắc giới.
Thân thắng thọ cũng thắng,
Lạc thắng định cũng thắng.
Thiên thú, là thiện thú lưu chuyển trong sinh tử, so ra thì cảnh giới thắng diệu hơn nhân gian. Thấp nhất là cõi trời Dục giới, không chỉ có “tâm” có “sắc”, mà còn có hoàn cảnh hưởng năm món dục lạc và khoái lạc nam nữ, chúng sinh phiền não là do bị trói buộc với những cảnh giới này mà không thể thoát ra được, nên gọi là Dục giới. Thế giới của cõi này là trên mặt đất, dưới mặt đất, trong nước, trong không trung gần với mặt đất; tất cả các loài trong địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, người, a tu la, đều thuộc về Dục giới, ngoài ra còn có các tầng trời cõi dục. Lấy núi Tu di làm điểm trung tâm của mặt đất, có cõi trời Tứ đại vương chúng và trời Đao lợi, hai cõi trời này là địa cư thiên. Từ đây trở lên có cõi trời Dạ ma, trời Đâu suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, bốn cõi trời này thuộc về không cư thiên, tổng cộng có sáu cõi trời. Sáu cõi trời Dục giới đều có hình thái như một quốc gia, có vua quan và nam nữ, so với thế gian không khác là mấy, chỉ có điều phúc lạc tốt đẹp hơn mà thôi. Từ Dục giới trở lên là Sắc giới. Nơi đây có tâm thức, có thân thể và nơi cư trú của vật chất (sắc), nhưng không có dục lạc. Chúng sinh bị phiền não trói buộc với những loại vật chất (sắc) này mà không giải thoát được, cho nên gọi là Sắc giới. Sơ lược cõi này phân thành bốn trời thiền, chia nhỏ hơn thành mười tám cõi trời. Sơ thiền có ba trời là: Phạm chúng, Phạm phụ và Đại phạm. Đây tuy không có sự khác biệt giữa nam và nữ, nhưng vẫn có hình thái của quốc gia có vua quan và dân chúng. Nhị thiền có ba trời: Thiểu quang, Vô lượng quang và Quang âm. Tam thiền có ba trời: Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh và Biến tịnh. Tứ thiền có chín cõi trời: Vô vân, Phúc sinh, Quảng quả, Vô tưởng, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, và trời Sắc cứu cánh. Nhị thiền trở lên, đều là “Ở một mình, xa quần chúng”1, thế giới là cung điện của riêng mình, không giống thế gian có chung với nhau một thế giới. Từ đây trở lên là Vô sắc giới: Ở đây ngay cả thân thể và nơi cư trú của vật chất (sắc) đều không có, chỉ có tâm thức, chúng sinh thì chỉ có giao tiếp qua lại với nhau bằng tâm thức này. Do vì không có vật chất nên không chiếm không gian, cho nên không thể nói đang ở chỗ nào. Nhưng dựa theo thiền định (nhân nghiệp sinh thiên) mà nói, thì ở cõi này so ra còn cao hơn cõi Sắc giới tứ thiền. Vô sắc giới cũng có bốn cõi trời: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chư thiên trong tam giới2, tổng cộng có 28 cõi.
1 Sống một mình và rời xa quần chúng đông đảo.
2 Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Thiên thú là nơi có phúc lạc nhất trong năm thú, hiện tại lấy bốn việc để nói. Một là thân tướng đẹp: Thân thể vô cùng to lớn, thấp nhất là cõi trời Tứ vương, thân cao bằng ¼ câu lô xá, tính ra đến 90 trượng, tám câu lô xá (俱 卢舍) là một du thiện na (逾缮那1). Theo kinh Phật nói, một du thiện na tính theo dặm của Trung Hoa là 16 dặm (1 dặm bằng 500 mét). Trời sắc cứu cánh, thân hình cao lớn một vạn sáu trăm du thiện na (10.600), như vậy thân cao là 25 vạn sáu ngàn dặm (256.000). Không chỉ thân thể cao lớn, mà thân tướng đoan nghiêm, người thế gian không thể bì được. Trước kia, đệ tử Phật là Nan Đà khi còn ở tại gia có cưới một cô vợ tên là Tôn Đà Lợi, người con gái đẹp nhất đương thời. Sau đó Nan Đà xuất gia, nhưng thỉnh thoảng vẫn thường nhớ đến người vợ cũ này.
1 Đơn vị đo chiều dài hoặc chiều cao của Ấn Độ cổ đại đã được Ngài Huyền Trang chuyển dịch sang Hán ngữ trong Đại Đường Tây Vực ký. Trong Câu xá luận quyển 12 có nói: “Bốn khuỷu tay mới thành một cung (弓), 500 cung mới được một câu lô xá (俱卢舍), tám câu lô xá mới được một du thiện na (逾缮那) tức là một do tuần”.
Như Lai bèn đưa A Nan Đà lên cõi trời Đao lợi, sau khi được gặp các thiên nữ ở đây, Nan Đà liền thấy rằng Tôn Đà Lợi chẳng khác gì một con khỉ chột bị cháy thui, cho nên không còn nhớ đến nàng ta nữa!
Hai là sống thọ: Tuổi thọ của thiên thú là rất lâu, thấp nhất là cõi trời Tứ đại vương chúng, hưởng thọ 500 tuổi, tính như ở trần gian là chín triệu (9.000.000) tuổi. Cao nhất là cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, hưởng thọ tám vạn đại kiếp. Trong một kiếp sống ở cõi trời này, thế giới của chúng ta đã tan hoại và hình thành trở lại, hình thành xong rồi lại tan hoại, cứ như vậy đến lần thứ 80.000. Sống lâu như vậy, thật đúng với sự mong cầu trường sinh sống mãi quả thật không phải chuyện mộng tưởng.
Ba là hưởng lạc: Cõi trời dục có rất nhiều dục lạc, cõi Sắc giới từ sơ thiền đến tam thiền, không còn có ưu sầu khổ não, mà có sự an lạc vi diệu trong thiền định; từ tứ thiền trở lên thì tâm cảnh bình hòa mà an định, so với Dục giới còn động loạn với phiền não; cõi sơ thiền đến tam thiền là trạng thái hỷ lạc, thật là vô cùng hạnh phúc!
Bốn là lợi ích của thiền định: Cõi trời Dục giới cư trú trong không trung cũng có một ít định lực. Từ sơ thiền trở lên là quả báo của việc tu tứ thiền và tứ vô sắc định. Một đời được sinh lên trời, được quả báo an trú lâu dài trong thiền định, khi định lực hết, thọ mệnh của họ cũng hết. Từ việc hưởng thọ thật lâu dài của họ, có thể biết được quả báo thiền định ở cõi trời Sắc, Vô sắc thật hết sức đặc biệt. Nói tóm lại, trong tam giới sinh tử, cõi trời là có nhiều phúc lạc nhất.
Các khổ do ác nghiệp,
Vui do hành thiện nghiệp.
Khổ vui tùy nghiệp tập,
Nên tích cực làm lành.
Con người ai cũng đều ưa vui ghét khổ, đều không muốn bị đọa làm ác thú mà chỉ muốn được sinh lên làm người, trời. Nhưng đâu phải cứ mong muốn là thành tựu được, phải dựa vào nghiệp lực làm lành lánh dữ mới có kết quả. Như nỗi thống khổ trong ba đường (địa ngục, ngạ quả, súc sinh), những nỗi khổ niềm đau của con người, cho đến cả nỗi lo buồn nơi cõi trời Dục giới. Những nỗi khổ này đều do ác nghiệp riêng của chúng sinh mà ra. Phúc báo an lạc ở cõi trời, niềm vui tại thế gian, niềm vui của các loài bàng sinh và ngạ quỷ, thậm chí là trong địa ngục (trừ địa ngục Vô gián) cũng có niềm vui dù rất hiếm hoi. Quả báo của tất cả những niềm vui đó, đều do sự tích tập thiện nghiệp mà có được. Quả báo của an lạc và đau khổ, đều được quyết định bởi hành nghiệp thiện hoặc ác, cho nên chỉ có làm lành tránh ác mới có thể xa rời sự khổ đau và được an lạc mà thôi.
Dựa vào nghiệp thiện ác chiêu cảm quả báo khổ và vui, nhưng cũng không phải là mãi mãi như vậy, mà tùy theo hạn lượng của nghiệp lực mà có lúc kết thúc. Đây là sự thấy biết vô cùng quan trọng, có thể giải thích một cách thuyết phục về nhân quả. Giả như có gặp phải nghịch cảnh thống khổ cũng không nên thất vọng bi quan, phải hiểu đây chính là quả khổ do nghiệp ác chiêu cảm, mà lực lượng của nghiệp ác có hạn, quả khổ cuối cùng cũng phải qua đi thôi (đọa trong địa ngục cũng có lúc được siêu thoát), cớ gì vì chuyện khổ đau mà tự làm rối loạn mình, nên cố gắng tu thiện thì tự nhiên sẽ đạt được an vui trong tương lai. Còn nếu gặp được thuận duyên như ý trong hiện tại thì cũng đừng quá hả lòng đắc ý, xa hoa phóng dật. Bởi vì nên biết đây là do kết quả của thiện nghiệp trong quá khứ, mà phúc đó lại có hạn và không lâu cũng sẽ qua đi thôi (sinh lên cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng cũng không thể tránh khỏi bị đọa lạc), làm sao có thể vì một chút hỷ lạc mà sinh tâm phóng dật. Điều này có thể ví dụ như, những năm bị mất mùa, cuộc sống khó khăn; chỉ có cố gắng cày ruộng, gieo hạt, bón phân, tưới nước, trừ sâu bọ, mới vượt qua được cơn đói kém và thu hoạch một vụ mùa bội thu với niềm hạnh phúc. Như những năm được mùa, cho dù lương thực sung túc cũng cần phải nỗ lực cày ruộng, gieo trồng, chăm bón, tưới nước, trừ sâu. Bởi nếu không như vậy, ngồi không tiêu dùng thì “miệng ăn núi lở”; đợi đến lúc chẳng còn gì để ăn, thế thì khổ thật rồi. Cho nên, dựa vào chính kiến tin sâu nhân quả nghiệp báo, sẽ xa rời sự khổ não, lại được an vui. Không quan trọng hoàn cảnh hiện tại thế nào, mà chỉ cần biết “tích cực tu thiện” thì tương lai chắc chắn tốt hơn. Có một lập trường vững vàng, thì dù cho hiện tại thế nào, vẫn giữ được nhân sinh quan cố gắng tích phúc hành thiện, mới đạt được chính kiến trong Phật pháp.
Giờ có thể tu thiện,
Mà chưa tạo nghiệp lành,
Một mai quả khổ đến,
Như vậy làm sao đây?
Đây là luận tụng cảnh sách kịp thời cho việc tu thiện. Nếu hiện tại không bị rơi vào tám nạn, không phải trẻ thơ hay già nua, cũng không phải là người tàn phế hoặc điên cuồng, mà là người có tri thức, có năng lực, tài sản, quyền thế, địa vị và danh vọng, quả thật có thể tu hành thiện nghiệp, đây là cơ hội rất khó có được! Nếu không biết trân trọng kiếp sống, lãng phí thời gian, chẳng cố gắng hành thiện tích phúc, há lại không đáng tiếc hay sao! Phúc báo an vui trong hiện tại, là sự chiêu cảm từ nghiệp lành ở quá khứ; nhưng nghiệp lực có hạn không thể duy trì mãi mãi. Vậy nếu không làm thiện, để đến khi già chết ập đến, đương nhiên nghiệp ác chín muồi, quả khổ đổ dồn dập trên đầu, thử hỏi lúc này có còn cơ hội quay đầu phục thiện nữa hay không? Cho nên, chúng ta khi sống phải sớm biết làm điều thiện lành, đừng nên đợi chờ, đừng để lần lữa!
