Garvin Poole bò ra khỏi giường, vớ lấy chiếc bật lửa trên bệ lò sưởi, bước đi trong căn nhà tối om với độc chiếc quần lót trên người để vào bếp; hắn lấy một điếu cần sa trong hũ đựng đường, rồi tiếp tục bước tới cánh cửa dẫn ra vườn.
Hắn cố gắng mở cánh cửa mà không phát ra tiếng động, nhưng vẫn có một tiếng khẽ vang lên, dù sao cũng không phải là tiếng động mạnh thu hút sự chú ý. Hắn đi ra ngoài hiên và tiếp tục rảo bước trên con đường lát đá dẫn đến nhà xưởng của mình.
Poole cao gần một mét tám, với đôi vai rộng và đôi tay to như một đô vật phong trào thể thao học đường, thứ mà hắn vốn chưa từng tham gia; và bây giờ, hắn có dấu hiệu trở thành một gã bụng bia. Tuy thế, với mái tóc dày màu nâu ánh đỏ phủ bên trên cặp mắt xanh và bộ râu được tỉa đều đặn ba ngày một lần, phụ nữ vẫn mến hắn; hắn không thể đi đến một cửa hàng Whole Foods1 mà không dừng lại bắt chuyện với một cô nào đó.
1 Whole Foods Market Inc. là chuỗi siêu thị của Mỹ chuyên bán thực phẩm, hương liệu.
Những phiến đá lát dưới chân lạnh mà khô; năm nay trời không mưa nhiều. Mặt trăng ở trên cao tỏa sáng lên bức tường ngoài vườn, và từ khu nhà giàu phía xa, hắn có thể thoáng nghe thấy giọng Rihanna hát bài Work vang lên ngắt quãng trong đêm. Hắn mở cánh cửa nhà xưởng, bật đèn, ngồi xuống chiếc ghế làm việc, châm điếu cần, và nhìn vào cây đàn ghita hắn đang làm dở.
Hắn ngồi như thế được khoảng nửa phút thì Dora Box cất tiếng: “Gar à?” Cô bước qua cánh cửa đang mở, trên người không mảnh vải che thân, cách cô hay đi ngủ. “Anh làm gì thế?”
Hắn nói: “Nào, ngồi xuống đi em.” Cô ngồi xuống một chiếc ghế gỗ, không vắt chân lại; hắn nhìn một hồi lâu rồi nói: “Anh sẽ quay lại thực hiện một phi vụ. Một lần nữa.”
“Ôi trời.” Giờ thì cô vắt chân lại. Box gặp khó khăn với việc trải qua một ngày mà không bị người ta đụng chạm hoặc có cử chỉ khiếm nhã, nhưng công việc là công việc.
“Có khi là một sai lầm khi đến đây.” Hắn kẹp mẩu cần sa giữa hai ngón tay, khoa lên trong không gian rồi nói: “Anh đã nghĩ về nó rất nhiều, gần như trong cả tháng vừa rồi. Anh thích nơi này, nhưng chúng ta nên rời khỏi đất nước. Đi hẳn ấy.”
“Không có nơi nào khác anh thích mà chúng ta có thể đến.” Box nói. “Đáng lẽ Costa Rica là nơi tốt nhất, nhưng anh lại nghĩ nó rất tệ. Những con rắn. Ôi Chúa ơi, những con rắn. Trở lại chuyện vừa rồi, Gar à, anh hầu như còn chẳng thích nơi nào. Chúng ta sẽ đi đến nơi nào mà chúng ta thích đây?”
Hắn lắc đầu. “Anh không biết. Nơi nào đó bất hảo hơn ở đây.” “Anh biết có nơi nào bất hảo hơn cả Dallas ư?”
“Có chứ. Có những nơi trên thế giới này mà em có thể trả tiền cho cảnh sát để giết người cho mình.” Hắn nói, giọng hắn rít lên khi hắn cố gắng nói chuyện trong khi nén khói trong phổi.
