Bốn người phụ nữ đã thấy nhiều thứ kỳ lạ trên đường xuống phía Nam đến Marfa, bao gồm một khinh khí cầu trắng khổng lồ gọi là khí cầu rađa, theo như bảng chỉ dẫn phía ngoài khu vực cất cánh. Khi Rosie tra nó trên chiếc điện thoại thông minh của ả, hóa ra nó là một hệ thống rađa dùng để tìm kiếm các máy bay chở ma túy bay thấp từ Mexico đi qua đây.
“Tao tự hỏi nếu chúng có một loại dành cho các xe RV chở ma túy bay thấp.” Annie nói đùa; chỉ có Rosie bật cười. Giờ Annie đang lái xe, Rosie đang xếp bánh kẹp phô mai trong căn bếp nhỏ và cả chiếc xe đang ngập mùi thịt đun nấu.
Vùng đồng quê là thứ mới mẻ đối với Box, vốn chưa từng đến khu vực phía Tây Nam của Dallas nhiều, dù cô và Gar đã sống ở Texas trong năm năm. Khu vực Marfa có những ngọn núi thấp nhìn thấy ghê, rất nhiều cỏ và cây dại màu vàng; các loại cây bên đường có hình dáng như đến từ hành tinh khác với phần thân cao hai mét nhô lên và phần tán như các bàn tay chìa ra; chúng có thể là xương rồng, hoặc cũng có thể là người ngoài hành tinh.
Khi chúng ăn xong những chiếc bánh kẹp phô mai thì ánh đèn của Marfa hiện lên trong buổi hoàng hôn đang phủ xuống. Rồi, ở phía trước không xa, chúng có thể thấy ánh đèn chớp đỏ của một chốt kiểm soát và chỉ có ba chiếc xe đang đợi để đi qua. Annie nói : “Ớ ờ. Rosie, đưa hai ả kia khuất mắt đi. Ngay bây giờ! Nhanh lên! Tao không muốn phải giảm tốc.”
Rosie kéo nắp sàn lên, Box và Kort chui xuống lỗ, nằm bên cạnh nhau. Có khoảng không ở trên đầu và dưới chân chúng, nhưng không có hơn mười lăm phân từ mũi chúng đến sàn xe. Khi Rosie sập cánh cửa lại, mọi thứ tối đen như mực.
“Con điên dở hơi, mày khiến chúng ta lâm vào tình huống này.” Kort càu nhàu với Box.
“Im mồm đi, tao thực sự chán ngấy việc mày cứ than thở mãi rồi.” Box gầm gừ đáp lại.
“Chết tiệt…” Kort huých củi trỏ vào mạng sườn của Box, đủ mạnh để gây đau đớn.
Không có đủ không gian để vung vẩy, nhưng Box đã vươn lên bằng một tay và tóm lấy môi của Kort và véo. Kort gằn lên một tiếng và đánh Box một cách vụng về bằng một cú đấm, rồi Rosie bắt đầu dậm chân vào sàn và quát: “Im đi, im đi, chúng ta đang đến đấy.”
Box thả môi của Kort ra và Kort nói: “Khi tao ra khỏi đây, tao sẽ đánh tan xác mày ra.”
“Tao thách cả nhà mày.” Box nói.
Chúng thấy chiếc RV phanh và dừng lại.
Ở phía trên, Annie mở cửa trước chiếc RV và một lính tuần tra biên giới hỏi: “Chào buổi tối, các quý cô. Các cô còn có ai đi cùng nữa không?”
“Không.” Annie nói. “Chuyện gì đang xảy ra thế? Có vấn đề gì ư?”
“Chúng tôi có vấn đề với mấy gã đang cố gắng chạy xuống khu vực biên giới ở Presidio. Các cô đang trên đường tới Presidio?”
Annie lắc đầu: “Không, thưa sĩ quan, chúng tôi đến Marfa để xem triển lãm của Donald Judd. Có vấn đề gì ở Marfa không anh?”
“Các cô sẽ ổn ở Marfa. Các cô có phiền nếu tôi ngó vào trong một chút?” Anh ta hạ giọng. “Chúng tôi muốn chắc chắn rằng các cô không bị một khẩu súng chĩa vào mình hoặc gì đó…”
“Được thôi, vào đi.” Annie nói.
Viên sĩ quan trèo lên bậc xe đầu tiên, nhìn dọc vào trong xe RV và nói: “Nếu các cô muốn bỏ chạy khỏi một kẻ bắt cóc thì giờ là lúc đấy.”
“Không có ai khác ở đây cả.” Rosie nói.
Người sĩ quan lùi khỏi bậc thang, mỉm cười và nói: “Các cô ổn rồi. Chúc vui vẻ ở Marfa. Đó là một chỗ nho nhỏ tuyệt vời. Hãy đến xem buổi trình diễn ánh sáng ở Marfa.”
“Chúng tôi sẽ làm vậy.” Annie nói, rồi đánh xe đi qua chốt kiểm soát.
Khi chúng đã ở cách xa, Rosie tự hỏi: “Nếu bản đồ của chúng ta đúng thì chỗ bảo tàng đó ở tuốt đằng cuối của thị trấn. Tao tự hỏi tại sao chúng lại kiểm tra các xe đi vào trong thị trấn?”
“Tao cho rằng, tìm kiếm điều mà hiện chúng ta đang làm – có thể là một cố gắng giải cứu bởi một kẻ khác. Như Dora, hoặc Kort.” Annie nói.
Rosie liếc mắt nhìn về phía tấm thảm xanh trải gọn gàng đang che giấu chỗ để đồ buôn lậu. “Tao bị cám dỗ bởi ý nghĩ để bọn chúng ở yên trong đó. Dĩ nhiên là, có thể chúng đã chết rồi.”
“Điều đó sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề… nhưng tao cho rằng mày nên để chúng ra ngoài.”
Khi Rosie mở nắp cửa, Box, người nhỏ con hơn và uyển chuyển hơn trong số hai người phụ nữ, gần như lập tức choàng ra khỏi khoang chứa – tính uyển chuyển của Kort cùng lắm cũng chỉ giống như là tính dễ mang vác của một cái thùng phuy – Box nói: “Mọi thứ ổn chứ?”
“Chúng ta ổn, chính tên cảnh sát nói vậy.” Rosie trả lời. Kort loay hoay để chui ra khỏi chỗ chứa đồ buôn lậu đó, nửa mặt dưới của ả đỏ như lon Coca vì bị Box véo. Cuối cùng Rosie phải xuống, cầm lấy tay ả và giúp kéo ả ra.
“Đáng ra tao nên giết mày ngay lúc này.” Kort nói với Box. Box ngồi trên ghế dài, nhìn Annie rồi Rosie, ngó lơ Kort và hỏi: “Giờ kế hoạch là gì?”