Cầu người được làm người,
Tu thiên chẳng sinh thiên.
Cần tu ba phúc hạnh,
Nguyện sinh cõi Phật Đà.
Như trên đã nói, phải biết nỗ lực tu thiện, mong được quả báo an lạc cõi trời, người. Nhưng trong Thiên thừa và Nhân thừa, thì tu học thừa nào mới là tốt nhất? Đâu mới là thiện nghiệp của phúc báo sinh cõi trời, người? Làm thế nào không bị trói buộc trong phúc báo trời người, hoặc không bị đọa lạc do ác nghiệp đã tạo? Bài kệ trên sẽ giải đáp ba vấn đề này.
Một là Nhân thừa và Thiên thừa đều là do thiện báo. Theo phúc báo, thì quả báo cõi trời tốt đẹp hơn cõi người rất nhiều, cho nên nếu tu pháp Nhân thừa, thì tu pháp Thiên thừa là hay hơn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, cõi người có ba việc so ra còn hơn cả cõi trời Đức Phật ra đời tại thế gian, chư thiên mệnh chung cũng lấy thế gian làm nơi lạc trú. Bởi vì ở đây thích hợp với lập trường tu học Phật pháp, cho nên thế gian so ra vẫn tốt hơn cõi trời, Nhân thừa pháp so ra cũng quý hơn Thiên thừa pháp! Chúng ta đã được thân người, được tu học Phật pháp, tuyệt đối đừng hâm mộ phúc lạc ở cõi trời, nên tu học theo chính pháp Nhân thừa. Vì mong muốn được làm người mà tu học chính pháp Nhân thừa, đương nhiên theo nghiệp thụ báo được thân người vốn là đáng quý. Với pháp Thiên thừa, không phải là hoàn toàn không thể tu, nhưng nếu không là vì ước muốn được sinh lên trời, mà là do nguyện lực, thì sẽ không đến mức tùy theo nghiệp lực mà thụ báo sinh thiên. Nguyện lực thật khó có thể hiểu thấu được.
Duy có điều là pháp tu Thiên thừa cao sâu (thiền định), xét cho cùng không tu thì tốt hơn. Bởi lẽ, chỉ sợ nguyện lực không thắng nổi nghiệp lực, vì sinh lên cõi trời chính là rơi vào một trong tám nạn, trở thành chướng ngại lớn đối với việc học Phật.
Hai là cần tu tập thiện nghiệp trong Thiên thừa và Nhân thừa, mới có thể đạt được quả lành sinh làm người và sinh lên cõi trời được. Đối với việc được sinh làm người và sinh lên cõi trời, Đức Phật nói là do ba phúc nghiệp là bố thí, trì giới và tu định. Cho nên, chỉ lập hạnh chuyên cần tu ba nghiệp thiện này, mới có thể đạt quả phúc lạc của trời, người. Có một số người, không rõ nhân quả, không tu chính nghiệp, vọng tưởng muốn sinh lên trời hoặc sinh làm người, lại còn nguyện với Thiên đế, hy vọng Thiên đế sẽ cứu độ họ đạt được mục đích sinh thiên. Đức Phật từng trách cứ những người này rằng: “Không tu thiện nghiệp mà mong muốn được sinh lên trời, cũng giống như đem tảng đá thật to quẳng xuống hồ, rồi đứng bên bờ hồ làm phép cầu nguyện, hy vọng tảng đá lớn đó có thể nổi lên không khác vậy”1. Cổ đức từng nói: “Sinh thiên tự có sinh thiên nghiệp, vốn chẳng cầu tiên lại được tiên”2. Tuy nhiên, thế gian không tỏ sự thật về nhân quả, chưa biết con đường tu hành chân chính, sinh ra vọng tưởng mong muốn được sinh làm người, hoặc sinh lên trời quả thật không ít, thật là đáng thương!
1 Trung A hàm kinh, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 1, trang 440a.
2 Ai sinh lên cõi trời thì tự người ấy có nghiệp được sinh lên trời, không hẳn mong muốn lên cõi tiên mà lại được cõi tiên.
Ba là tu tập thiện pháp trời, người, làm sao có thể không do phúc báo của trời, người dẫn đi, hoặc không do nhân làm ác mà bị đọa lạc? Chúng ta chỉ cần nguyện được sinh tại nhân gian, gặp được Phật ra đời, có thể đến trước Phật nghe pháp tu hành là điều tốt nhất rồi. Nếu có thể sinh ra đời gặp Phật, thấy Phật thuyết pháp, thành tựu hữu duyên với Phật, hữu duyên với pháp, hữu duyên với vô lượng thiện hữu tri thức và sư trưởng cùng học Phật pháp. Không chỉ huân tập trồng sâu căn lành Phật đạo, mà còn có thể rộng kết pháp duyên. Như vậy, kiếp kiếp tái sinh tại nhân gian này, đương nhiên sẽ được trùng phùng với thiện hữu đồng tu và bậc minh sư dẫn dắt trên đường tu, quy hướng Tam bảo, gặp Phật nghe pháp tu hành, lại có duyên cùng vô lượng chư vị pháp lữ tu học Phật. Nhờ vậy mà dần dần chuyển hóa và giải thoát phiền não, công đức tăng trưởng, không phạm vào những việc xấu ác khiến phải mất đi thân người (bị đọa lạc mất thân người, đa số là chưa từng quy y tu học Phật pháp). Hơn thế lại còn tăng trưởng thiện căn, pháp khí thành thục, tự nhiên mà thể nhập vào pháp Đại thừa xuất thế, làm nấc thang cho Phật đạo. Cho nên, khi người học Phật chưa thể phát tâm xuất ly, chưa thể phát tâm Bồ đề, nên hết lòng tu theo Nhân thừa chính pháp, ngày ngày phát nguyện: “Duy nguyện Tam bảo từ bi nhiếp thụ! Nguyện đời đời sinh ra đều được thấy Phật nghe pháp”. Hãy phát chính nguyện được gặp Phật, được nghe chính pháp, tu chính hạnh Nhân thừa, bảo đảm sẽ không mất đi cơ hội làm người, từ đó mà tiến vào Phật đạo.
Vì giúp người được vui,
Bố thí được giàu có.
Nên Phật vì chúng sinh,
Tán thán phúc bố thí.
Dưới đây, giải thuyết về ba loại phúc nghiệp. Trước tiên nói về phúc nghiệp bố thí: Như Lai thuyết pháp, không giống như chúng ta hiện tại, một khi nói ra là liễu ngộ sinh tử, sinh về Tịnh độ, tức có tức không, tức tâm tức Phật. Đối với những chúng sinh căn cơ chậm hơn, Như Lai trước tiên nói một cách tổng quát: “Nói về pháp bố thí, nói về pháp giữ giới, nói về pháp sinh thiên (tu định)”1. Nếu như đối với Ngũ thừa cộng công đức này (thiện nghiệp nhân thiên) có thể thụ trì phụng hành, lại có thể thấu triệt thiện căn phát tâm xuất thế, đến đây mới nói đến pháp môn xuất thế. Tại trong ba phúc nghiệp này, Như Lai lại nói đến bố thí đầu tiên. Ở đây có đạo lý vô cùng quan trọng, bài tụng của Bồ tát Nguyệt Xứng2 đã mang đến lời khai thị giải thích rõ ràng.
1 Trung A hàm kinh, quyển 6. Đại chính tạng, quyển 1, trang 460b.
2 Nhập trung luận, quyển 1, trang 12c.
Con người, cần có đầy đủ nhu cầu: ăn, mặc, ở, đi lại, thuốc men v.v. Mới có thể đạt được hạnh phúc an lạc. Những loài động vật cấp thấp nhất trong loài bàng sinh cũng phải lấy thực vật làm thức ăn, mới có thể duy trì mạng sống. Cho nên phúc lạc của chúng ta (lạc là do cảm thụ được dẫn phát bởi sinh lý), không thể rời khỏi những nhu yếu về vật chất mà sinh tồn được, nhiều loại hỷ lạc trên mặt tinh thần, thông thường thì cũng phải dựa vào những điều kiện cơ bản này. Cho nên người xưa từng nói: “Đầy kho lương thực rồi sau mới biết đến lễ nghĩa”; giàu có rồi sau mới thúc đẩy việc giáo hóa. Những vật chất cần yếu trong sinh hoạt đời sống hàng ngày, là mong muốn cơ bản nhất của chúng sinh và nhân loại. Phật cũng chưa từng phản đối nhân loại mưu cầu những thụ dụng vật chất này một cách chính đáng, mà còn xem như là những điều kiện tương thích phù hợp với chúng sinh mà thuyết pháp “vĩnh viễn chấm dứt sự nghèo khổ”.
Những của cải vật chất, từ đâu mà có? Người đời phải nỗ lực lao động, phát triển khoa học kỹ thuật, đây chỉ biết được nhân duyên hiện ra ngay trước mắt, mà không biết được nghiệp trước kia đã qua. Đức Phật nói: “Dựa theo vật chất do thiện nghiệp bố thí, cho nên đời này được đầy đủ sung túc về của cải vật chất”. Chúng ta sở hữu rất nhiều của cải tài sản, chỉ tích trữ mà không sử dụng, một khi mình chết đi thì cũng xem như chẳng có gì cả.
Nếu như mình hưởng thụ hết hoặc lãng phí, thì những thứ ấy cũng chẳng còn gì. Nếu như đem một phần những tài vật ấy gieo nhân bố thí vào trong ruộng phúc, thì có thể sẽ chiêu cảm được những phúc báo ở đời sau. Công đức bố thí có lớn nhỏ, cho nên quả phúc cũng sẽ có sự khác biệt. Ở đây được ví như đem hạt giống gieo vào đất ruộng, tương lai sẽ thu hoạch hoa trái gấp mười, gấp trăm lần. Tất cả những tài sản vật chất trong thế giới tự nhiên, đều do sự chiêu cảm từ cộng nghiệp của chúng sinh, rồi dựa vào nghiệp lực trước kia, mà thụ nhận những vật chất để cho mình sử dụng và hưởng thụ. Những phúc lạc vật chất do nghiệp lực chiêu cảm, tuy trong hiện đời phải vất vả lao động tích góp, khai phát và chế tạo... Nhưng nếu như không có nghiệp bố thí, thì cũng không có tài sản vật chất; ví như những nơi nghèo túng, hoặc thiếu thốn một số thứ nào đó, dẫu cho có dùng tất cả những công lực hiện có, cũng không thể nào thực hiện được. Cho nên tất cả những phúc báo trên phương diện vật chất, thực tại đều do thiện nghiệp bố thí trước kia mà có.