“Nơi mà em có thể làm bất cứ điều gì em muốn.”
“Anh sẽ không muốn sống ở những nơi như thế. Có chuyện gì vậy?”
Poole rít một hơi rồi nói: “Anh đã lấy số tiền kiếm được trong mười năm để đổi sang vàng, và giờ anh đang chạy vạy để cố đổi số vàng đó lấy tiền mặt nhưng vấn đề là anh phải chia số vàng đó ra đổi ở nhiều nơi mà lại không có đủ chỗ để làm vậy trong bán kính một ngày lái xe. Mỗi lần đổi tiền, những gã đó gieo vào anh những cặp mắt dò xét, em biết không? Anh đã quay lại quá nhiều lần. Chúng biết anh đang làm gì, rằng anh đang đổi tiền phi pháp. Chúng không nói gì cả, nhưng chúng biết.”
“Chúng ta có thể lái xe đến đâu đó.” Box gợi ý. “Thành phố Oklahoma, Houston…”
“Về cơ bản vẫn là vấn đề đó. Người ta nhìn em, nhớ mặt em.” Poole nói.
Im lặng một lúc, rồi Box nói: “Em tưởng việc đổi sang vàng là thông minh.”
“Ban đầu anh cũng nghĩ thế. Bọn cảnh sát đã lục tung mọi thứ ở vùng nam Kentucky để lùng sục anh; và vàng có vẻ… linh hoạt. Ở đâu cũng dùng được. Có lẽ anh đã nghĩ quá nhiều về điều đó.”
Họ đã nói chuyện đó nhiều lần trước đây. Những đồng vàng vô danh, dễ mang, không có số đăng ký. Hắn có thể kiếm được những tờ tiền giấy mệnh giá nhỏ nhờ đổi vàng, nó giữ được giá trị qua thời gian và có thể bán được ở bất kỳ đâu. Hắn đã không lường trước được việc bị theo dõi và bị nhớ mặt.
“Anh đã không thấy trước điều đó, khi đi đổi tiền mặt từ tháng này qua tháng khác. Hiện giờ chúng ta cần mười nghìn đô mỗi tháng để trang trải, là chín đến mười đồng vàng bây giờ đấy.” Hắn nói. “Nếu chúng ta ở một quốc gia thích hợp, chúng ta có thể đổi tất cả sang tiền mặt trong đúng một lần. Dựng lên một công ty ma, giả vờ rằng chúng ta kiếm được tiền, tự trả lương, đóng thuế cho mình; và có thể một ngày nào đó, trở về Mỹ dưới những cái tên khác.”
“Nghe có vẻ sơ sài.” Cô nói. “Cho em một hơi.” Hắn đưa điếu cần, cô rít một hơi, nín lại, rồi thở ra, thêm một hơi nữa rồi đưa trả lại hắn. Cô dạng chân ra và lướt những ngón tay vào vùng kín một cách vô thức. Hương thơm dịu của cần sa hợp với mùi nhựa sống ẩm ướt của khu vườn trong đêm. “Nếu anh đang nghĩ đến việc đưa chúng ta ra khỏi đất nước, vậy thì sao anh lại nghĩ đến việc làm một phi vụ?”
“Bởi vì anh thực sự không muốn rời khỏi nơi đây. Phi vụ là một cách khác.” Poole nói.
“Kể cho em đi.”
“Sturgill đã gọi điện. Hắn thấy một cơ hội.” “Bao nhiêu?”
“Cũng hơi khó nói trước, nhưng hắn nghĩ ít nhất là Hai hoặc Ba. Có thể còn nhiều hơn. Có thể còn rất nhiều nữa.” Hắn nhấn mạnh từng con số trong khi nói. “Hai” nghĩa là hai triệu. “Ba” nghĩa là ba triệu.