“Chúng ta sẽ đi xuống phía Nam hết mức có thể và xem xem chuyện gì đang xảy ra. Bọn tao muốn hai đứa mày ngồi yên để không ai thấy chúng mày từ bên ngoài. Khi chúng tao cần chúng mày quay lại chỗ trốn, chúng mày phải chui vào nhanh, chúng tao sẽ để cửa mở.” Rosie nói. “Không ai biết về tao và Annie, nhưng tất cả đang tìm hai đứa mày. Chúng tao nghĩ rằng chốt kiểm soát vừa rồi là để dành cho ai đó đang tìm cách cứu Poole, hoặc giết hắn. Và đó là mày, Dora; hoặc mày, Charlene.” “Đáng ra không nên làm chuyện này tí nào.” Kort nói.
“Ừ, nhưng mà chúng ta đang làm rồi.” Rosie nói.
Chúng lái chậm qua thị trấn, một chỗ có vẻ luộm thuộm với rất nhiều mảnh đất trống và các ngôi nhà xiêu vẹo, nhưng cũng có các tòa nhà đẹp ở khu vực trung tâm. Chúng rẽ xe vào Quốc lộ 67, đi về hướng Nam về phía biên giới.
Mới chỉ đi được qua vài khu nhà thì chúng thấy một thứ gì đó giống như là một hội nghị biểu dương lực lượng hành pháp ở bên phải đường quốc lộ; các xe cảnh sát và đội Tuần tra Biên giới với đèn hiệu nhấp nháy; và cảnh sát đi bộ xung quanh một cách bình thản.
“Được rồi, chuyện xấu rồi.” Rosie nói. “Bọn cảnh sát trông không có vẻ lo lắng.”
Box: “Ý mày là…”
“Đó là điều tao đang nói đây, bé yêu. Tao xin lỗi. Mày biết điều đó có khả năng mà.” Rosie nói.
Ở phía trước, một cảnh sát đang điều khiển cho các xe ra khỏi quốc lộ, đi đến một đường vòng về phía Đông. Chúng đi vào đường vòng, nhận ra rằng nó sẽ dẫn mình đi thẳng ra khỏi thị trấn, và theo sau một vài xe khác vòng lại vào thị trấn.
Ở bên kia đường quốc lộ, chúng có thể thấy những ánh đèn sáng trưng của một chỗ tên là El Cósmico; một nhóm các cảnh sát đứng quây thành vòng tròn, như một đội hình tập trung môn bóng bầu dục, đang nhìn vào thứ gì đó dưới đất.
Box nói: “Ôi Chúa ơi, ôi Chúa tôi…”
“Bình tĩnh nào, bé yêu.” Rosie nói.
Một phút sau, Annie nói: “Đó không phải là chỗ Poole bảo về chỗ chiếc xe đang đậu – nó vẫn có thể ở ngoài kia. Có nghĩ chúng ta có thể tìm ra nó? Tao hơi bị lạc rồi.”
“Rất vui vì mày đã hỏi.” Rosie nói. Ả đi ra chỗ một tủ chứa đồ, lấy máy tính xách tay và cục phát tín hiệu Verizon, cắm cục phát lên và bật máy tính. Sau vài cú gõ phím, ả đã vào Google Maps, rồi xem ảnh vệ tinh.
“Chỗ chúng ta đang ở là đây.” Ả nói, tay chạm vào màn hình. “Từ những gì Poole nói cho chúng ta, chiếc xe phải ở ngay tại… đây.”
Ả chạm vào màn hình. “Nếu chúng ta đi ra đằng kia đến phố Waco và về phía Tây; đi hết đường, và rồi xuống đây, và quay lại phía Đông ở phố Katherine, chắc chúng ta sẽ nhìn được ngay vào chỗ mấy cái xe. Nếu có ba chiếc xe bán tải màu trắng ở đó và không có ai ở xung quanh…”
“Cần phải làm nhanh, bọn cảnh sát sẽ đi tìm nó.” Annie nói. “Vậy thì đi thôi.” Rosie nói.
Chúng đi theo đường vẽ mà Rosie đã vạch ra trên bản đồ và lần này Kort đã ngậm mồm. Quay lại ở phố Katherine, chúng có thể nhìn thẳng vào khu vực đậu xe chỗ có ba chiếc xe bán tải… Các xe vẫn ở đó, cả ba xe; cả một cột phát sáng di động và một tá cảnh sát đứng xung quanh chiếc xe ở giữa.
Cửa sau chiếc xe đó đang mở; Kort, ngó qua cửa sổ bên hông xe, nói: “Chết tiệt. Là gã đó. Gã Davenport, tên cảnh sát mà chúng tao đã theo dấu. Chúng đã tìm được cái xe.”
“Vậy là chúng ta đã xong chuyện với nó. Giờ chúng ta đi ra khỏi đây.” Rosie nói. “Hai đứa mày vào lại đi, chúng ta đang đi đến chỗ một cảnh sát… vào lại sàn xe đi.”
Box và Kort chạy vội về khoang bí mật và chui vào trong, lại nằm bên cạnh nhau. Ở bên trên, một cảnh sát vẫy xe của Annie vòng vào một góc và cách xa các cảnh sát trong sân đậu. Annie đi xe chậm và chúng bỏ lại những ánh đèn phía sau. Rosie mở nắp khoang ra. “Chúng ta đang đi. Hai đứa mày còn sống chứ?”
Box và Kort trèo ra khỏi khoang trú ẩn, Kort quay sang Box và nói: “Giờ là chuyện của tao với mày.”
Rosie định ngăn cản nhưng Kort, vốn khỏe, xô vào người ả, suýt làm ả ngã dập mông. Một giây sau, Kort vung tay đánh vào Box, trúng vào mắt cô. Box ngã ra ghế dài và Kort tì một đầu gối lên đệm ghế, chuẩn bị đấm thêm vài đấm nữa, nhưng Box đã thò tay xuống dưới cái gối, rồi rút ra chiếc tua vít Phillips. Khi mắt của Kort đang mở to trong giây lát, Box đâm tua vít ngay vào trán của Kort, cách phía trên đôi mắt của ả vài phân.
Kort loạng choạng lùi lại phía sau và rồi ngã thụp xuống, dựa vào tủ ngăn kéo đựng nồi và chảo.
Rosie đứng dậy và nhìn xuống Kort. Tay cầm bằng nhựa có đường kẻ đỏ của chiếc tua vít hiệu Craftsman đang cắm chặt vào da trán của Kort, phần trục đâm lút cán vào não của ả. Rosie nói: “Ôi trời ơi.”
Annie nghe thấy tiếng và ngoái đầu lại hỏi: “Gì thế?” “Dora cắm cái tua vít vào óc Charlene.”
“Gì cơ?”
Rosie cúi người xuống và nói: “Nó chưa chết.”
“Để tao khoắng nó một chút và nó sẽ chết.” Box nói. “Tao chịu đựng nó đủ rồi.”
“Không đùa chứ.” Rosie nói. “Hãy nhắc nhở tao không làm mày cáu.”
“Giờ sao?” Annie hỏi.
“Mày nên tìm một chỗ để dừng xe lại và đến đây xem cái này.” Rosie nói.
Annie đánh xe vào một đường ngõ tối thui, đẩy mình ra khỏi ghế lái và đi ra xem. Một dòng máu nhỏ, nhưng không nhiều lắm, chảy nhỏ giọt từ vết đâm của chiếc tua vít và xuống giữa mũi của Kort.