Như vậy, cuộc sống có đầy đủ vật chất, là mong muốn hưởng thụ tất yếu của đời người, đó chính là mong cầu chính đáng cơ bản và trước tiên. Những tài sản đầy đủ cho cuộc sống này, đều do nghiệp lành bố thí. Cho nên, chư Phật vì chúng sinh mà thuyết pháp khen ngợi phúc báo của hạnh bố thí; khuyên người tu tập công đức bố thí, để tránh đời sau bị rơi vào hoàn cảnh gian khổ nghèo đói, ảnh hưởng tới việc thành tựu sự nghiệp và tiến tu Phật pháp. Như Lai trước tiên khen ngợi việc bố thí, là muốn thấy sự thanh lọc về thụ dụng vật chất, là kiến lập sự an vui tại nhân gian, là căn bản của Thánh pháp xuất thế. Nếu như nghèo đói đến mức không lấy gì để duy trì sự sống, thì sự hòa bình an lạc của thế nhân, cho đến việc tu học pháp xuất thế đều chẳng thể như nói mà làm được.
Thí lấy xả làm lợi,
Do bi kính khác nhau,
Ruộng tâm việc bất đồng,
Công đức phân cao thấp.
Bố thí của pháp chung Ngũ thừa, chú trọng đến việc bố thí về vật chất. Thế nào được xem là bố thí? Phàm bố thí cần có hai điều kiện cốt yếu: Một là “dùng xả”. Bản thân đối với vật chất muốn bố thí, cần phải có tâm buông xả, có tâm hy sinh. Như có người mượn tiền mà không trả, làm rơi mất, hay miễn cưỡng cho tiền ai đó mà không hề có tâm xả, thì cảm thấy vô cùng khó chịu, đây không thể gọi là bố thí. Hai là “dùng lợi”: Bố thí cho người (hoặc các loại súc sinh) cần phải mang đến lợi ích cho người. Ví dụ, nếu ta mang thực phẩm độc hại thí cho vì có ý đồ xấu làm hại đối phương, như vậy thì đâu thể gọi là bố thí. Cho nên, định nghĩa về bố thí là: Tâm vui vẻ tự nguyện, hy sinh lợi ích và hạnh phúc của bản thân để thành tựu sự an lạc cho người. Tinh thần chân thật của việc bố thí, là quyên góp của mình để mang lại lợi ích cho người. Pháp Đại thừa luôn lấy lợi ích người khác làm đầu, công đức của việc bố thí có giá trị vô cùng quan trọng.
Động cơ và đối tượng của bố thí là gì? Đây cũng có hai loại. Một là do lòng bi mẫn: Đối với đối tượng cô độc, góa bụa, nghèo đói, bệnh tật; hoặc những người bị thiên tai bởi động đất, sóng thần, cuồng phong, lửa dữ; hay những hoàn cảnh khốn khổ bởi binh đao chiến tranh; cho tới những ai đang bị giày vò bởi già yếu sắp chết… nên khởi tâm đại bi mà bố thí, cũng gần giống với sự nghiệp từ thiện cứu tế trong thời hiện đại. Hai là do lòng kính trọng: Hiếu dưỡng đối với cha mẹ, cung phụng với bậc tôn trưởng, cung kính cúng dường Tam bảo v.v. Dùng tâm tôn kính mà bố thí, cũng chứa đựng ý nghĩa báo đền ân đức. Hai loại này, động cơ và đối tượng bố thí có sự khác biệt.
Nói đến lợi ích nhiều hay ít của công đức bố thí, đây phải dựa trên ba phương diện. Một là tâm bất đồng, tức là lòng bi mẫn và tôn kính thâm sâu hay là cạn cợt; hoặc là không có lòng bi mẫn và tôn kính, tâm lượng không giống nhau, nên dù là cùng một việc bố thí mà kết quả lại có sự khác biệt lớn. Hai là sự khác nhau về “ruộng”, ruộng đây là ruộng phúc, là nơi gieo trồng phúc bố thí. Như nghèo đói bệnh tật v.v. là ruộng từ bi, Tam bảo và cha mẹ v.v. là ruộng tôn kính. Trong ruộng phúc tôn kính, thì cung cấp dưỡng nuôi cha mẹ lại có phúc hơn cung dưỡng bậc tôn trưởng. Trong Tam bảo, như cúng dường hàng Thánh chứng được sơ quả không bằng bậc Thánh chứng được nhị quả, nhị quả không bằng tam quả v.v. Cho đến cúng dường Bồ tát không bằng cúng dường Phật. Tất cả công đức bố thí, không thể sánh bằng sự cúng thí lên Phật, đây là nguyên do thù thắng của phúc điền. Trong ruộng từ bi, có thể lấy hạn lượng của lòng bi mẫn mà phân biệt: Đối với người còn trẻ mà không cố gắng lao động, đến nỗi cơm ăn áo mặc cũng không đủ, đây tuy đáng thương, nhưng không đáng thương bằng người tàn tật già yếu. Ba là sự bất đồng: Sự là những vật phẩm đem bố thí. Nếu tâm và ruộng giống nhau thì phải dựa vào vật phẩm bố thí nhiều hay ít để thấy được công đức bố thí rộng hẹp. Trong ba loại này, Phật pháp luôn lấy tâm làm căn cốt, cho nên người nghèo khó phát tâm bố thí một nghìn hay một trái cây, cũng có khi vượt xa công đức người giàu sang bố thí đến hàng triệu!
Thí nên như pháp thí,
Đừng theo đến sợ báo,
Cầu báo và tập tiên,
Mong lên trời cầu danh.
Công đức bố thí lớn hay nhỏ là dựa vào động cơ, đối tượng, và những vật phẩm bố thí mà phân định. Cho nên có một số việc bố thí không thanh tịnh, không cao thượng cần nên tránh, mà nên bố thí theo phương hướng tu hành đúng như pháp. Những gì là không thanh tịnh, không cao thượng, không phù hợp với ý nghĩa chân thật của việc làm phúc bố thí?
Nói giản lược bảy loại đừng nên: Một là tùy duyên thí. Có nghĩa là tự mình không thể phát tâm bố thí, mà do có người nào đó đến xin, ai đó đến tận cửa nhà quyên góp, giữ thể diện nên mới miễn cưỡng mà bố thí, nhưng trong lòng thì lại tiếc lắm.
Hai là sợ hãi thí. Là khi người ta chợt nhận ra những thứ như: tài sản, quyền lực, địa vị, sinh mạng của mình thật nguy cấp, hay khó giữ gìn, sợ rằng tất cả đều sẽ bị mất đi, thế nên vội vàng bố thí với hy vọng nhờ vào công đức bố thí ấy, giúp tai ách hiện tại sẽ tiêu tan và kéo dài được mạng sống; mong nhận được quả báo tốt có thể chuyển họa thành phúc. Loại bố thí này là hiện trạng thường thấy diễn ra trong một số tín đồ.
Ba là báo ân thí. Bởi vì đã từng nhận ân tuệ của người, cho nên hiện tại vì muốn cảm ơn người mà bố thí. Đây không thể gọi là gieo trồng phúc đức, mà chỉ là để trả nợ. Có một số người khi gặp hoàn cảnh không thuận lợi, bèn đi cầu nguyện với thần, với Phật. Khi hoàn cảnh thuận lợi như ý rồi thì đi cúng thí tạ ơn, đây đều là những việc bố thí không đúng nghĩa như pháp.
Bốn là cầu báo thí. Là trong khi bố thí, lại mong người nhận vật thí sẽ báo đáp mình, sẽ giúp ngược trở lại, thậm chí còn mong người đó sẽ vì mình mà hy sinh cả thân mạng, nên mới thường hay đem những thứ quan trọng đắt tiền mà bố thí, khiến người nhận cảm kích mà ra sức giúp đỡ.
Năm là tập tiên thí (theo tập quán người trước). Nghĩa là bản thân không hề có ý muốn bố thí, nhưng do truyền thống xưa truyền lại, hoặc do cha mẹ để lại, nên mỗi năm đều đi bố thí cúng dường Tam bảo, hoặc đi làm từ thiện ở những cơ sở nào đó, vì vậy lâu dần trở thành tập tục, và xem bố thí như một việc làm chiếu lệ.
Sáu là hy thiên thí (mong cầu được sinh lên trời). Đây là vì muốn làm cho thánh thần trên trời hoan hỷ, hoặc mong muốn sẽ được tái sinh lên các cõi trời nên làm việc bố thí.
Bảy là cầu danh thí. Vì muốn mua danh cầu lợi mới làm việc bố thí. Có một số người, khi ở trước mặt quần chúng, vì muốn nâng cao sĩ diện của mình mà tỏ ra hỷ xả bố thí một cách đầy phóng khoáng. Rất nhiều những trường hợp bố thí bằng tâm cầu danh như vậy, đương nhiên là ít nhiều cũng có công đức, nhưng đối với ý nghĩa chân thật của Phật pháp, thì có vẻ như đi quá xa rồi! Bởi lẽ, việc bố thí phải xuất phát ở tâm từ bi và lòng tôn kính thật sâu sắc mới đem lại công đức thù thắng, rộng lớn.
Khắc kỷ vì lợi tha,
Kiên nhẫn trì tịnh giới.
Hiện tại cần nói đến phúc nghiệp của việc giữ giới. Bố thí, chủ yếu là hy sinh tài sản vật chất để làm lợi ích chúng sinh, là đức hạnh rất có giá trị, nhưng không phải là quá khó để thực hành. Dứt ác hành thiện, đạt đến sự thanh tịnh cho tự tâm, cầu học Phật pháp và thù thắng hơn là xả thí những vật chất ngoài thân, chính là giới. Giới chính là khắc chế những tham dục của bản thân, đạt đến đức hạnh, thiện lành, hòa ái và an lạc tại thế gian, chính là sự điều phục bản thân để mang lợi ích đến cho mọi người. Như giữ giới không trộm cắp, không phải là hôm nay không trộm, ngày mai không trộm, cũng không chỉ là không trộm của nhà họ Trương hay nhà họ Vương, mà là từ đây về sau không trộm cắp tài sản của tất cả chúng sinh, của bất cứ người nào. Cho nên, giữ giới không trộm cắp là một cam kết bảo vệ tài sản, không xâm hại tài sản của tất cả chúng sinh. Lại như giữ giới không tà dâm, không chỉ là giới hạn ở một số người nào đó, mà là từ nay về sau, đối với tất cả mọi người, mọi loài, quyết không dùng các thủ đoạn, bạo lực, mê hoặc v.v. để thỏa mãn dục vọng, ham muốn cá nhân, mà phá hoại tiết tháo và hạnh phúc gia đình người khác. Vì vậy, Đức Phật đã tán thán năm giới như “năm đại thí” (năm việc bố thí lớn), những công đức bố thí này, thật ra còn có giá trị cao thượng và to lớn hơn những việc bố thí thông thường.
Thụ trì giới hạnh, cần phải chế phục được những dục vọng ham muốn của mình, nên cần phải quyết tâm kiên trì, nhẫn chịu muôn vàn sự khảo nghiệm gian nan khổ cực; nhẫn chịu sự quyến rũ, mê hoặc, uy hiếp, cưỡng bức v.v. rất ác liệt từ hoàn cảnh bên ngoài. Lại phải chiến thắng được những tham muốn từ nội tâm, không để cho nó quấy rối làm phiền, thậm chí cần phải có quyết tâm như “thà giữ giới mà chết, chứ không hủy giới mà sống”. Cần phải kiên trì điều phục thân tâm như vậy, làm chủ mọi hoàn cảnh, mới có thể bảo đảm giữ trọn vẹn “tịnh giới”, không dám hủy phạm giới hạnh, không để đến nỗi khiến cho công đức của nhiều năm giữ giới lại bị hủy hoại trong chốc lát (chỉ cần một lần phạm, thì coi như thất bại hoàn toàn rồi. Như chúng ta sống phải tuân thủ luật pháp, chỉ cần vi phạm một lần, thì phải chịu chế tài của pháp luật).