Box lắc đầu. “Nhiều cỡ đó, chắc chắn sẽ có rủi ro.” “Sturg nói rằng sẽ êm ru.”
“Sturg… Sturg là người luôn biết mình phải làm gì.” Box công nhận. “Khi nào anh sẽ làm?”
“Có thể là một tuần, hoặc một tháng lẻ một tuần. Tiền ở đó mỗi tháng một ngày.” Poole nói.
“Ở đâu?”
“Biloxi.”
“Hừm. Em thích Biloxi. Như món jambalaya2đó. Cho em hơi nữa.” Hắn đưa thuốc và cô rít lấy ít khói, đùa giỡn với nó qua lỗ mũi. Cô trả lại điếu cần và xoa hai cánh tay, đêm lạnh làm cô nổi da gà.
2 Jambalaya là một món ăn phổ biến có nguồn gốc từ Louisiana mang ảnh hưởng của Tây Phi, Pháp và Tây Ban Nha, bao gồm chủ yếu là thịt và rau trộn với cơm.
“Vấn đề là, chúng ta sẽ lấy tiền mặt. Toàn bộ tiền mặt. Chúng ta có thể tiêu xài mà không sợ gặp rắc rối.” Poole nói. “Em hãy ở đây, tìm cách vận chuyển số vàng. Chúng ta sẽ lấy vài triệu đô ở Biloxi, chúng ta có thể dành tám đến mười năm để thanh toán số vàng và khi xong việc, chúng ta sẽ có gia tài cho cả đời.”
“Em không thích anh quay lại làm việc, sẽ tốt hơn nếu chạy sang Nga, hay bất cứ vùng đất ất ơ nào như thế.” Box nói. Cô đứng dậy và vươn vai: cô cũng có thân hình phù hợp, cao ráo, hơi gầy, đôi chút tàn nhang, một mái tóc vàng óng với đôi nhũ hoa nhỏ màu hồng và chỉ có chút lông vùng kín. “Em về giường đây. Đừng thức khuya quá.”
Poole mua những bộ phận đàn ghita chất lượng cao, lắp ráp chúng, và rồi bắt đầu tỉ mẩn chạm khắc và đánh sơn màu lên các bề mặt, tạo ra những mẫu thiết kế tùy chỉnh sặc sỡ như truyện tranh. Hắn học nghề mộc tại một nơi mà dân Tennessee, với vẻ mặt ghẻ lạnh, gọi là Trung tâm Phát triển Thanh thiếu niên - nhà tù dành cho bọn trẻ trâu, thực chất nó là như thế.
Khi Box đi khỏi, hắn ngồi đó ngắm nhìn tác phẩm mới nhất của mình, một mẩu hình vẽ về trò câu cá vược đang hoàn thiện cho một tay câu cá chuyên nghiệp, vốn cũng là một nhà sưu tập đàn ghita. Nó cần hai tuần nữa để hoàn thành: giờ thì hắn phải gác việc này lại. Hắn đi ra phía bên kia của căn xưởng và cầm lên một cây đàn Les Paul đã hai mươi năm tuổi, lấy ngón chân cái gạt vào công tắc nguồn trên một chiếc âm li, gảy vài điệu blue tĩnh mịch từ cây đàn. Hắn thích âm nhạc, thích làm mộc, thích mùi hương của véc ni. Nếu hắn xây dựng sự nghiệp bằng nghề này, hắn tính toán rằng mình có thể kiếm được gần nửa số tiền của một giáo viên tiểu học.
Hắn đi đến Biloxi.
Biloxi, Mississippi - mùi hương của biển cả.