“Ả ta là một con quái vật.” Box nói. Cô đứng lùi lại một chút, đôi tay chắp lại thủ thế, như thể chuẩn bị đón nhận lời chỉ trích. “Ả đáng bị như vậy.”
“Vẫn chưa chết.” Rosie nói.
“Còn chưa nhắm mắt.” Annie nói. Ả chạm vào vai của Kort, rồi đẩy ả ta một cái nhẹ. Mặt Kort không thay đổi gì và ả cũng không phát ra tiếng động gì. Ả không chớp mắt.
“Vẫn chưa chết.” Rosie nói. “Nó vẫn thở. Nó có một cái tua vít trong não, một thanh sắt, làm sao mà nó không chết được?”
“Chịu.” Annie nói. Kort chớp mắt. “Giờ thì sao?” Box hỏi.
Annie lắc đầu. “Tao nói này, Dora, chuyện này thật không hay. Tao không thực sự tán thành chuyện kết thúc đời nó.” Ả giơ tay gãi bên mặt, nhìn Kort, hiện giờ vẫn đang không cử động gì, ngoại trừ việc chớp mắt.
“Chúng ta sẽ làm gì đây?” Rosie hỏi Annie.
“Ờm… tao nghĩ rằng chúng ta có thể bỏ nó lại ở đâu đó.” Annie nói. “Dù chúng ta bỏ nó ở nơi nào thì đối với nó cũng chẳng khác gì. Sẽ không muốn có ai nhìn thấy chúng ta làm việc đó.”
“Nó có thể nhận diện chúng ta.” Box nói.
“Nếu như nó có thể tìm thấy chúng ta – nhưng chúng ta không đến từ vùng quanh đây, và nó cũng chẳng biết họ của chúng ta hay gì khác.” Annie nói.
“Tao thì muốn ngoáy cái cán tua vít thêm một chút nữa.” Box nói. Kort chớp mắt. “Chúng ta sẽ không phải lo về chuyện bị nó nhận diện.”
“Tao có cảm giác dù gì thì nó cũng sẽ không làm thế.” Annie nói.
Rosie đứng dậy. “Được rồi. Đi thôi.”
Chúng lên đường tìm một chỗ; trong lúc đó, Box lau sạch dấu vân tay khỏi cán chiếc tua vít bằng một cái khăn lau tay. Cuối cùng, chúng tìm thấy một cửa hàng tiện lợi Stripes đang đóng cửa và bỏ Kort lại ở giữa hai cây xăng. Kort ngồi giữa các cây xăng như là một một cục đất nặn ngoại cỡ, mắt vẫn nhìn thẳng ra phía trước, chớp mắt một lần. Khi chúng đánh xe đi, Rosie hỏi hai người còn lại: “Bọn mày có nghĩ nó ở đó sẽ ổn không?”
Annie lắc đầu và nói: “Không, tao không nghĩ vậy.”
Mười phút sau, một khách du lịch đánh xe vào cửa hàng Stripes, hi vọng rằng nó vẫn còn mở. Cửa hàng không mở cửa, nhưng anh ấy thấy một dáng người đang ngồi giữa các cây xăng, và dù không muốn, anh vẫn bước lại gần để nhìn.
Vợ anh gọi từ trong xe: “Larry, quay lại đi. Cứ để cô ta ngủ yên.”
Larry đi vòng qua xe và nói: “Anh nghĩ chúng ta phải gọi cảnh sát.”
“Có thể cô ta là một con nghiện.”
“Có thể lắm.” Larry nói. “Vấn đề lớn hơn của cô ta có vẻ là cô ta có một cái tua vít cắm vào não.”
Annie, Rosie và Box lái xe về phía Bắc, rời khỏi Marfa. Chúng lặng im sau tai nạn với Kort và khi đã đi được gần năm mươi cây số thì Rosie hỏi Annie: “Chúng ta xử lí thế nào với vấn đề Dora đây?”
Box cất tiếng trước khi Annie kịp trả lời. “Nghe này, ba đứa bọn mình có thể hòa thuận với nhau. Giờ, tao cần nói với chúng mày mấy thứ và cần hỏi chúng mày mấy thứ. Bọn mày nói về Sếp này, và ông ta keo kiệt với chúng mày ra sao về chuyện tiền nong.”
“Ừ, nhưng chúng tao không nhắc chuyện đó trước mặt ông ta.” Rosie nói.
“Ờm, Sếp sẽ phát hiện ra rằng tiền đã mất, phải không? Rằng lực lượng liên bang đã lấy được nó.” Box nói. “Chuyện đó sẽ lên báo. Cảnh sát sẽ xuất hiện. Bọn mày chẳng thể làm được gì với điều đó. Bọn mày đã làm tốt nhất có thể.”
“Ông ấy sẽ không vui, nhưng ông ấy sẽ không trút giận lên đầu chúng tao.” Rosie nói. “Ông ấy khá là biết chừng mực.”
Box gật đầu. “Được rồi. Tốt. Ông ấy biết chừng mực. Giờ sẽ ra sao nếu tao bảo hai đứa mày rằng tao biết chỗ cất giấu khoảng một triệu rưỡi đô, bằng tiền mặt và vàng, chỉ cách đây có vài tiếng. Chẳng ai biết về nó ngoài tao. Không ai biết cả.”
Rosie và Annie nhìn nhau, rồi Annie hỏi Rosie: “Câu thoại trong phim mày thích nhất là gì nhỉ? Từ một bộ phim nổi tiếng ấy?”
“Tôi nghĩ đây là sự khởi đầu của một tình bạn đẹp.” Rosie nói.
Annie chỉ tay về phía ả: “Đúng nó đấy.”
ột sự im lặng sâu sắc và ảm đạm như bao phủ lên thị trấn Marfa sau cuộc đọ súng ở các bãi cỏ bên
đường quốc lộ. Phía Tuần tra Biên giới giữ mọi người tránh xa khỏi các tòa nhà nơi cuộc đọ súng đã xảy ra, ngoại trừ một vài nhân viên của Quỹ Chinati, những người vận hành nơi này.
Cảnh sát bang được gọi đến để xử lí các hiện trường cuộc đọ súng, nhưng đến tận hôm sau mới tới nơi. Những cái xác được để yên tại chỗ, được che phủ bằng vải nhựa đen và được canh gác bởi lính tuần tra biên giới, để bảo vệ hiện trường cũng như để xua đuổi chó sói sa mạc.
Không lâu sau vụ đọ súng cuối cùng, một trực thăng bay đến từ El Paso và đưa Bob đi. Lucas gặp Rae lang thang xung quanh tòa văn phòng chính của quỹ, đặt tay lên vai cô: “Anh ấy sao rồi?”
“À, anh ấy sẽ ổn thôi. Tốn chút thời gian, rồi phục hồi chức năng. Các nhân viên y tế đã làm chậm tốc độ chảy máu. Anh ấy vẫn ổn khi họ bốc anh ấy lên trực thăng.”
“Cô đã nói chuyện với người ở Đội Đặc nhiệm chưa?”
“Chưa, tôi vẫn chưa làm việc đó. Tôi hơi choáng váng.”