Quên mình độ chúng sinh,
Đừng giết đừng đánh đập,
Không trộm cắp tà dâm,
Không nói lời hư dối,
Uống rượu hư công đức,
Phật tử nên giữ gìn.
Hiện tại nói ba loại giới: Năm giới, tám giới, mười thiện giới, đây là giới đức của “Pháp chung Năm thừa”. Trước tiên nói về năm giới.
Vì sao cần phải giữ giới? Có một số người không hiểu về ý nghĩa của việc giữ giới, mà chỉ là hâm mộ công đức của việc giữ giới nên giữ vậy thôi, đây tuy là việc tốt, nhưng chưa phải là lý tưởng. Đức Phật nói trong A hàm kinh, Pháp cú kinh, cho đến các kinh Đại thừa đều nói rõ, đây là vì “lấy thân mình độ chúng sinh”, mà tự nguyện khắc chế những ham muốn dục vọng bản thân để trưởng dưỡng đức hạnh. Mang tâm ý của mình giúp đỡ tâm tình của tất cả chúng sinh, trong kinh gọi là “pháp tự thông”, cũng là “đức khoan thứ” của Nho gia. Như trong kinh đã nói: “Ta muốn sống, muốn bất tử, muốn hạnh phúc, muốn tránh khổ. Nếu như có phá được sinh mệnh của cái ta chỉ muốn sống, muốn bất tử, muốn hạnh phúc, muốn tránh khổ này (dựa vào sát sinh này mà nói), đây là do bởi những thứ ta yêu thích chăng? Nếu như những thứ ta không yêu thích, tất nhiên ta sẽ phá bỏ cái sinh mệnh cùng muốn sống, muốn bất tử, muốn hạnh phúc, muốn tránh khổ, nó cũng không thích như vậy. Đừng hẹp hòi như thế, phàm những thứ mà bản thân mình không yêu không thích, đối phương cũng vì những thứ mình không yêu không thích, thế thì ta lại đem những thứ không yêu thích đó mà đi làm hại nó hay sao!”1. Khổng Tử từng nói: “Những gì mình không thích, thì đừng đem đến cho người khác”. Giê-su cũng từng nói rằng: “Nếu muốn người ta đối đãi với bạn thế nào, thì bạn nên đối đãi với họ như vậy”. Đạo đức đối xử giữa người với người, thật không khó từ đây mà tiếp nhận được ý thức là phải biết giúp đỡ người khác (nhưng đạo đức của Ky tô giáo, là đến trong tiền đề tình yêu thần thánh). Bản thân chán ngán khổ cực mà mong cầu an lạc, người khác cũng giống như mình vậy, làm sao có thể cướp đoạt niềm vui của người khác, làm tăng thêm sự thống khổ cho người? Tại sao lại không thể hoan hỷ với niềm vui của người khác, không cố gắng cứu giúp những người đang khốn khổ kia? Đức Phật dạy: “Từ là ban vui, bi là cứu khổ”, đây cũng là tinh thần thực tiễn tại thế gian. Cho nên, cần phải khắc chế những tình cảm ái dục của mình mà giữ giới, không phải cái khác, thành tựu pháp tự mình thông suốt, lưu xuất tâm từ bi mà tự nguyện trì giới. Đây chính là thực hành pháp tu “đời này vui, đời sau cũng vui”!
1 Tương ưng bộ, quyển 55 (Dự lưu Tương ưng, Nam truyền) quyển 16, trang 236c.
Năm giới, là giới luật rất cần thiết cho Phật tử tại gia gồm: thiện nam (Ưu bà tắc), thiện nữ (Ưu bà di) cần phải giữ giới, được gọi là “cận sự” (dịch nghĩa Ưu bà) giới. Đây tuy là giới đức cơ bản của nền tảng gia đình, nhưng chính là nguyên lý cơ bản của giới đức, thấu triệt trên và thông suốt dưới, giống như Bồ tát giới, cũng không ra ngoài nguyên lý ấy, chẳng qua là cảnh giới càng hoàn thiện, thì càng thanh tịnh mà thôi. Năm giới đều là căn bản với việc “lấy bản thân mình độ chúng hữu tình”.
Thứ nhất, không sát sinh tức là giới không giết hại. Bất luận là do mình tự tay giết, hay sai khiến người khác giết (đồng ý cho người khác đi sát sinh cũng có tội), chấm dứt mạng sống của chúng sinh tức là sát sinh. Song nếu là ngộ sát không cố tình làm thì vẫn phải chịu trách nhiệm, tuy nhiên là không thành trọng tội. Đối với sự sát hại chúng sinh, đương nhiên giết người là tội nặng nhất. Không đánh đập, là không được dùng dao, gậy, ngói, đá v.v. làm người khác bị thương, tuy như vậy không cấu thành tội phạm giết người, nhưng cũng là tội cố ý sát hại, chẳng qua là tội nhẹ hơn thôi.
Thứ hai, không trộm là giới không trộm cắp. Bất luận là tài sản của quốc gia, của cá nhân v.v. Theo như Phật giáo thì tất cả những vật có chủ sở hữu, nếu không được đối phương đồng ý mà lấy trộm, cưỡng đoạt, chiếm lấy, cướp về v.v. thì phạm vào giới trộm cắp. Theo Phật pháp, thì không thể vì các lý do như nghèo đói, bệnh tật, hoặc hiếu dưỡng cha mẹ, nuôi nấng vợ con mà đi trộm cướp được. Bởi đã là trộm và cướp thì đều phạm tội.
Thứ ba, không tà dâm là không tà hạnh phi pháp. Như nam và nữ chấp thuận, được sự đồng ý của người bảo hộ, không vi phạm pháp luật quốc gia, đã trải qua nghi thức hôn lễ mà công nhận là vợ chồng; chính dâm của đôi vợ chồng này là yếu tố xây dựng gia đình, là điều tất yếu để tiếp nối thế hệ con cháu một cách chính đáng, nên không có tội. Ngược lại, trai gái tại gia đình, đã được đối phương đồng ý, nhưng trong Phật pháp lại không cho phép (như vào ngày thụ giới Bát quan trai), pháp luật quốc gia cũng không cho phép, hoặc những người thân trong gia đình không đồng ý, thì đó đều thuộc về tà dâm, đây chính là giới ngăn đối với tín đồ Phật tử tại gia. Bởi vì việc này không chỉ làm tổn hại đến ý chí tự do của đối phương, mà còn phá hoại niềm vui hạnh phúc của gia đình, là việc xấu làm nhiễu loạn trật tự xã hội.
Thứ tư, không nói lời hư cuồng là giới không vọng ngữ. Vì muốn lợi ích cho mình, lợi ích cho bạn bè hay cho người thân, hoặc muốn hãm hại kẻ thù mà nói vô số những lời vọng ngữ. Không biết nói rằng biết, biết nhưng lại nói không biết, có thì nói không có, không có lại nói là có, đúng thì nói sai, sai lại nói là đúng. Bởi vì nói những lời hư cuồng, khiến cho bản thân cùng quyến thuộc được lợi ích, nhưng lại làm hại người khác, là phạm tội vọng ngữ nghiêm trọng. Những lỗi vọng ngữ khác, thì tội có nhẹ hơn.
Bốn giới vừa nêu trên gọi là tính giới, vì bản thân nó chính là tội ác, bất luận là có thụ giới hay không thụ giới đều phạm tội. Nhưng những gì Phật pháp không cho phép (có điều là Phật pháp hoàn thiện hơn), pháp luật quốc gia cũng chế tài.
Thứ năm, không uống rượu, là giới không được uống rượu. Phàm những thứ khiến cho con người loạn tính như những loại gọi là rượu, thì tuyệt đối không được uống. Tuy nhiên, có một số người cho rằng, uống rượu có lợi cho sức khỏe, nhưng từ góc nhìn Phật pháp, có thể nói là không đúng chút nào. Một là uống rượu có thể làm loạn tính người, mỗi khi say sưa thì không thể tự kiềm chế hành vi ngôn ngữ của bản thân. Vốn dĩ uống say rồi, không những hiểu nhầm sự việc, mà những việc xấu khi bình thường không dám nói, không dám làm, thì đều có thể làm và lôi hết ra để nói. Luật giới có ghi rằng: Một vị đệ tử Phật, vốn tu hành trì giới rất nghiêm cẩn, nhưng một ngày nọ vì uống rượu say, mà trong một ngày phạm luôn bốn giới quan trọng: sát sinh, trộm cướp, tà dâm và nói dối, cho nên nói rượu “hủy hoại các đức hạnh”. Thật ra, không chỉ bị mất công đức trong Phật pháp, mà ngay cả hạnh phúc gia đình, tình cảm bạn bè, tài sản và sự nghiệp v.v. cũng do nguyên nhân uống rượu mà thành ra tan nát. Hai là tất cả nguồn gốc của tội ác, đều là do điên đảo vô tri. Mà uống rượu khiến người rơi vào trạng thái điên đảo mê loạn, nghiện rượu trở thành chướng ngại lớn đối với đời sống chính tri và chính mạng. Có một số người, thường hay say xỉn, nên khi có con cái, thì tinh thần chúng cũng không được bình thường, hoặc có trường hợp bị mắc bệnh thiểu năng trí tuệ (hội chứng Down). Vì vậy, uống rượu dường như là không có tội ác gì, mà thật ra là làm chướng ngại trí tuệ, là nhân tố dẫn đầu gây bại hoại đạo đức của nhiều người. Cho nên, không chỉ thụ trì bốn giới đầu, mà Phật tử chúng ta cũng nên nghiêm cẩn tiếp nhận và giữ gìn giới “không uống rượu”, để bảo toàn đức hạnh của mình trọn vẹn hơn. Và đồng thời lấy trí tuệ làm gốc, kiên định với lý tưởng tiến sâu vào cánh cửa xuất thế.
Năm giới thụ trọn đời,
Nơi phúc về quy tụ.
Như ở trên đã nói, năm giới là tịnh giới của Ưu bà tắc và Ưu bà di cần phải giữ. Khi quy y, tự mình phát nguyện: “Trọn đời quy y Phật Pháp Tăng”, cho nên cần thụ trì năm giới. Quy y là đặt trọn niềm tin và tự nguyện chí hướng về Tam bảo, nhận giữ năm giới là sự thực hành đúng theo chính pháp. Quy y mà không thụ giữ năm giới, chỉ có thể nói là giả danh Phật tử, sự thật chỉ là giả danh quy y mà thôi. Khi quy y nói rằng: “Kể từ hôm nay cho tới lúc mạng chung, giữ gìn mạng sống”, đây chính là sự thệ nguyện thụ giới. Giới là pháp tự thông với căn bản là lòng từ bi, cho nên lấy sự không sát sinh và hộ trì mạng sống làm gốc; không trộm cướp, tà dâm v.v. đều là sự thuyết minh về việc bảo vệ sự sống. Có người dịch “hộ sinh” (bảo hộ sự sống) thành “xả sinh”, càng thấy rõ hơn khi lấy một giới không sát sinh trong năm giới làm ví dụ (khi thụ giới, không nhất định phải nói rõ tất cả điều giới, thụ giới Tỳ kheo cũng như vậy). Vì vậy, sau khi quy y mới thụ trì năm giới, đừng quá phân biệt giới tướng mà thôi. Chân thành quy y Tam bảo, thì không thể không giữ gìn năm giới. Có tín ngưỡng mà không có sự cố gắng cải thiện hành vi nơi thân khẩu ý, chính là chứng minh cho sự thiếu chân thành trong tín ngưỡng của mình, không thể xem là một vị Phật tử thuần thành, viên mãn được.