Sturgill Darling đang ngồi ở một bàn góc tròn trong quán hàu, tại một khu nhà gần Vịnh Mexico, giữa hơi nước và mùi chua tanh nồng của cả hải sản sống lẫn đang được đun nấu. Trông hắn như một gã dân quê chậm chạp, lười nhác và đần độn nữa, với đôi cánh tay lực điền, mái tóc nâu cắt kiểu bát úp và quần bò sờn, ống rộng. Hắn mặc một chiếc áo sơ mi sọc mềm cùng đôi ủng lao động màu vàng. Hắn nằm ườn ra trên ghế, hai chân bắt chéo và duỗi thẳng ra trước mặt, mỉm cười với đám đông qua lại, để lộ ra hàm răng cũng vàng khè như đôi ủng. Đích thị là một tên ngốc; một gã da trắng đần độn - một sai lầm mà rất nhiều người đã mắc phải trong sự hối tiếc đằng đẵng của mình.
Poole ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh hắn, giơ ngón tay ra hiệu cho cô phục vụ bàn, chỉ vào cốc của Darling và nói: “Cho tôi một cốc giống như vậy.”
Khi cô phục vụ bàn đi khỏi, Darling hỏi: “Mày nghĩ sao?”
Poole đang đeo kính râm trên chòm râu đỏ hơi điểm xám đã một tuần không cắt, đội chiếc mũ đi câu lưỡi trai dài, một cách tốt để tránh khỏi sự nhận diện của các máy quay an ninh. Hắn đã dành gần hết cả buổi để thăm dò địa điểm hành động. “Chúng ta có thể làm được, nếu như không có nhiều người hơn số mày nói. Làm thế quái nào mày tìm được chỗ này?”
“Tao biết ma túy được mang vào qua Galveston nhưng tiền thì chẳng thấy ra. Mỗi lần, chúng mang đến thứ gì đó nặng đến năm trăm cân, tức là, để xem nào, khoảng một nghìn một trăm pound, bằng những chiếc thuyền câu dã ngoại và lấy Honduras làm điểm trung chuyển. Quay lại chuyện lúc nãy, tao tìm được một gã ở Houston, kẻ có thể bán cho tao tầm ba chục gram. Tao theo dõi hắn, theo dõi kẻ bán hàng cho hắn, rồi cả cái thằng cha bán hàng cho thằng bán hàng; và rồi đến khi tao tìm được đến điểm cuối của đường dây, tao đã theo dõi những kẻ có thể bán cho mày hàng trăm cân miễn là mày có tiền. Rồi tao theo dõi dòng tiền, xem những tên bán buôn trả tiền cho những tên giữ tiền – những thằng không bao giờ động vào ma túy – và theo dõi những tên giữ tiền chuyển cho những tên vận chuyển, bọn này sẽ lái xe qua lại dọc bờ biển từ Charleston đến Galveston và ngược lại, với Biloxi ở giữa. Tóm lại là thứ đó đi xuống đây, vào trong nhà tập kết tiền.”
Poole ngẫm nghĩ về điều đó, tự thú nhận với chính mình rằng Darling có tài năng mà hắn, Poole, chưa đủ trình để hiểu, khả năng khám phá ra những dấu vết có thể dẫn đến một gia tài; nhưng Poole cũng hiểu rằng hắn có một tài năng mà Darling không có: ý chí hành động. Darling có thể khám phá ra mọi nơi tập kết tiền ma túy mà hắn muốn, nhưng hắn sẽ không bao giờ tham gia trực tiếp vào một vụ cướp với vai trò là đầu sỏ, hay tay súng được chỉ định. Điều đó cần một người như Poole.
“Chúng vận chuyển ma túy như thế nào?” Poole hỏi.
“Bằng xe RV3. Một vài ả đồng tính trung niên xăm trổ có tiền án. Chúng có vẻ… có nghề. Chúng có lốp tải đúp cho xe, tao tin là có thể còn có giáp chống đạn. Mấy ả này biết phòng xa – tao tin là chúng trang bị súng ống tận răng.”