Cô nói.
“Ai cũng vậy thôi. Hãy tìm một chỗ để ngồi xuống, cô có thể gọi cho người của mình. Tôi sẽ gọi cho Forte để thông tin cho anh ấy.”
Họ làm việc đó. Mọi người đều không vui về chuyện của Bob, mọi người đều vui vì Poole và Darling đều đã chết. “Năm người bị giết hại tại một chỗ, kể cả cô bé đó.” Forte nói. “Chúng ta cần gỡ họ ra khỏi tấm bảng, bằng mọi cách có thể. Không muốn đổ hết sự quan liêu lên đầu anh, tôi muốn lấy những cái tên của tất cả các nhân viên Tuần tra Biên giới và Tuần tra Cao tốc đã hợp tác với anh – khi chúng ta thông cáo báo chí, chúng ta sẽ tập trung nhấn mạnh vào sự giúp đỡ mà họ đã cung cấp cho chúng ta. Đó sẽ là một câu chuyện hay cho ngày mai, cho chúng ta cơ hội để bôi trơn các bánh răng một cách nghiêm túc. Và… anh có tìm thấy tiền mặt không? Hay vàng? Có thể có rất nhiều.”
“Tôi sẽ nói cho anh trong khoảng một tiếng nữa.” Lucas nói. “Tôi nghĩ tôi biết xe của chúng để ở đâu.”
Sau khi cúp máy, Lucas nói với Rae về câu nói bôi trơn và cô đáp: “Tôi không biết thời kỳ cảnh sát quèn hồi trước của anh như nào, nhưng dầu mỡ bôi trơn là gần với sự cất nhắc cao nhất với chính phủ liên bang. Có khi còn là cao nhất luôn ấy. Chẳng cần quan tâm ai bị giết, bao nhiêu người bị giết, nhưng họ có quan tâm đến thứ dầu mỡ bôi trơn đó.”
“Cô ổn chứ?” Lucas hỏi.
“Vai thì đau. Nhân viên y tế đã kiểm tra, nói rằng đó là một mớ các vết cắt, anh ấy cho tôi chút kem kháng sinh bôi vào đó, nói với tôi đi gặp bác sĩ sớm nhất có thể. Thế còn anh? Trông anh tệ hơn tôi, với cái băng đầy máu trên đầu.”
“Hơi đau đầu tí, chỉ thế thôi.” Lucas nói. “Lúc đầu làm tôi sợ hết hồn khi không nhìn thấy gì.”
“Mắt anh giờ sao rồi?” Rae hỏi.
“Tôi nhìn ổn, nhưng mắt tôi đang chảy nước nhiều.” “Hãy đi tìm một nhân viên y tế… xem qua xem.”
Họ tìm được một nhân viên y tế, anh ấy kiểm tra mắt của Lucas bằng kính lúp, nói rằng anh ấy không thấy gì nhiều, nhưng mắt của Lucas bị đỏ. Anh ấy nhỏ thuốc mắt, mà điều đó gây cảm giác tệ hơn lúc trước khi nhỏ mắt. Người nhân viên y tế nói chuyện đó là bình thường.
Sau đó anh lau trán của Lucas, nói rằng có nhiều bụi gạch nằm sâu dưới phần da trên mắt của anh. Anh ấy khuyên Lucas đi gặp bác sĩ để kiểm tra. “Nếu anh bị nhiễm trùng, nó có thể để lại sẹo. Anh cần đi gặp bác sĩ.”
Rae nói với anh rằng người ở Đội Đặc nhiệm đa phần quan tâm đến chuyện của Bob và sẽ đưa vài giám sát viên đến El Paso để nói chuyện với anh. “Điều họ sẽ làm là hỏi anh ấy rằng liệu anh có làm hỏng chuyện.” Rae nói. “Tôi đã nói với họ rằng anh không cần phải thế, rằng chúng ta đều ăn ý, nhưng sẽ có một bản báo cáo sau nhiệm vụ. Hi vọng anh đã sẵn sàng với cơn bão giấy tờ.”
“Muốn thấy một cơn bão còn to hơn không?” Lucas hỏi. “Đi theo tôi và nghe cho cẩn thận.”
Anh dẫn Rae đi vòng qua các tòa nhà, đến chỗ mà đầu tiên anh thấy Darling trèo qua hàng rào, chạy vào trong bãi cỏ. “Hắn đã mang theo một cái túi. Hắn làm mất nó đâu đó trên đường… và tôi tin rằng hắn bỏ chiếc xe ngay tại nơi hắn leo rào để vào bãi cỏ đó. Có ba xe trắng đỗ bên các tòa nhà.”
Rae nói: “Tiền. Hãy kiếm ít đèn và vài nhân chứng.”
Họ tập hợp O’Brien, chỉ huy đội Tuần tra Biên giới và Guiterrez, viên cảnh sát tuần tra cao tốc đã dẫn họ xuống đây từ đường I–10, cùng vài người nữa, mọi người đều mang đèn pin công suất lớn. Họ xác định chỗ rào Darling đã trèo qua theo dấu cỏ nát ở phía bên kia và đi vào trong sân tầm hai mét thì thấy một túi vải buồm màu nâu sáng.
Lucas mở nó ra. Ở trong có vài giấy tờ, hai hộ chiếu, và đủ số tiền, mà theo như Guiterrez nói: “đủ để làm chết ngạt một con lợn lòi Texas.”
O’Brien nói: “Chúng tôi biết về vụ cướp tiền. Hãy mang cái túi ra khỏi đây và tôi sẽ cho vài người kiểm tiền, với các nhân chứng.”
Rae nói: “Có thể đây chưa phải là tất cả. Lucas nghĩ anh ấy biết nơi Darling vứt xe của hắn lại.”
Lucas xoay chiếc đèn pin của mình chiếu qua bãi cỏ tối về phía các tòa nhà, đến một dãy các xe bán tải trắng đỗ ở đằng sau nó. “Hãy đưa cô nhân viên bảo tàng ra đây. Cô ấy sẽ biết ai là chủ của xe nào.”
Cô nhân viên bảo tàng biết rõ: hai chiếc xe ở hai đầu là một xe của bảo tàng và một xe riêng của một nhân viên làm ở bảo tàng. Chiếc ở giữa – chiếc xe với biển kiểm soát của Arkansas – cô ấy không biết.
Nhưng cô ấy không muốn nói về chuyện đó – cô ấy muốn ai đó dẫn xuống hai tòa nhà mái vòm ở giữa hiện trường vụ đọ súng. “Sao mọi người không cho tôi xuống đó? Sao…”
“Hiện trường vụ án.” O’Brien thì thầm, và rồi họ lờ cô ấy đi.
Lucas thử mở cánh cửa ghế lái của chiếc xe và nó bật mở. Anh chiếu đèn pin vào bên trong xe, tìm thấy chìa khóa dưới sàn. Hai nhân viên Tuần tra Biên giới nhìn vào bên trong xe một lúc lâu, rồi họ cùng đi xuống phía sau và mở cửa khoang cắm trại bên trên.