Nhưng Như Lai vì lòng bi mẫn, thấy rằng căn cơ người nữ cư sĩ tại gia tập khí tạp nhiễm sâu nặng, nhất thời không thể dễ dàng để thụ trì toàn bộ, nếu quá nghiêm khắc sẽ làm cho họ khó có thể thân cận Tam bảo. Vì vậy, lại tùy theo cá nhân mỗi người có thể thụ trì được nhiều hay ít mà chia ra bốn loại: Ưu bà tắc một phần (giữ được một giới), Ưu bà tắc thiểu phần (giữ được hai giới), Ưu bà tắc đa phần (giữ được ba giới hay bốn giới), Ưu bà tắc mãn phần (giữ được năm giới). Do đó, trong những người đệ tử tại gia quy y Tam bảo, nếu giữ được năm giới thanh tịnh tức là bậc Thượng thiện.
Thụ năm giới mà có thể giữ giới thanh tịnh, đấy gọi là “nơi trở về của chư phúc đức”, giống như được ngọc Ma ni thì tất cả ngọc báu sẽ theo về vậy. Bởi do giữ giới, cuộc sống hiện tại không vi phạm pháp luật quốc gia, được xã hội tôn trọng, chính là trời người hoan hỷ, thiên long hộ trì. Quỷ thần tà ác muốn lôi kéo cũng không thể làm gì được, nên việc gì cũng được tốt lành. Giữ giới, không làm những tội ác gì, tâm luôn thanh tịnh an ổn, quả báo sẽ được tái sinh trở lại làm người hoặc sinh lên thiên giới; hơn thế nữa lại còn có thể an trú thiền định, phát sinh trí tuệ, là cơ sở sinh ra công đức xuất thế. Vậy nên, công đức của năm giới thật sự là không thể nào nói cho hết được.
Ngày đêm siêng giữ giới,
Bậc tùy thuận xuất ly.
Loại tịnh giới thứ hai, là tám chi trai giới, cũng gọi là cận trụ giới. Tám chi giới gồm có: Một, không sát sinh; hai, không trộm cắp; ba, không dâm dục; bốn, không nói dối; năm, không uống rượu. Năm chi này tương đồng với năm giới, nhưng giới không dâm dục, chỉ thụ trì trong thời hạn 24 giờ, dù là chính dâm cũng tuyệt đối không được, điều này tương đồng với người xuất gia, vì vậy nên nói là không dâm. Sáu, là không được xông ướp hương hoa phấn sáp lên thân, không được xem nghe ca xướng múa hát (phân làm hai chi giới), là không được tô son điểm phấn cài hoa, và không đeo đồ trang sức đẹp đẽ quý giá trên đầu; đã không thể xem nghe ca múa, đương nhiên bản thân cũng không được tự mình làm vậy. Bảy, không được ngồi trên giường cao tốt rộng đẹp. Tám, không được ăn phi thời, tức là quá giờ ngọ thì không được ăn. Ba giới sau, tương đồng với người xuất gia. Giới không ăn phi thời trong tám giới, gọi là trai giới. Phật tử tại gia, không thể xuất gia tu hành, nên đối với đời sống xuất gia sẽ vô cùng hâm mộ. Vì vậy, Đức Phật chế ra tám giới, là muốn tạo điều kiện cho hàng Phật tử tại gia có phát tâm giữ giới tu tịnh hạnh một ngày một đêm. Đây chính là tùy thuận theo hạnh của bậc xuất ly như A la hán... Nghiêm cẩn học tập đời sống thanh đạm của người xuất gia; thụ giới này rồi thì có cơ hội thân cận với Tăng già hoặc A la hán mà trụ, nên gọi là cận trụ giới. Năm giới là giữ suốt đời, nhưng suy cho cùng nó chính là đức hạnh của người Phật tử tại gia, nên trong thời gian ngắn đến học hạnh xuất gia, thụ giữ tám giới này. Như được giữ thêm những giới quý chưa từng được tiếp nhận, chính là giới của hàng Sa di chính thức xuất gia.
Tám phần trai giới, Phật chế một ngày một đêm thụ trì, thông thường đều vào sáu ngày trai trong mỗi tháng (âm lịch) như: Mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30, là những ngày bố thí tu thiện theo tập tục của Ấn Độ. Vào sáng sớm của những ngày này, nói chung người Phật tử tại gia phải đến trong tự viện, thỉnh mời A xà lê truyền thụ giới một ngày một đêm. Trong ngày thụ giới đó không được hủy phạm, đến sáng sớm ngày hôm sau, khi mặt trời mọc lên ở hướng Đông mới tuyên bố hoàn tất. Lần sau muốn trì giới, cũng lại đến thỉnh Sư trưởng truyền thụ. Người tại gia, không thể nào trong thời gian dài sống đời sống như người xuất gia được, bởi vậy Đức Phật chỉ chế định một ngày một đêm. Nhưng có cho rằng: Không bắt buộc phải hạn định trong một ngày một đêm, tùy theo sự phát tâm của người thụ trì trai giới trong ba ngày, năm ngày, hay một tháng, đều có thể được.
So với năm giới, tám phần trai giới lại tinh nghiêm hơn rất nhiều. Nhưng năm giới thì phải giữ trọn đời, vì vậy cũng có điểm ưu thắng hơn tám phần trai giới. Cho nên công đức của năm giới và tám giới, tùy theo hoàn cảnh thụ giữ mà phân định, chứ thật khó nói cái nào ưu cái nào liệt. Hơn nữa, năm giới là giới hạnh chính của hàng Phật tử tại gia, tiến lên một bước là học tập đời sống hạnh xuất gia, mới thỉnh thoảng thụ giữ tám phần trai giới. Nhưng trong đó cũng có năm giới không thể giữ suốt đời, tức là phát tâm tu giữ tám phần trai giới này trong thời gian ngắn mà thôi. Tuy là ngoại lệ, nhưng Phật pháp lấy việc hướng dẫn người hướng thiện làm chính, cho nên cũng cho phép như vậy.
Không sát trộm tà dâm,
Không vọng ngữ lưỡng thiệt,
Không ác khẩu ỷ ngữ,
Rời tham sân tà kiến.
Gốc rễ là điều lành,
Phật thuyết mười thiện nghiệp,
Trời người theo làm thiện,
Lập ba thừa Thánh pháp.
Tịnh giới thứ ba, mười thiện nghiệp cũng gọi là Thập thiện giới. Khi Như Lai chế định luật nghi, có nghi thức trao truyền và tiếp nhận trong giới luật, không có mười thiện nghiệp, nhưng dựa theo Hoa nghiêm kinh - phẩm Thập địa, Ưu bà tắc giới kinh v.v. Nhập trung luận, Nhiếp Ba la mật đa luận v.v. đều nói mười thiện nghiệp đạo là giới của Bồ tát. Từ A hàm kinh về sau, mười thiện nghiệp là đức hạnh quan trọng như thụ trì năm giới. Trong Phật pháp, giới và luật nghi là đồng nhau mà lại như có ít nhiều sự bất đồng. Bất luận là tự thệ nguyện thụ trì, hay là thụ trì từ Sư phụ, thì đều là giới cả, căn bản là mười thiện nghiệp. Dựa vào hoàn cảnh, căn cơ của người tu học, mà quy luật chế định không giống nhau, như năm giới, tám giới cùng tám loại luật nghi (nhiếp tận giới luật phép tắc của hàng Thanh văn), là giới cũng là luật nghi.
Cho nên, tại trong phúc nghiệp giới này sẽ bàn đến mười thiện nghiệp là đức hạnh căn bản.
Mười thiện nghiệp được phân thành ba loại: Thân, khẩu, ý. Thiện nghiệp về thân có ba: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, tương đồng với ba giới đầu tiên trong năm giới. Thiện nghiệp về lời nói có bốn: không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói thêu dệt. Không nói dối đồng với giới thứ năm. Không nói lưỡi đôi chiều là không cố ý phá hoại sự hòa hợp của tha nhân, nhà bên Đông nói bên Tây, nhà bên Tây lại nói bên Đông, đâm bị thóc chọc bị gạo, gây ra xích mích bất hòa và chia rẽ. Không ác khẩu là không nói lời thô ác, khiến cho người khác phiền não không thể chịu được như: trách mắng, phê bình với thái độ châm chọc, khiêu khích đầy ác ý v.v. Không ỷ ngữ (nói thêu dệt) là không nói những lời vô nghĩa, như bàn tán chuyện dâm ô trộm cướp, ca hát khiêu vũ, nói cười vô bổ, hoặc nói chuyện phiếm tán hươu tán vượn trên trời dưới đất. Đây không chỉ là lãng phí thời gian, mà còn có hại cho thân và tâm. Mười nghiệp thiện xem trọng ở ngữ nghiệp, chính là sự hiểu biết rõ đây là đức hạnh căn bản để con người cùng chung sống an lạc. Con người nhờ vận dụng ngôn ngữ, mà có thể truyền đạt tâm tư tình cảm giữa người với người; giả như người ta mà cứ dùng những lời dối gạt, thêu dệt, giả tạo, hay lại đay nghiến tổn thương lẫn nhau v.v. thì thử hỏi làm sao cuộc sống có thể an vui hạnh phúc được, làm sao có thể bàn đến những chuyện gia đình thuận hòa yên ấm, quốc gia hưng thịnh bền vững được? Sự truyền đạt của ngôn ngữ qua nhanh như gió thoảng rốt cuộc khó có thể lan truyền sâu rộng. Phải đến khi chữ viết ra đời, mới có thể truyền đi xa và lâu hơn. Hơn nữa, thời cận đại phát minh ra điện thoại, truyền hình, Internet v.v. Đây chính là ý thức của nhân loại trên thế giới, càng làm cho thông tin truyền đi tương tác với nhau một cách mau chóng. Tuy nhiên, khi tin tức được truyền đi sẽ có rất nhiều những lời không thật, những ý thêm thắt, những câu thô ác sâu cay (đồi trụy khiêu dâm...), chúng ta hiện nay đang phải đối mặt với một thế giới như vậy. Tuyên truyền xây dựng một thế giới hòa bình lâu dài cho nhân loại, mà lại tràn lan những điều trái với luân thường đạo đức, thì cũng như câu cá trên cây mà thôi! Ý nghiệp có ba: rời tham dục, bỏ sân giận, lìa xa tà kiến. Dứt trừ tham dục là: Đối với tài sản vật chất, quyền lực địa vị, danh vọng sắc đẹp của người khác v.v. không được khởi tâm tham muốn luyến ái mong cầu hay chiếm hữu, không được tính kế bày mưu chiếm đoạt tài sản của người, mà nên an phận biết đủ, gột bỏ cái tâm tham dục. Xa rời sự sân giận là: Đối với người khác không được khởi tâm nóng giận, phẫn hận v.v. không nên có ý niệm sẽ làm hại ai đó. Xa lìa tà kiến tức là chính kiến, chính kiến có thiện có ác, có nghiệp báo, có kiếp trước đời sau, có phàm phu và Thánh nhân... Ý nghiệp tuy là từ nội tâm, nhưng nó biểu lộ ra nơi lời nói và hành vi. Trái ngược với mười thiện nghiệp là mười nghiệp ác. Xa rời mười nghiệp ác, hành mười nghiệp thiện, chính là việc làm đạo đức mà tất cả mọi người cần nên cố gắng thực nghiệm.