3 RV là chữ viết tắt của Recreational Vehicle, là loại xe có khoang tiện nghi như nhà ở lắp ở thùng xe.
“Hừ.” Đó là cách mà Poole sẽ làm; hắn thậm chí còn thích chi tiết đồng tính nữ. Cảnh sát thường quá phân biệt giới tính và quá lười để dành sự quan tâm đến một cặp đồng tính nữ. Một vài trong số những ả đồng tính chết tiệt này có thể xé toạc mặt người khác bằng hàm răng của mình.
“Nhưng chúng ta không muốn ma túy, kể cả nếu có thể lấy.” Darling nói. “Chúng ta không có cách nào để tống khứ nó. Không thể với lượng nhiều như vậy. Và những thằng giữ ma túy thì không bao giờ nhìn thấy tiền mặt, ngoại trừ những cấp nhỏ nhất.”
“Tao chỉ hỏi thôi. Năm trăm cân, gì nhỉ…” Hắn nhắm mắt một vài giây, rồi nói: “Mười hai triệu, khoảng đó, nếu như nó không bị ép giá quá mức. Thế còn tiền?”
“Chúng không mạo hiểm với tiền. Chúng vận chuyển nó theo từng phần nhỏ. Có bốn tay tập kết tiền đi loanh quanh, gặp các tay thu thập là những kẻ lấy tiền mặt từ những tay buôn hàng ở cuối đường dây. Các tay tập kết tiền và tất cả những kẻ khác di chuyển trong những chiếc xe thuê, tao ngờ rằng chúng chẳng bao giờ có đến hai trăm năm mươi nghìn đô trong một lần lấy tiền. Rồi tất cả tập trung về đây mỗi tháng một lần. Những kẻ ở đây đóng gói nó theo các cọc tiền và gửi nó đi vào ngày Chủ nhật cuối cùng trong tháng.” Darling kể. “Đều đặn như lịch tàu hỏa vậy. Chúng mang đi bằng du thuyền cỡ nhỏ rồi ném sang một thuyền khác ở Honduras đang chờ sẵn ngoài Vịnh. Toàn bộ hoạt động là do anh em nhà Arce điều hành, tên là Hector và Simon, ở Puerto Cortés.” “Ở Honduras?”
“Đúng. Hai anh em đó không thực sự tầm cỡ, không như các băng đảng Mexico, nhưng chúng thông minh và độc địa. Chúng biết giữ mình và giữ mồm, không có gì hào nhoáng về chúng cả. Đút lót cho cảnh sát và quân đội Honduras, thế là tất cả đều vui vẻ.”
Poole ngẫm nghĩ về điều đó trong yên lặng, với nụ cười mỉm, trong đầu tính toán theo kiểu dân Miền Nam, và rồi cuối cùng nói: “Được rồi. Có vẻ mày đã tìm thấy hũ mật, hay lắm.”
“Có thể.” Darling nhìn Poole với ánh mắt lười nhác. “Mày có chắc mày tham gia không? Đã lâu rồi đấy.”
“Ừ. Tao có.”
“Sẽ có một thằng ở ngoài, ba thằng ở trong, chúng đều có súng.” Darling nói. “Tao đã theo dõi chúng trong ba tháng, luôn là như vậy.”
“Ta cũng có súng chứ?” Poole hỏi.
“Ừ. Có những món mày thích, mua mới hoàn toàn từ Chicago, mấy khẩu Glock 23 có giảm thanh, lắp đạn 180 grain4. Tao tự tay nạp lại thuốc súng nên khi ra khỏi nòng, đạn sẽ đi chậm hơn tốc độ âm thanh để hạn chế tiếng ồn. Tao đã nghĩ có thể… gọi Sam Brooks nếu như mày nghĩ cần thêm tay súng nữa.”
4 Grain là đơn vị đo khối lượng nhỏ nhất được sử dụng ở Mỹ và Anh, xấp xỉ 0,0648 gam, thường được dùng để đo khối lượng viên đạn.