Có vài túi ở bên trong, rất nhiều quần áo và giấy tờ, nhưng không có tiền. Rồi một người lính tuần tra biên giới nói với người còn lại: “Carlos… cái sàn này nhìn có chuẩn không?”
Carlos ngồi xổm ở đằng sau xe, nheo mắt nhìn mặt sàn, rồi nhìn xuống dưới nó, rồi lại nhìn lên sàn, cuối cùng nói: “Nó cao khoảng chục phân. Không nhiều, nhưng khoảng chục phân.”
Lính tuần tra biên giới đầu tiên bò vào trong xe và với những người khác đang theo dõi, bắt đầu kéo, lôi, cậy các phần ở bên trong khoang, và cuối cùng bật mở một cửa sập giấu kín. “Chỗ này làm rất khá.” Anh nói, về cái cửa sập. “Ai đó đưa tôi chiếc đèn pin.”
Anh ấy chiếu đèn vào trong lỗ cửa sập, rồi cúi đầu xuống gần sàn xe: “Ôi Đức Mẹ ơi.”
Rae: “Đức Mẹ thấy tiền hả?”
Người lính ngẩng đầu lên: “Đức Mẹ thấy một đống tiền và cả một thứ gì đó trông như là một đống xu vàng trong hộp nhựa.” Lucas nói với O’Brien: “Sẽ cần thêm người đếm tiền, người làm chứng.”
Rae nói: “Hay thật.”
Không ai để ý chiếc RV đi qua chỗ họ, cách đó vài trăm mét.
Bởi vì mấy trò kế toán dài lê thê, phải đến mười giờ họ mới biết rằng mình đã tìm được ba–triệu–hai–trăm đô tiền mặt và sáu trăm nghìn đô tiền vàng; giá trị của số vàng phụ thuộc vào thị trường.
O’Brien tự mình tuyên bố rằng ông ấy hài lòng. Ông ấy đan tay trước cái bụng phệ của mình và nói: “Tôi hài lòng rồi.”
Rae nói: “Mẹ kiếp.”
Lucas gọi cho Forte ở nhà về số tiền. Forte nói: “Tôi vẫn còn chưa đủ dễ chịu để nói rằng nó đã làm tôi hứng lên, nhưng ngay lúc này đích thị là tôi đang có một bữa tiệc trong quần đây.”
Lucas không để ý đến O’Brien khi cuối cùng ông ấy nói với cô nhân viên bảo tàng ngoan cố rằng sẽ cho một lính tuần tra biên giới hộ tống cô đi xuống các tòa nhà có mái vòm. Một lúc sau, cô ấy và người lính đi khỏi đó.
Bob gọi điện về từ El Paso: “Họ không muốn cho tôi nói, nhưng dù vậy tôi vẫn nói. Họ bảo với tôi rằng tôi sẽ phải nghỉ trong vài tháng, bao gồm cả thời gian phục hồi chức năng. Họ sẽ đưa tôi vào phòng phẫu thuật ngay sau khi cô y tá này dừng lau rửa của quý cho tôi… đúng, đúng đó, cô đang rửa của quý của tôi đó, đừng có mà cố trốn tránh… và sẽ mất một thời gian cho đến khi tôi được ra viện. Tôi sẽ gọi ngay khi tỉnh dậy vào ngày mai. Mọi người có tìm thấy tiền không?”
Trong khi họ kể cho anh về đống tiền thì một phụ nữ la lên thất thanh. Lucas nói: “Ôi, chết tiệt!” rồi vớ lấy áo chống đạn, súng của Bob và chạy thục mạng vòng qua các tòa nhà, và rồi đến dãy nhà thứ hai…
Và thấy cô nhân viên bảo tàng đang la hét trong khi người lính tuần tra biên giới đang cố gắng xoa dịu.
Lucas và Rae ngừng chạy, đi chậm hơn và khi họ cầm súng đến gần, cô gái với đôi mắt rồ dại nhìn vào họ và hét: “Các người giết Judds của tôi rồi. Các người giết Judds của tôi rồi.”
Những hộp nhôm phay mà họ thấy ở sau các tấm kính không phải là thiết bị nhà bếp như Rae nói, hay hộp chứa tác phẩm nghệ thuật như Lucas nói; mà thực tế chính nó là các tác phẩm nghệ thuật. Trong số một trăm hộp ở trong hai tòa nhà, mười hai hộp hoặc có các lỗ đạn đâm xuyên hoặc có các vết đạn sượt qua. Các cửa sổ ở tòa nhà đầu tiên đã vỡ vụn hoặc bị nứt, nhưng cô gái không lo lắng cho các cửa sổ.
Rae hỏi cô ấy bằng một câu hỏi sai lầm: “Cô có chắc chuyện này xảy ra vào tối nay không?”
Cô ấy bắt đầu la hét những từ ngữ khó hiểu, thực sự vò đầu bứt tóc, chạy nhanh từ hộp nhôm này tới hộp nhôm khác, để tìm thêm các hư hại.
Sau khi hoàn thành việc kiểm tra của mình, cô ấy nói với O’Brien, sĩ quan cấp cao trong sắc phục, trong khi tâm trí mới chỉ hơi bình tĩnh lại: “Các người không biết các người đã làm gì đâu.”
“Chúng tôi đã chiến đấu ngoài này với những kẻ giết người điên khùng.” Ông ấy đáp.
“Các người đã phá hủy những tác phẩm nghệ thuật không thể thay thế được trị giá hàng triệu đô.”
Một người lính tuần tra biên giới ở phía sau lẩm nhẩm, đủ to để mọi người nghe thấy: “Chết tiệt, tôi có thể mua được một rổ những thứ đó ở Home Depot1.”
1 Home Depot: chuỗi cửa hàng bán lẻ chuyên bán các sản phẩm thiết bị dụng cụ, vật liệu và xây dựng.
Tất cả mọi người đều quay lại nhìn anh ấy. Không hề xấu hổ, anh ấy thêm vào: “Với nhiều tùy chọn màu sắc trang trí.”
Ai đó bật cười, làm cho cô gái lại khóc lần nữa, và rồi tất cả mọi người cảm thấy ái ngại.
Trong khi Lucas và Rae vẫn đi lại xung quanh, thỉnh thoảng lại kiểm tra với Tuần tra Cao tốc xem có dấu hiệu nào của Dora Box không, O’Brien đi đến từ văn phòng quỹ và nói với họ: “Chúng ta cần đến cửa hàng Stripes.”
“Để làm gì vậy?”
“Một phụ nữ bị đâm vào đầu. Một sĩ quan của cục cảnh sát trưởng quận nghĩ rằng cô ta có thể là cái người tên Kort mà các anh đang tìm kiếm.”
Họ đi đến cửa hàng Stripes trong năm phút, nơi hai nhân viên y tế trông có vẻ như đã làm việc quá sức đang nhìn chằm chằm vào một người phụ nữ ngồi trên nền bê tông bên cạnh một cây bơm xăng. Họ đi qua chỗ một cảnh sát đang ngăn những kẻ tò mò khỏi lại gần hiện trường; một nhân viên y tế nói với họ:
“Chúng tôi lại gọi cho trực thăng rồi… Tôi không biết chúng ta có thể làm gì ở đây.”