Nghiệp thiện vốn là có rất nhiều, nhưng theo sự biểu hiện rõ qua các trọng nghiệp thì có mười thiện nghiệp. Đức Phật nói mười nghiệp thiện, là những nghiệp lành căn bản. Trong Pháp Đại thừa, đây chính là giới Bồ tát, cũng là giới của Thanh văn, Duyên giác, trời, người; là căn bản của tất cả những việc thiện. Cho nên nói: “Điều thiện là chỗ nương tựa của trời người”, Tam thừa Thánh pháp do đây mà được thành lập. Ở trong Phật pháp, mười nghiệp thiện là đức hạnh thông suốt từ đầu cho tới cuối, như Hải long vương kinh nói: “Tất cả thiện pháp, là nơi căn bản viên mãn để trời người nương tựa; là gốc rễ của giác ngộ Thanh văn Độc giác nương nhờ, là nơi nương tựa căn bản của Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Thế nào gọi là chỗ dựa căn bản? Gọi là mười nghiệp thiện”1. Lại nói: “Mười thiện nghiệp đạo, là pháp sinh về cõi trời người, được quả Sa môn hữu học và Vô học, Bồ đề Độc giác, và là diệu hạnh của tất cả Bồ tát, là chỗ tựa nương của tất cả Phật pháp”2.
1 Bồ đề đạo thứ đệ quảng luận, quyển 4 dẫn luận, trang 66c-67a.
2 Bồ đề đạo thứ đệ quảng luận, quyển 4 dẫn luận, trang 67a.
Dục lạc chớ dính mắc,
Tán loạn lắm khổ đau,
Nương từ trụ tịnh giới,
Tu định an lạc nhất.
Bây giờ lại nói đến tu định phúc nghiệp. Có người cho rằng: Bố thí là việc làm thiện tích cực có ích cho tha nhân, trì giới chỉ là việc làm đạo đức điều phục bản thân mang tính tiêu cực, tu định thì có phúc thiện gì ở đâu mà nói? Không biết rằng Phật pháp lấy “thanh tịnh tâm ý mình” làm cốt yếu, mà trong pháp tại thế gian duy chỉ có tu định mới có thể thành tựu mục tiêu này. Hễ là dùng đức hóa chính trị, đức hóa tôn giáo, khi luận cứu đến căn bản của đức hạnh, thì không thể không nghiên cứu sâu về nội tâm. Như nhà Nho lấy tề gia trị quốc bình thiên hạ làm trách nhiệm của mình, nhưng nếu không tu thân thì không được. Từ thiên tử cho đến hàng thứ dân, đều phải lấy tu thân làm căn bản, mà tu thân là cần phải thực hành các việc: hiểu biết thấu đáo, thành ý, tâm ý chân chính. Gốc rễ của vấn đề, truy tìm một cách triệt để chính là tại nội tâm của mình. Định tâm thanh tịnh mà không hề có sự tán loạn tạp nhiễm, đây không phải nói là thiện hay sao? Đây là đức hạnh còn gì đáng quý hơn! Như trong Đại học cho rằng: “Biết dừng thì sau có thể đắc định”, đến “an rồi sau sẽ được”, đây chính là quá trình chuyển biến nội tâm của thế gian tu định phúc nghiệp. Vì sao phải tu định? Lý do thì có rất nhiều, nhưng chủ yếu cho rằng thế gian thực tế có hai nguyên nhân lớn dẫn đến gây tạo tội ác, nếu không tu định không thể đối trị được. Thứ nhất là dục lạc: Nhân loại đối với các dục lạc thuộc về vật chất như: sắc, thanh, hương, vị, xúc, và dục lạc giữa nam nữ, đều là sự tham luyến không thể từ bỏ được.
Dục lạc trong hiện tại cũng đam mê chẳng thể buông ra được. Những dục lạc đã từng trải qua rồi, cũng không thể nào quên. Những ham muốn chưa kinh qua thì dõi mắt truy tìm. Những thứ dục lạc này khiến con người ta khổ đau vì mong cầu mà không sở hữu được, khi có rồi lại sợ mất đi, lúc mất rồi thì sầu khổ tột độ! Thử nghĩ xem: Tất cả những vấn đề trong thế gian như xã hội, kinh tế, chính trị v.v. dường như tồn tại bởi sự tham muốn dục lạc của con người. Đừng mê muội dính mắc vào dục lạc, bởi vì giống như sự hấp dẫn của chút mật dính trên lưỡi dao vậy, đợi bạn liếm vào rồi mới thực sự nếm trải nỗi đau đớn khổ sở của vết cắt.
Thứ hai là tán loạn: Tâm người ta thường tán loạn chạy nhảy, nó còn nhanh hơn khỉ vượn chuyền cành gấp nhiều lần. Do vậy, sự nhiễu loạn của nội tâm, ý niệm dễ xao động thì nhận thức chẳng thể rõ ràng (tán loạn nặng đến nỗi học thức thế gian cũng không thể nào hiểu được). Tự mình không thể khống chế được bản thân, hầu hết đều tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi. Tán loạn lại là nhân tố căn bản có năng lực phát khởi phiền não, vọng tưởng điên đảo, khiến cho con người rơi vào đa sầu khổ não trong biển dục, không thể tự thoát ra được. Tu định, mới có thể cắt đứt sự trói buộc của dục lạc và không bị sự tán loạn quấy nhiễu, tâm hồn vẳng lặng trở nên sáng suốt an tịnh cho nên được tự tại.
Nhưng tu tập thiền định không thể không chuẩn bị trước hai điều, nếu không có thể sẽ dẫn đến hại nhiều hơn là lợi. Một là dựa trên nền tảng của tâm từ: Tu định, không phải do hiếu kỳ, không phải có ý thỏa mãn dục lạc vô độ hay kéo dài tuổi thọ, hoặc là vì muốn chứng được thần thông để trả thù ai đó, mà cần nuôi dưỡng tâm từ rộng lớn và tu định là vì chí nguyện làm lợi lạc cho chúng sinh. Có tâm từ, lòng sẽ nhẹ nhàng an ổn, dễ dàng thành tựu con đường tu hành, cũng sẽ không lợi dụng định lực hoặc sức thần thông để nhiễu loạn, dụ dỗ và mê hoặc chúng sinh,... Hai là an trụ trong tịnh giới: Cần phải thụ giữ tịnh giới (mười thiện nghiệp...), thân khẩu ý được thanh lọc để hoàn thiện đạo đức. Nếu không dừng tạo nghiệp mà lại muốn tu định, thì sẽ dễ lạc vào ma đạo. Dù có thành tựu được định lực thì cũng chỉ là tà định, kết quả là trở thành thuộc hạ của ma vương, tự hại mình hại người mà thôi.
Trước khi tu, cần phải xác quyết một niềm tin vững chắc rằng: Các pháp trong thế gian, tu định là pháp an lạc nhất. Bởi lẽ, niềm vui thế gian không nằm ngoài niềm vui của năm dục, dục lạc giữa nam nữ được xem là nhất, nhưng đem so sánh với niềm vui thiền định thì quả thật không thể bằng được. Niềm hỷ lạc trong thiền định thông thấu đến tận xương tủy, thấm nhuần khắp châu thân ví như một cơn mưa lớn khiến cho nước mưa ngập tràn hết từ cống rãnh, kênh rạch cho đến ao hồ vậy. Nếu có thể tin và hiểu một cách chuẩn xác rằng, tu định có thể mang đến niềm pháp hỷ mà khoái lạc thế gian không thể nào sánh được, thì hành giả trong quá trình tu tập sẽ không còn tư tưởng luyến tiếc dục lạc vật chất bên ngoài, một lòng kiên trì bền bỉ tu hành không dừng nghỉ, không mệt mỏi.
Điều nhiếp với ba việc,
Tâm cảnh hợp vào định,
Chóng xa rời phân biệt,
Khổ vui sẽ hết dần.
Nói đến phương pháp tu tập thiền định, không ngoài việc điều dưỡng thân tâm. Điều là nhiếp phục, điều hòa, tâm người ví như con ngựa khó thuần hóa, chế ngự; lại giống như con bò xấu tính, đến đâu cũng giẫm đạp lúa mạ. Do vậy, cần phải một phen hạ thủ công phu đào luyện đến khi nó khuất phục, khiến cho tâm hồn trở nên dễ chịu, thư thái, thuần hòa tùy theo ý muốn của mình mà chuyển đổi. Cho nên tích xưa có chuyện thí dụ về “điều ngựa”, “chăn trâu”. Điều chính là điều hòa thân thể, hơi thở vào ra, tâm tư cảm xúc, đều cần phải làm chủ kịp thời, đừng để cho động loạn mới có thể dần dần đi vào an định. Nhiếp là thu nhiếp, giúp cho tâm ý tập trung chuyên nhất, không bị tán loạn. Đối tượng của điều nhiếp có ba việc: thân, hơi thở, và tâm, như Tiểu chỉ quán... có nói: thân thể cần phải bình ổn chính trực, an hòa thích hợp, không được tùy tiện dao động, cũng không nên để cho thân thể phải chịu đựng cảm giác chất chứa căng thẳng. Mắt nhắm, miệng ngậm, dùng lưỡi chống hàm trên cũng không nên dùng sức. Điều hòa hơi thở ra vào, để cho hơi thở càng nhẹ càng dài, không nên phát ra âm thanh, cũng không được chuyển động, như có mà như không; nhưng phải từ từ tập luyện mà thành, không nên quá vội vàng. Điều tâm, là khiến cho tâm buộc niệm trong duyên, không tán loạn, không hôn trầm, không trạo cử; tâm ý tập trung vào một nơi mà có thể ngay thẳng, tự nhiên an định. Ba đối tượng này có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, lấy tâm làm chủ, thì thân thường trụ trong an định, tâm với hơi thở nương nhau mà đạt đến cảnh giới tịnh tĩnh.
Cần phải tu tập như thế nào mới được xem là đạt định? Khi mà tâm có thể đạt đến tâm nhất cảnh tính, thì gọi là định. Định trong Phạn ngữ là Tam ma địa, ý nghĩa là đẳng trì. Đẳng là ngay thẳng trang nghiêm, không kích động trạo cử, không hôn mê chìm đắm. Trì là nhiếp giữ nhất tâm, không cho tán loạn. Khi mới tập định, buộc niệm nương vào một cảnh, ban đầu vọng tưởng ngổn ngang nhiễu loạn, thực chẳng dễ an trụ. Tư tưởng cứ nối tiếp miên man, khiến cho ý niệm thường thay đổi; chú tâm lâu ngày thì vọng niệm sẽ tiêu dần, tiến thêm bước nữa thỉnh thoảng vọng niệm cũng có nổi lên. Lâu dần về sau, khi có thể giữ trạng thái cân bằng, tâm trụ vào một cảnh, cảm nhận thân và tâm trở nên thư thái khinh an, tức đã đạt định rồi vậy.