“Không cần nó và tao không thích nó.” Poole nói. “Tao cần một ngày để làm việc với mấy khẩu súng. Mày có chỗ nào mà tao có thể làm thế không?”
“Tao biết mày sẽ hỏi.” Darling nói. “Tao có một chỗ trong rừng xa đến độ bọn cú cũng bay lạc.”
Cô phục vụ bàn mang cốc bia đến cho Poole, hắn cảm ơn cô và cả hai đợi đến khi cô đi khỏi, rồi Poole nói: “Tập bắn trong vài ngày tới, rồi di chuyển vào tối Chủ nhật nhé?”
“Nghe được đấy. Thế còn phần chia tiền? Mày nghĩ sao?” Poole nhe răng cười và nhấp bia, nuốt xuống, rồi nói: “Tao sẽ không tranh cãi với mày đâu.”
“Tao đang nghĩ, chia sáu mươi – bốn mươi, vì tao đã thực hiện toàn bộ việc sắp đặt.” Darling nói. “Tốn của tao chín tháng đấy. Tao bắt tay vào việc này từ tận mùa đông trước.”
“Vừa đấy.”
“Hay lắm” Darling nói, với nụ cười vàng khè. “Sự tái xuất của nhóm Dixie Hicks. Đúng hơn là những gì còn lại của nó.”
Poole bật cười và ngả người ra sau rồi nói: “Mày có nhớ hồi cùng với Ronnie ở ngoài Charleston…”
Nhóm Dixie Hicks có đủ các loại chuyện về những vụ động tay động chân, một vài chuyện thì vui, vài chuyện khác thì buồn. Trong phần lớn các câu chuyện, kể cả những câu chuyện vui, thì cũng đều có sự thương vong của ai đó. Như Ronnie, trong lúc đang lái chiếc Cadillac CTS–V đời 2009 556 mã lực ăn cắp được, anh ta bị ba cảnh sát bang Georgia rượt sát đít, lao xuống một khe đá tại cao nguyên Piedmont ở Georgia, rồi lăn lông lốc cho đến khi chiếc xe trông như một cây xúc xích bóng lộn, ba mươi ngàn đô tiền ngân hàng nổ tung cùng với óc của Ronnie.
Ôi bạn già Ronnie. Thật là tệ khi anh ta đã giết chính mình.
Ngày tiếp theo Poole và Darling lái xe về phía bắc, đi vào khu rừng nơi mà Poole chuẩn bị làm việc với mấy khẩu súng. Hắn đã im hơi lặng tiếng trong một thời gian dài, nhưng giết người cũng giống như lái xe đạp vậy: một khi bạn hiểu được nó, bạn sẽ nhớ được nó.
Một đêm tối trời nọ, Darling đã đột nhập vào trong phòng kiểm tiền khi các tay tập kết tiền không ở đó và nói rằng chúng đếm tiền ở một chiếc bàn cách cánh cửa ở bức tường ngoài khoảng mười mét – hắn đã kiểm tra bằng thước dây. Ở bất cứ khoảng cách nào từ mười mét trở xuống, Poole sẽ không phải lo về việc bắn vào đâu: hắn chỉ cần cầm chắc tay và bóp cò. Cả hai đã dựng lên vài tờ bia tập bắn hình người trong rừng, gắn lên mấy cây thông, và Poole tập luyện với chúng, lấy lại phong độ. Từ những nhát bắn đầu tiên, hắn vẫn đủ tài thiện xạ, nhưng hắn cần luyện tập về tốc độ.
Hắn đã làm được điều đó, và hắn biết cách làm điều đó: đầu tiên thì chậm rãi, cảm nhận các khẩu súng, cảm nhận những vỏ đạn văng ra, cảm nhận độ giật. Rồi sau đó nhanh thêm một từng chút một, Darling nhìn vào đồng hồ bấm giờ.