Lucas vào xem. Người phụ nữ đúng là Kort, ngồi thẳng người, hai mắt bất động và nhìn chằm chằm về phía trước, với một cái cán tua vít thò ra từ trán. Lucas hỏi: “Ả còn sống không?”
“Có, cứ hai mươi giây cô ấy chớp mắt một lần.” Nhân viên y tế nói. “Chúng tôi đã thử giao tiếp với cô ấy, nhưng không có gì xảy ra cả. Chúng tôi bảo cô ấy chớp mắt hoặc cử động ngón tay nếu nghe thấy chúng tôi nói, nhưng cô ấy không trả lời, cô ấy không chớp mắt theo lệnh. Khi chúng tôi thử dìu cô ấy, hai chân không hoạt động. Chúng tôi cần một trực thăng và một bác sĩ phẫu thuật thần kinh. Đây không phải là một ca mà chỉ cần băng bó là xong.”
“Có ai biết làm thế nào mà ả ra đây được không?” Rae hỏi. Người nhân viên y tế nhún vai và sĩ quan của cục cảnh sát trưởng quận, người vừa đi đến để nghe chuyện, cất tiếng đáp:
“Một khách du lịch tìm thấy cô ấy. Anh ấy nghĩ cửa hàng đã mở cửa và đánh xe vào rồi thấy cô ấy ngồi ở bên cạnh cây bơm xăng. Ban đầu anh ấy nghĩ cô ta là một con nghiện, cho đến lúc nhìn thấy chiếc cán tua vít. Không ai biết cô ấy đã ngồi ở đây được bao lâu, hoặc ai để cô ấy tại đây.”
O’Brien cúi người và huơ tay trước mắt Kort. Ả không chớp mắt. Ông hạ tay xuống; vài giây sau, ả chớp mắt. “Cứ mỗi hai mươi giây.” Người nhân viên y tế nói. “Mọi người có thể đặt đồng hồ đo thử.”
Một tiếng sau, ả được đưa lên trực thăng bay khỏi Marfa đến El Paso, vẫn chớp mắt mỗi hai mươi giây.
Sáng hôm sau, Lucas nói chuyện với một bác sĩ ở El Paso, ông ấy nói rằng Kort đã chết một tiếng trước trong một ca phẫu thuật để gỡ bỏ chiếc tua vít. “Cô ta có mấy hoạt động não và bác sĩ thần kinh đã gây say cực mạnh cho cô ta bằng thuốc chống động kinh, nhưng ngay khi họ gỡ chiếc tua vít ra, cô ta bị một cơn động kinh cực mạnh và tử vong. Cô ta cũng có một vết thương do đạn bắn ở mông, và dường như là đã tự chăm sóc vết thương. Dù sao thì, cô ta chết rồi.”
Lucas cúp máy và trong khi bấm số điện thoại của Forte để báo cáo về cái chết của Kort, anh nghĩ: gây say cực mạnh?
Khi anh nói với Rae về điều đó, cô ấy nói: “À, đúng là Texas.”
Sau đó trong cùng ngày, Lucas và Rae đến El Paso để thăm Bob, anh ấy trông ổn, dù thực tế rằng anh ấy bị bắn xuyên qua cả hai chân. “Bây giờ câu hỏi lớn nhất là liệu tôi có bị tổn thương mạch máu nào không.” Anh ấy nói. “Tôi có thể cử động các ngón chân, và nếu ai đó véo vào đầu gối tôi, tôi thấy đau, nên không có dây thần kinh lớn nào bị đứt, như những gì người ta thấy được. Phải mất một thời gian mới biết hết được, nhưng tôi sẽ không mất cái chân nào. Tôi có thể quay lại trong vài tháng.”
“Tốt lắm, bởi vì anh chàng Davenport của chúng ta muốn chúng ta làm việc với anh ấy trong vụ trọng án tiếp theo của mình.” Rae nói.
“Máy bay hạng thương gia, khách sạn hạng sang?” Bob hỏi. “Yên tâm đi.” Lucas nói.
Khi họ chia tay Bob, cả hai đều đến phòng cấp cứu, nơi một điều dưỡng lau rửa lại các vết thương không–tệ–lắm của họ và nói với họ rằng mọi chuyện đều ổn, dù đáng ra họ cần được chăm sóc kĩ hơn trong mười lăm tiếng trước. Trên đường quay lại Marfa, Lucas nói với Rae: “Bob bị thương nặng hơn những gì anh ấy tiết lộ. Anh ấy sẽ ổn nếu quay lại vào mùa hè sau. Anh ấy còn có thể hưởng tiền từ tình trạng thương tật, nếu anh ấy muốn thế.”
“Anh ấy sẽ không làm thế, anh ấy sẽ quay trở lại.” Rae rơm rớm nước mắt. “Tôi ước gì mình có thể bắn thằng cha Darling đó lần nữa.”
Cùng ngày hôm đó, Rosie lái chiếc xe RV rời khỏi đường giao thông gần Gordon, Texas. Không có ai ở quanh, và chúng cẩn thận và cảnh giác đi bộ dọc hàng rào cho đến khi thấy một chiếc áo sơ mi màu cam. Ba người bọn chúng, Rosie, Annie và Dora, kéo hai chiếc vali đen ra khỏi đám cỏ dưới cây thông. Dora mở chúng ra và Annie thốt lên một tiếng “Ồ…” nghe chẳng khác gì một tiếng rên sung sướng.
“Hãy mang chúng lên chiếc RV.” Dora nói. “Và để tao lấy cái áo sơ mi.”
Cô cởi nút thắt chiếc áo sơ mi khỏi cây cọc hàng rào và Annie đến từ phía sau cô, đặt một tay lên cây cọc, tay còn lại lên mông Box và hỏi: “Một cái hôn nhẹ?”
Một người lái một chiếc xe mười tám bánh đi qua, nhìn lên và thấy chúng rồi tự nói với mình: “Ồ, không, không, không, không thể thế được. Ôi trời, đừng làm điều đó với tôi, đừng làm vậy khi tôi cách xa nhà đã mười ngày…”
Lucas và Rae đã quay lại Marfa, ở một khách sạn khá tốt, trong ba ngày tiếp theo, vùi đầu trong cơn bão giấy tờ đã được dự đoán từ trước. Người của khách sạn muốn họ ra khỏi phòng sớm nhất có thể, bởi một làn sóng khổng lồ những người yêu nghệ thuật, đến đó để xem xét sự hư hại.
Một cô gái trẻ ưa nhìn gọi Lucas, mà cô được chỉ rằng anh là một trong số các cảnh sát chịu trách nhiệm chính, là một tên phát xít. Rae hỏi: “Tôi cũng thế, phải không?”
Cô gái trẻ nhìn người phụ nữ da đen cao lớn và cô này có vẻ vật lộn một lúc với tất cả những câu trả lời về tính đúng đắn chính trị có thể dùng; cuối cùng, cô ta đi ra khỏi thang máy mà không thử dùng câu nào.