Định có rất nhiều giai đoạn, từ cạn vào sâu, tức là bốn thiền tám định vẫn thường hay nhắc đến. Bây giờ xin nói rõ một số loại. Căn cứ về sự phân biệt mà nói dần xa lìa sự phân biệt. Tâm chúng sinh đều luôn có sự phân biệt, là tâm niệm của người bình thường, không ngăn được sự đổi thay của duyên trần, thì không dứt được sự biến dịch sai khác trong việc lĩnh hội và thực hành. Tu tập thiền định, là khiến cho tâm an trụ vào một cảnh, niệm niệm tương tục rõ ràng, tâm phải cực kỳ an định sáng tỏ và thấu triệt mới có thể nhập định. Có một số người có vọng niệm vi tế nhỏ nhiệm, hoặc là hôn trầm mê muội không nhận ra, cho rằng tâm mình đã đạt đến chỗ không còn phân biệt rồi. Họ đâu biết rằng mặc dù đã nhập sơ thiền, nhưng tâm vẫn còn có sự phân biệt thô của tầm (tìm kiếm), và sự phân biệt vi tế của tứ (quan sát), cho nên gọi là tam ma địa có tầm có tứ.
Từ giữa sơ thiền đến nhị thiền, được gọi là trung gian thiền, đến đây mới không còn sự phân biệt thô, gọi là tam ma địa không tầm có tứ. Tới nhị thiền, thì ngay cả sự phân biệt vi tế cũng chẳng còn, gọi là không tầm không tứ tam ma địa. Khi đạt đến cảnh giới này, ngay cả ngôn ngữ còn không muốn nói ra (ngôn ngữ là sự âm thanh hóa của nội tâm tìm kiếm và quan sát). Đến tam thiền, liền tỏ ngộ được nội tâm bình đẳng thanh tịnh, vì vậy nói rằng: “Bên trong thanh tịnh bình đẳng, chính niệm chính tri”, nhưng đây là những thứ đến từ bên ngoài, nhất định chớ lấy đó mà cho rằng tâm đã thực sự vô phân biệt, đã chứng tâm thể bản tịnh. Chẳng qua theo thế gian pháp mà nói, từ nhị thiền trở lên, thì có thể gọi là cảnh giới siêu việt không còn tâm phân biệt nữa. Hai là khái quát theo đầu mối tâm tư: “khổ vui trước sau đều hết”. Trong Dục giới này, chúng sinh tùy theo sinh nghiệp mà dẫn đến cảm thụ khổ đau, từ tâm lý dẫn dắt mà có cảm thụ phiền não. Khi tu đến sơ thiền, những dục lạc não động dẫn tới ưu khổ sẽ không xuất hiện lại nữa. Lúc đó, do xa rời dục lạc mà phát sinh hỷ lạc: Hỷ là niềm vui từ nội tâm, lạc là sự nhẹ nhàng khinh an của thân tâm. Khi đã đến nhị thiền, tuy cũng có hỷ lạc giống như vậy, nhưng đó là định sinh hỷ lạc, không giống như sự xung động ban đầu do ly dục mà sinh hỷ lạc, như vậy niềm vui rốt cục là sự kích động. Bởi thế tiến nhập vào tam thiền gọi là ly hỷ diệu lạc, ngay cả vui sướng cũng không còn nữa, cảm nhận về niềm vui của tầng định này là đã đạt đến đỉnh điểm của cảm nhận hỷ lạc thế gian. Cho nên, hình dung được trạng thái cực lạc, như nói rằng khi đã thể nhập vào niềm vui sướng của cảnh giới tam thiền. Đương nhiên, đây không thể gọi là tương đương với cảnh giới giải thoát phiền não của ly hệ lạc (hỷ lạc do ra khỏi sự trói buộc). Chờ đến cảnh giới tứ thiền trở lên, cảm thụ an lạc cũng dừng nghỉ luôn rồi, duy chỉ có một vị là xả thụ tĩnh tại. Đến đây đem so với cảnh giới xung động hỷ lạc, thật sự là phúc lạc cao hơn rất nhiều!
Tứ thiền tứ không xứ,
Từ bi… Tứ vô lượng
Phật thuyết các pháp Thiền,
Theo thứ tự tu tập.
Nói đến giai đoạn cạn sâu của pháp thiền định, trước tiên có bốn bậc thiền căn bản: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Thiền là tiếng Phạn, ý nghĩa là tĩnh lự, so sánh định và tuệ bằng nhau, nên Phật pháp rất coi trọng đến pháp thiền này. Từ tứ thiền trở lên, có tứ không sở định: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tứ không sở là loại định duy tâm của thế tục, khi định tâm càng sâu, thì tuệ lực càng yếu đi. Tứ thiền tứ không sở, gọi chung là bát định. Đây là pháp chung của thế gian, ngoại đạo cũng có thể tu được. Nếu ước định lực sâu cạn mà nói, đây là pháp thiền định toàn diện từ cạn đến sâu.
Tứ vô lượng định gồm có: từ, bi, hỷ, xả. Từ là nguyện cho mọi người được an vui, bi là thương xót nâng đỡ chúng sinh đang thống khổ, hỷ là tùy hỷ với niềm an vui của tha nhân, và xả là tâm trụ tính bình đẳng chẳng thiên vị ưu ái người thân, cũng không có tâm niệm oán hận kẻ đối địch. Khi tu đạt bốn món thiền trên thì có thể tu tập thiền định tứ vô lượng (nhưng hỷ vô lượng lại hạn chế ở sơ thiền và nhị thiền). Tại sao gọi là vô lượng? Khi tu tập, hoặc từ hoặc bi... trước tiên là quán chiếu tình thương tới người thân, sau lại trải rộng tâm từ bi đến cả người oán ghét mình; quán từ một người đến một số người, rồi quán tưởng đến cộng đồng, một quốc gia và cả thiên hạ, một phương thế giới đến chúng sinh Dục giới, cho tới khi bao trùm khắp hết thảy mười phương thế giới; tâm từ bi hỷ xả được sung mãn mà nguyện cho chúng sinh vượt thoát khổ được an vui… Duyên đến mười phương vô lượng chúng sinh, có thể được thật nhiều phúc báo, cho nên gọi là vô lượng. Đức Phật thuyết về phúc nghiệp tu thiền định, đa phần là nói cho người Phật tử tại gia, nên nhấn mạnh ở Tứ vô lượng tâm, thường nhớ nghĩ giữ tâm như vậy đừng để mất đi. So với lòng nhân của Nho giáo và lòng bác ái của đạo Ky Tô, có chỗ tương thông với nhau. Đây chính là pháp chung và là đạo đức cao nhất của thế gian, là pháp môn vãng sinh về thiên quốc.
Phật thuyết những định pháp này, nên dựa theo đó mà từng bước tu tập. Từ nền tảng căn bản sơ thiền mà tiến lên nhị thiền, từ nhị thiền mà chứng đắc tam thiền, thẳng lên cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng. Tiến trình này không thể vượt cấp được, chưa trải qua chặng đường tu tập thuần thục, thì tất yếu chẳng thể siêu vượt trình tự hoặc đảo lộn thứ lớp mà tu tập vậy.
Bố thí nhiều tạp nhiễm,
Thiền định hướng độc thiện,
Theo người hướng đạo Phật,
Giới hạnh làm căn cốt.
Như ở trên đã nói, muốn làm người thì được thân người, tu thiên đạo lại không thể sinh thiên, trong pháp tu Thiên thừa của người này, muốn nương vào thân người mà dần tiến tu theo Phật đạo, thì nên tu như thế nào đây? Cần chú trọng việc giữ giới. Bởi vì tu tập nghiệp lành bố thí của con người trong thế gian này, đa phần là không đúng chính pháp và còn chứa nhiều tạp nhiễm phiền não. Bất luận là phúc bố thí có lớn nhường nào chăng nữa, nhưng nếu không trì giới thì ngay đến thân người cũng không thể có được, chỉ có thể ở trong các loài bàng sinh, ngạ quỷ, a tu la mà si mê hưởng phúc, tương lai vô cùng nguy hiểm. Tu thiền định, đương nhiên là rất thù thắng, nhưng trong khi tu hành lòng chán ngán ngũ dục, để rồi lìa xa nó mà vào trong rừng sâu ẩn tu, chuyên chú vào sự an lạc trong thiền định của mình và cứ thế dấn thân trên lộ trình hướng thiện “độc lộ độc hành”. Chờ đến khi chứng nhập nhị thiền trở lên, thì đến đi đều chỉ có một mình. Điều này đối với việc thực hiện hòa bình an lạc trong nhân gian, mà hướng đến hạnh Bồ tát hóa độ chúng sinh, là có khác biệt lớn. Cho nên, mong rằng khi được tái sinh không mất thân người, lại nương vào thân người mà dần dần hướng đến Phật đạo, không thể coi nhẹ đức hạnh năm giới và mười nghiệp thiện, mà phải lấy đó làm trọng yếu. Bồ tát mới học đạo gọi là “Bồ tát mười thiện”, cũng là chú trọng đến mười thiện hạnh.
Người có giới hạnh thì có thể tái sinh tại nhân gian, dù có nghèo nàn cũng không nhất định chướng ngại việc học Phật. Nếu người có giới hạnh mà lại siêng năng tu hạnh bố thí, sẽ được phúc nghiệp rộng lớn trong cõi người, như vậy lại càng tốt đẹp hơn nữa. Cũng như vậy, nếu có giới hạnh mà chưa có định, không mất thân người thì từ nơi giới sẽ dần tu sâu vào định pháp. Ngược lại, nếu như sinh lên cõi trời trường thọ, thì sẽ trở ngại rất lớn cho việc học Phật. Do vậy, nương theo thân người mà tiến tu Phật đạo, nên lấy giới hạnh làm chính, tức là xem trọng đạo đức trong nhân gian, kiện toàn nhân cách. Từ những giới hạnh căn bản này, nên tùy sức mà bố thí. Như muốn tu định pháp, nên tu tứ vô lượng định, bởi vì pháp xuất thế Đại thừa này có lợi ích cho chúng sinh, và có chỗ mật thiết tương thông.
Người tâm tính sợ hãi,
Phật dạy nên niệm Phật.
Tâm nơi Phật Pháp Tăng,
Giới thí thiên công đức.
Như ánh sáng đến đâu,
Bóng tối dần tiêu mất.
Có một số người, tâm tính thường yếu đuối sợ hãi, có vô vàn những nỗi lo sợ, bất an, như một mình đi trong đêm tối, hoặc khi một mình ở trong tịnh thất, sợ quỷ sợ thần, lại sợ bệnh, sợ già chết, sợ sau khi chết lại bị đọa lạc.
Chất chứa quá nhiều u sầu biến hoại như thế, khiến cho thân tâm khổ não không thể chịu nổi. Đối với những người có tâm tính khiếp nhược này, Đức Phật dạy nên tu pháp môn sáu niệm1. Niệm là hệ niệm, ức niệm, làm cho tâm làm thay đổi cảnh trong khi quán niệm. Niệm là phương pháp tu tập về định, vậy nên nếu niệm sâu có thể đạt được nhất tâm bất loạn, niệm cạn thì tâm có thể niệm niệm nối nhau không dứt.
1 Là pháp tu sáu niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí và niệm thiên.
Thế nào là sáu niệm? Thứ nhất, là nhớ nghĩ về công đức trang nghiêm của Đức Phật: trí đức, ân đức, đoạn đức và những công đức khác. Thứ hai, là nhớ nghĩ về chính pháp của Phật, là con đường thanh lương có thể giúp cho người tu tập giải thoát. Nếu như có thể tiếp nhận, thụ trì, phụng hành, thì đến lúc nào đó đều sẽ thông đạt chính trí. Thứ ba, là nhớ nghĩ về bốn đôi tám bối của chư Tăng (Thanh văn); có công đức của giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến v.v. là ruộng phúc của thế gian. Rồi lại nghĩ về Bồ tát Tăng, có đại bi đại trí, lợi mình và lợi người. Đây chính là nghĩ nhớ về công đức Tam bảo, tự thân quy hướng về Tam bảo và tiếp nhận sự hộ trì, tự tâm an trú trong uy đức thanh tịnh của Tam bảo, liền có thể xa rời niệm ác, rời xa tham dục nhiễm ô, cũng có thể thoát khỏi sự sợ hãi ưu sầu và hối hận... Trong Thí dụ kinh nói: Như trời Đế thích và a tu la đánh nhau, những bộ hạ của Đế thích như na già, dạ xoa v.v. Khi nhìn thấy lá cờ hiệu của Đế thích tung bay, mà dũng khí chiến đấu tăng lên gấp bội. Nếu như chúng sinh thường tâm niệm về công đức Tam bảo, tin sâu vào bản thân nhận được sự hộ trì, tâm được an định thì đâu còn sự bạc nhược khiếp sợ nữa?
Thứ tư, là nhớ nghĩ về giới mà bản thân có thể gìn giữ không vi phạm, không khiếm khuyết. Thứ năm, là tự mình nhớ lại lúc trước đã từng tu tập pháp thí thanh tịnh trong ruộng phúc Tam bảo. Thứ sáu, là tự mình nhớ nghĩ về công đức đã từng tu tập về bố thí và trì giới, vì thế có thể được quả báo phúc lạc thắng diệu với bảy báu trang nghiêm của cõi trời Dục giới. Sợ bệnh, sợ chết, sợ đọa lạc, trong kinh điển phần lớn đều dạy nên tu pháp môn sáu niệm này. Người không thể không bệnh, không thể không chết, nếu đã từng tu công đức, sau này sẽ nhớ đến hiện tại, cũng giống như người ra khỏi bóng tối bước vào ánh quang minh; như người bước ra từ mái nhà lá mà đi vào lâu đài tráng lệ, miễn nhiệm chức vụ cấp thấp và được điều lên chức vụ cấp cao hơn. Nếu có thể nhớ lại như vậy, thì muốn chúc mừng còn không kịp, há lại có ưu sầu sợ hãi hay sao? Thật ra chuyện đáng sợ hãi, không phải là già chết sẽ đến, mà chính là sợ mình không có công đức của sự quy y tu tập về bố thí và trì giới, để một đời luống qua vô ích.
Nhớ nghĩ về công đức Tam bảo, từ sự quy kính Phật Pháp Tăng mà đến. Như Cực lạc thế giới, cũng lại nhớ nghĩ: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Nếu như có thể chân thật quy y Tam bảo một cách trọn vẹn, thì cũng sẽ chính niệm Tam bảo. Bất luận là hệ niệm về công đức Tam bảo, tưởng nhớ tới công đức của bố thí, trì giới, cõi trời, đều là do niệm mà dẫn phát sự tin hiểu chắc thật. Tin sâu vào sự nhiếp hóa hộ trì cùa Tam bảo, tin sâu vào sự tất yếu của nhân thiện sinh quả thiện, kiên định không chút hoài nghi, điều tự nhiên là như được tụ vào trong ánh sáng lớn, mà tất cả những điều hắc ám của sợ hãi, lo âu, ưu phiền, hối hận v.v. đều lập tức tiêu tan trong nháy mắt.
Chính niệm kính Di Lặc,
Cầu sinh Tịnh độ kia,
Pháp môn thực hiếm có,
Dễ gần và phổ cập.
Gặp Phật được nghe pháp,
Còn lo gì thoái đọa?
Hoặc là hiểu được rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập Niết bàn, Đức Phật Di Lặc còn chưa ra đời, dù là tu pháp môn sáu niệm hoặc lễ Phật niệm Phật, tất cả đều cần có Phật như là một nơi an toàn để quay về nương tựa. Với một niềm tin kiên định cứ thế, và rồi hướng tới giác ngộ. Đức Phật có nhân duyên đặc biệt với chúng ta, mới có thể hộ trì chúng ta không bị thoái đọa.
Đây tuy nhiên là đối với công đức Tam bảo, định luật nhân quả, còn thiếu sự tin hiểu sâu sắc, nhưng đây cũng là chuyện thường tình của chúng sinh. Phật Thích Ca đại từ đại bi, đã từng thuyết về pháp môn chính niệm kính Di Lặc, cầu sinh Tịnh độ kia. Vì trong pháp hội, Bồ tát Di Lặc được Đức Phật Thích Ca thụ ký tương lai sẽ thành Phật tại cõi nước này. Hiện tại, Bồ tát đang ở trên cõi trời Đâu suất, tại đây có một khu vực đặc biệt gọi là nội viện Đâu suất. Phàm là tương lai hạ sinh thành Phật, trước tiên đều phải sống tại nơi này, Phật Thích Ca trước kia cũng từng ở nơi đó. Nội viện Đâu suất là nơi Tịnh độ thanh tịnh trang nghiêm, Bồ tát Di Lặc thường ở tại nơi đây, vì đại chúng vô lượng mà thuyết pháp. Trải qua một khoảng thời gian nữa, Bồ tát Di Lặc sẽ thành tựu quả vị Phật tại cõi Nam diêm phù đề này, lúc đó thế giới của chúng ta sẽ sớm chuyển thành Tịnh độ thôi. Di Lặc thị hiện trong Tịnh độ nhân gian này, tam hội long hoa hóa độ vô lượng chúng sinh. Cho nên, nếu có thể phát nguyện vãng sinh về cõi trời Đâu suất, thì sẽ gặp được Bồ tát Di Lặc, sau này cùng Phật hạ sinh xuống nhân gian, thấy Phật nghe pháp, vậy đương nhiên sẽ thẳng tiến lên trên, còn gì để lo lắng sẽ bị đọa lạc nữa hay sao? Phật Thích Ca từ bi khai thị trong Di Lặc hạ sinh thành Phật và Bồ tát Di Lặc thượng sinh kinh v.v.
Pháp môn vãng sinh Di Lặc Tịnh độ, so với những Tịnh độ của mười phương thế giới, thật là hiếm có bậc nhất, an ổn vững chắc nhất! Ở đây có thể dựa vào ba điểm để nói. Thứ nhất là gần: Bồ tát Di Lặc hiện sống trên cõi trời Đâu suất, sau này sẽ đến nhân gian chúng ta, cùng ở một thế giới, chung một Dục giới, nói về địa điểm là rất gần nhau. Không như những Tịnh độ của mười phương thế giới, đều phải đi qua ít nhiều Phật quốc. Luận về thời gian, đời sau sinh vào nội viện Đâu suất, không là quá lâu để có thể sinh trở lại nhân gian. Không giống như khi vãng sinh vào những cõi Tịnh độ khác, không biết đến năm nào tháng nào mới có thể được trở lại cõi Sa bà này. Thứ hai là dễ dàng: Tịnh độ Đâu suất với Tịnh độ nhân gian ở tương lai, đều là Dục giới an ổn, cho nên chỉ cần có thể quy y Tam bảo, trì giới thanh tịnh, như pháp bố thí, lại thêm phát nguyện vãng sinh, xưng niệm “Nam mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Phật”, thì có thể vãng sinh về cõi Tịnh độ Đâu suất. Không như vãng sinh về Tịnh độ khác, không được nhất tâm bất loạn thì không được. Nhất tâm bất loạn tức là định, điều này quả thật chẳng phải dễ. Thứ ba là phổ cập: Vãng sinh về Tịnh độ Di Lặc không nhất thiết phải phát tâm Bồ đề, tâm xuất ly, mà chỉ là phát tâm tăng thượng sinh của thiện căn trời người, cũng có thể tùy nguyện vãng sinh. Tại Tịnh độ Đâu suất và Tịnh độ nhân gian ở tương lai, Di Lặc tôn Phật là phổ ứng căn cơ chúng sinh mà thuyết pháp trời người, thuyết pháp Nhị thừa, thuyết pháp Bồ tát, người người có thể tùy theo căn cơ mà được lợi ích. Trong quá trình gặp Phật nghe pháp, tăng tiến hướng thượng, dần chuyển hóa căn tính nhân thiên trở thành cơ duyên xuất gia, chuyển hóa căn cơ Nhị thừa trở thành căn tính Đại thừa, đồng quy Phật đạo. Ở đây không như những Tịnh độ khác, ngay cả chủng tính Nhị thừa đều không thể vãng sinh, làm sao có thể thích hợp với căn tính trời người? Do vậy, Tịnh độ Di Lặc mới chính là pháp môn phổ biến, thật sự phù hợp với ba căn và rộng độ cho cả năm loại căn tính.
Có người nói: Hiện tại vãng sinh Tịnh độ Di Lặc, sau này khi Phật Di Lặc nhập Niết bàn, nếu như không thể giải thoát khỏi sinh tử, vậy thì chúng ta phải làm sao đây? (lại sợ không thể gặp Phật nghe pháp nên bị đọa lạc). Không biết Đức Phật Thích Ca từ bi, đem chúng ta phó thác cho Đức Phật Di Lặc ở tương lai. Phật với Phật đồng đạo, lẽ nào Phật Di Lặc lại không chỉ dẫn cho chúng ta thân cận với Phật trong tương lai sao? Như trên có người nói: “Tu thiên chẳng được sinh thiên” thì làm sao lại nói sinh về cõi trời Đâu suất được chứ? Bất sinh thiên chủ yếu là không dựa vào thiền định sâu mà sinh lên cõi trời trường thọ. Trời Dục giới, chính là nội viện Đâu suất của Bồ tát Di Lặc, thường được thấy Phật, nghe pháp tu hành, và đương nhiên là không có gì trở ngại cho sự vãng sinh. Có người lại nói: Vì sao không đề sướng vãng sinh về Tịnh độ Di Đà? Cần phải biết Cực lạc Tịnh độ của Phật A Di Đà là Tịnh độ riêng của hàng Đại thừa, thường thì hàng Thanh văn không tin không biết.
Điều này sẽ nói sau ở trong pháp Đại thừa, còn ở đây nói về sự thông suốt trước sau của pháp chung Ngũ thừa. Có người nói: Trước kia sư tử giác tu học pháp môn của Bồ tát Di Lặc, phát nguyện cầu sinh về nội viện Đâu suất, nhưng kết quả lại sinh tại ngoại viện hưởng thụ dục lạc, cho nên vãng sinh về Tịnh độ Đâu suất, sợ là không thể tin cậy được. Đâu biết câu chuyện sư tử giác sinh tại ngoại viện, những vị hoằng truyền pháp môn Di Lặc, gồm có các Ngài Chân Đế, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang, còn có Ngài Vô Trước, truyện ký của Ngài Thế Thân v.v. đều không có ghi lại câu chuyện nào như vậy, đây chỉ là truyền thuyết của một người nào đó cố ý dụng tâm mà thôi.
Tóm lại, bất luận căn tính nào học Phật, chỉ cần có thể quy kính Tam bảo, như pháp mà bố thí, giữ giới đức thanh tịnh, phát nguyện hồi hướng về Tịnh độ Di Lặc, ngay khi gặp Phật liền được nghe pháp, quá trình tu hành bảo chứng tinh tiến hướng thượng, việc gì phải ưu tư lo sợ bị thoái đọa! Vì vậy, xin chân thành kính thỉnh chư vị phát nguyện vãng sinh, xưng niệm “Nam mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Phật”!