Với mọi công việc giấy tờ đã xong, hiện trường đã được đo đạc và thảo luận, các lời khai cam đoan được ghi chép, Lucas hôn lên trán Rae tại sân bay El Paso và nói: “Một trận đấu loại trực tiếp, vào lần sau khi chúng ta gặp lại. Hãy tập luyện thi đấu đi.”
“Làm như tôi cần ý.” Cô nói. “Và hãy bảo trọng, anh chàng to cao.”
Cô cầm vé hạng thương gia của mình đi xuống đường băng và biến mất.
Cùng ngày hôm đó, John Stiner được nhận vào làm trợ lí quản lí tại một cửa hàng Starbucks mới mở ở Tampa, Florida. Người phụ trách khu vực của Starbucks nói: “Chúng tôi khá ấn tượng với các khả năng của anh. Một trong hai năm tới, anh có thể tự điều hành cửa hàng của riêng mình.”
“Tôi mong chờ điều đó, thưa ông.” Stiner nói, và nghĩ riêng trong đầu, Mày thấy mình như thế quái nào vào mỗi sáng, hả thằng cha nịnh hót tẻ nhạt, làm công việc nhàm chán? “Tôi rất nóng lòng được coi Starbucks như tương lai của mình.” Và có lẽ còn thò tay vào quần ngắn của một trong những cô em nhỏ nhắn háng khít của mình… hoặc có khi là nhiều hơn một em nữa.
Cũng cùng ngày hôm đó, một nhóm các cảnh sát tư pháp kéo đến trang trại của Darling ở Alabama. Họ không tìm thấy gì, nhưng một đặc vụ phát hiện ra một đống đất ở bên kia đường từ phía căn nhà, trong một bụi cây. Anh đưa Janice Darling đi qua đường để kiểm tra nó. “Đó là một con chuột túi má, đồ ngốc.” Cô ta nói với anh. Anh đến từ thành phố New York và không phân biệt được chuột túi má với chồn gulô, nên chấp nhận câu trả lời của cô ta.
Cô ta đã đào tiền lên và chuyển chúng đi vào ngày hôm trước. Cô ta nghĩ rằng, trong một năm tới, cô ta sẽ ở Toronto với một cái tên mới và vẫn còn thương nhớ Sturgill trong tuyệt vọng.
Vào một ngày thứ Ba sáng sủa sau khi quay trở lại được vài hôm, Lucas và Weather lái xe đến điểm bỏ phiếu ở khu vực của họ, nơi họ bầu cho bà Bowden làm Tổng thống. Đêm đó họ đến bữa tiệc chiến thắng của Bowden, mà cuối cùng kết thúc không ổn lắm: đến mười giờ, người ta bắt đầu lặng lẽ ra về.
“Wolf Blitzer có thể hôn mông tôi này.” Một trong những người đi dự tiệc nói với Lucas, khi họ lê bước đi trên vỉa hè.
Virgil Flowers, một nhân viên của Cục Trấn áp Tội phạm và cũng là một người bạn cũ, đến thị trấn vào ngày hôm sau và ghé qua thăm anh. Anh ta cắt ngang vẻ u sầu hậu bầu cử: “Này ông anh. Thế giới vẫn cứ quay, anh hiểu ý em không? Hãy ra sân sau, nướng ít thịt bít tết, đốt một điếu cần, thư giãn. Ồ – và hãy kể cho em chuyện ở Marfa…”
Không có điếu cần nào, nhưng họ nướng ít thịt và với thời tiết đang trở lạnh, họ ngồi ăn ở bàn ăn, uống ít bia Leinies và Lucas kể cho họ toàn bộ chuyện đó.
Anh nói: “Tôi nói cậu nghe này, Virgil, mọi thứ đang trở nên lạ lẫm ở ngoài kia. Cả vụ án này bám vào… cậu đoán được là gì không?”
“Ừm, để xem nào. Không thể là điều tra tình báo, chúng ta có thể loại bỏ nó ra…”
“Điện thoại. Mọi người đều phụ thuộc vào điện thoại.” Lucas lấy một chiếc điện thoại trong túi mình ra và giơ lên, rồi nhìn vào nó, vào màn hình kính sáng bóng màu đen. “Chúng rất tuyệt, những chiếc máy con con này này, đến nỗi chúng ta đồng ý bị theo dõi để đánh đổi lấy đặc quyền được mang chúng theo. Những chiếc điện thoại biết chúng ta ở đâu, khi nào chúng ta ở đó, và nhiều khi, cả những gì chúng ta đang làm ở tại đó – chúng ta mua gì, chúng ta nói chuyện với ai, và những người kia ở đâu. Chúng còn có thể báo được rằng cậu di chuyển nhanh như thế nào, trong trường hợp ai đó cần chứng minh rằng cậu đang đi quá tốc độ cho phép. Chúng biết về người mà cậu nói chuyện cùng, về những người trong danh sách liên lạc của cậu, thẻ tín dụng nào mà cậu có, ngân hàng của cậu ở đâu. Chúng ta đều biết điều đó, nhưng chúng ta không thể tránh xa chúng. Thậm chí bọn bất lương cũng biết điều đó, và kể cả bọn chúng cũng không thể tránh xa khỏi chúng.”
“Những gì anh cần làm là không sở hữu một cái.” Flowers nói.
“Cậu không thể làm thế được – nghe tôi này, cậu không còn có thể làm thế được nữa.” Lucas nói. “Sẽ thế nào nếu cậu để quên chiếc điện thoại ở nhà và bị lên cơn đau tim hoặc bị lật xe trên một con đường vắng? Làm sao cậu có thể gọi 911 để xin trợ giúp? Và nếu cậu là một tay bất hảo và để điện thoại ở nhà trong khi cậu đi cướp một ngân hàng, nhưng cậu mang nó theo trong suốt thời gian còn lại … tự khắc cậu sẽ trở nên đáng nghi. Cậu luôn luôn mang theo điện thoại, và đúng lần đó, trong một vụ cướp, cậu bỏ quên nó ở nhà? Tôi không nghĩ vậy. Sớm muộn thì công tố viên nào đó sẽ kết tội ai đó bởi vì hắn ta không có điện thoại trong túi.”
“Anh cần thêm một ly nữa.” Flowers nói. “Mà này, Letty thế nào rồi? Cô ấy có về nhà dịp Giáng sinh này không? Có thể em sẽ gọi cô ấy.”
“Chỉ khi nào cậu đánh liều mạng sống của mình.” Lucas nói. “Gì? Anh sẽ bắn em vì gọi điện cho Letty?”
“À, không, tôi chỉ nói với Frankie thôi.” Lucas nói. Frankie là bạn gái của Virgil, và không xa lạ gì với bạo lực. “Tôi sẽ nói, Frankie à? Đoán xem…”
Flowers giơ tay ra: “Được rồi, được rồi. Em chỉ đùa về vụ Letty thôi…”
Vào ngày Thứ Hai sau cuộc bầu cử, Lucas, vẫn còn băng bó trên trán, đi đến văn phòng cục cảnh sát tư pháp ở Minneapolis, cầm theo chiếc vali của mình, chẳng đựng gì ngoài giấy tờ về vụ Poole.
Hal Oder, sĩ quan tư pháp khu Minnesota, thấy Lucas ở hành lang, đang mở cửa văn phòng mình và gọi: “Davenport – vào văn phòng tôi.”
Lucas mở xong cửa phòng và để chiếc vali ở bên cạnh bàn mình, nghe thấy tiếng chân đi lộp cộp trong hành lang, rồi thấy Oder thò đầu vào lối cửa và cáu kỉnh. “Đừng bảo tôi rằng anh không nghe thấy tôi.”
“Tôi có nghe thấy, nhưng tôi lờ ông đấy.” Lucas nói. “Nhiều thứ xung quanh đây sẽ thay đổi.” Oder nói. “Anh không còn Bowden canh đằng lưng cho mình nữa. Nếu anh trông chờ được ở lại đây, anh sẽ phải tuân theo phân công nhiệm vụ. Anh sẽ phải làm theo ca hàng ngày bao gồm cả việc di chuyển tù nhân. Tôi sẽ…”
Lucas giơ ngón tay lên môi và khi Oder ngừng lại, anh nói: “Hal. Ông thực sự không nên nói thêm gì cho tới chiều mai. Sau cuộc hẹn của ông.”
Lucas thấy sự hoảng sợ bất chợt lóe lên trong mắt của Oder: “Cuộc hẹn nào cơ?”
“Ông có một cuộc hẹn. Chỉ là ông còn chưa biết thôi. Giờ biến khỏi văn phòng của tôi đi.”
Chiều hôm sau, Oder bắt đầu thư giãn. Ông ấy đã kiểm tra với thư kí của mình mỗi mười lăm phút về các cuộc họp không báo trước và cho đến giờ chưa có gì. Davenport đã giỡn ông, vì những lí do mà Oder chưa thể luận ra. Rồi, vào lúc một giờ bốn lăm, một thông báo hiện ra ở góc màn hình máy tính của ông. Nó ghi là “Cuộc họp của ông đã đến.”
Oder chạy ra cửa, nơi ông thấy Thống đốc Đảng Cộng hòa bang Minnesota – người mà, cho đến tuần trước, được hi vọng sẽ trở thành phó tổng thống của bà Bowden – đi xuống sảnh tiến về phía ông.
Đi sau ông ta còn một người nữa, một người đàn ông thấp mang theo một cái xẻng. Trong chốc lát, Oder không nhận ra người thấp bé đó, rồi sau đó nhận ra ông ta là Porter Smalls, người từng là và sắp là Thượng Nghị sĩ Đảng Cộng hòa của Minnesota.
Thống đốc cười, giơ tay ra bắt và nói: “Hal, tôi nghĩ chúng ta đã gặp vài lần. Anh khỏe không?”
“Ừm, chuyện này là về Davenport sao?” Oder hỏi, trong khi đang bắt tay Thống đốc.
Thượng Nghị sĩ tương lai Smalls nói: “Đúng, đúng vậy. Hãy vào văn phòng anh và nói chuyện đó.” Chiếc xẻng của ông ta vẫn còn nhãn bán hàng trên mặt lưỡi xẻng. Oder không hỏi về nó.
Khi họ đã yên vị trong văn phòng, Smalls nói: “Giờ tôi sẽ kể cho anh một câu chuyện ngắn. Hai năm trước, Thượng Nghị sĩ Taryn Grant, cái ả khốn từ địa ngục, đã cho gài mấy bộ phim ấu dâm vào chiếc máy tính chạy chiến dịch của tôi, rồi chém giết để mở đường cho ả vào Thượng viện. Vào chiếc ghế của tôi. Đó không phải là một bí mật. Hãy kể chuyện này với con cháu của anh, nếu anh muốn. Thống đốc đây là bạn cũ của tôi, và dù chúng tôi ở hai đảng phái khác nhau, anh ấy biết tôi trong sạch. Anh ấy phân công cho Lucas tìm xem chuyện gì đã xảy ra. Lucas đã thành công. Tôi được xử trắng án vụ phim ấu dâm nhưng quá muộn để giữ được chiếc ghế Thượng Nghị sĩ, nhưng ít nhất là tôi không phải vào tù. Dù vậy, khi mọi chuyện được sáng tỏ, người dân Minnesota vẫn ghi nhớ. Nếu anh có xem cuộc bầu cử tuần trước… Anh có xem bầu cử không?”
“Có, tôi có xem.” Oder nói.
“Tốt lắm. Vậy thì anh biết rằng tôi sẽ trở lại Thượng viện. Trong một chiến thắng vang dội. Tôi sẽ không làm được điều đó nếu không phải là nhờ sĩ quan Davenport. Trong tất cả những nhân viên cảnh sát mà tôi đã gặp trong đời, trong số tất cả những người bọn họ, và đã có rất nhiều, anh ấy vẫn là người tôi thích nhất. Tôi nói thế đã rõ chưa?”
“Vâng, rõ rồi ạ.” Oder nói.
“Tốt.” Smalls quay sang Henderson và nói: “Anh còn gì để nói không, Elmer?”
“Không có gì, ngoài việc đây là một cơ hội rất tuyệt để tôi chạy đua vào chiếc ghế Thượng viện của Taryn Grant, trong vòng bầu cử sơ bộ, vào lần tiếp theo khi nó được đưa ra. Tôi tin rằng tôi có thể đánh bại ả ta. Lucas cũng là nhân viên thực thi pháp luật yêu thích của tôi, dù đôi khi anh ta có thể là một sự khó chịu. Dù thế nào, cả Thượng Nghị sĩ Smalls và tôi đều mong đợi rằng anh ta sẽ có nhiều năm tháng vui vẻ làm việc tại đây như một sĩ quan cảnh sát tư pháp. Không bị cản trở, bởi bất cứ ai, kể cả những nhân sự được bổ nhiệm vì yếu tố chính trị.”
Oder không nói gì, nhưng sau khi nhìn từ thống đốc sang Thượng Nghị sĩ, mặt ông ta đỏ lên.
Hai chính trị gia đứng dậy và cười, và Smalls nói: “Tôi mua chiếc xẻng này cho anh. Anh có thể để nó ở một góc để tự nhắc mình.”
Oder gắng gượng hỏi: “Để làm gì ạ?”
“Bởi vì thực tế là nếu anh gây sự với Lucas, có thể anh sẽ không bao giờ có lại một công việc văn phòng nào nữa. Chắc chắn là không với chính phủ liên bang hoặc tiểu bang. Nên có thể anh cần một chiếc xẻng và anh sẽ có một chiếc ngay sẵn trong tay.”
Henderson, một người cao lớn, nghiêng người ra đằng trước, đặt quả đấm tay lên cạnh bàn của Oder: “Tôi là một người đàn ông Ăng-lô - Xắc-xông thượng lưu rất lịch sự và tôi rất hiếm khi hạ mình để dùng những từ ngữ không mấy dễ chịu. Có vài trường hợp ngoại lệ. Đây là một trong số chúng. Tôi bảo anh rằng, Hal – Đừng có nhờn với anh ta. Đừng… có… nhờn… với… anh... ta.”
Oder gật đầu.
Smalls nhìn quanh văn phòng và hỏi: “Anh muốn tôi để cái xẻng ở đâu?”