Darling đưa ra lời phê bình gần như rất uyên bác về điều đó: “Mày đang ở mức chưa đến nửa giây.” Hắn nói, tay cầm đồng hồ bấm giờ. “Mày biết rõ điều này hơn tao, nhưng có vẻ như mày vẫn đang vội quá. Mày ngắm bắn quá kỹ, rồi phải sửa lại.”
Poole gật đầu: “Tao có thể cảm thấy điều đó.”
Hắn sẽ bắn một hộp đạn cỡ 10 li, cùng loại mà hắn sẽ dùng lúc lâm trận, và rồi nghỉ ngơi một chút, đi lòng vòng xung quanh, khua khoắng hai bàn tay. Vào cuối ngày, hắn có thể đạt được bốn đường bắn chính xác, chết người trong khoảng thời gian chưa đầy một phần năm giây. Đủ tốt rồi.
Năm 2005, Cơn bão Katrina quét qua Biloxi như một quả bom nhiệt hạch, một cơn triều cường cao chín mét do bão gây ra đã cuốn trôi phần lớn thị trấn. Khu bắc của cảng chính gần như chỉ còn đất trống, mà trước đây thì từng có nhà cửa. Họa hoằn mới thấy một tòa nhà sót lại, nhưng không còn ở trạng thái ban đầu; và cũng không có nhiều người ở quanh đây.
Nhà thờ Grace Baptist từng có phần nền bằng đá phiến cao hơn đầu người, với một cấu trúc tường ván gỗ nằm ở trên, nó được xây dựng từ những năm 1890. Cấu trúc khung, nếu như không bị tan ra thành tro bụi, thì có thể đang nằm ở đâu đó tít trong rừng Kentucky, sau khi cưỡi trên những cơn gió của Bão Katrina như ngôi nhà của Dorothy trong Phù thủy xứ Oz.
Phần móng bằng đá phiến của nhà thờ còn sót lại cao ngang vai, còn phần nền nhà gốc thì hiện được che phủ bởi những tấm giấy hắc ín. Cả nhà thờ, chỉ còn phần nền móng và sàn, được bán lại cho một người sưu tập xe hơi cổ, ông ta cần một nơi để cất giữ những chiếc xe của mình. Đến khi băng đảng tội phạm Honduras tìm một chỗ để làm nhà tập kết tiền, chúng đã cho nhà sưu tập xe hơi một lời đề nghị mà ông ta còn không mảy may nghĩ đến việc từ chối. Không phải vì ông ta sợ: chỉ đơn giản là ông ta tham lam và lời đề nghị thì quá tốt.
Nơi này có hai lợi ích rất lớn: một là không bao giờ có cảnh sát lảng vảng xung quanh, bởi vì chẳng có gì để ăn trộm, phá hoại, hoặc tụ tập và nó chỉ cách chỗ neo thuyền năm phút đi bộ.
Đêm Chủ nhật chỉ có hàng chuyển đi, với bốn người phụ trách việc đó. Gần như trong cả buổi tối, hai trong số bốn người sẽ đứng ngoài cảnh giới ở các góc đối diện nhau của nhà thờ cũ, tại các vị trí nằm giữa những bụi cẩm tú cầu được trồng cẩn thận. Cả hai đều được trang bị súng, mỗi tên có ít nhất hai khẩu; Darling nghĩ, có thể là súng tiểu liên bán tự động có lắp giảm thanh, và mấy tên đó được kết nối với nhau thông qua tai nghe radio.
Vào lúc tối muộn, Darling nói, một tên cảnh giới sẽ đi vào trong chỗ hai tên kia, trong khi tên còn lại thì ở ngoài, ngồi sau một bụi cây bên cánh cửa dẫn vào tầng hầm nhà thờ cũ.
Hắn nghĩ có thể ba tên kia đóng gói tiền, sau khi hai tên ban đầu đếm và buộc theo cọc. Khoảng nửa đêm, tên lính gác ở bên ngoài sẽ đi vào bên trong, và vài phút sau, tất cả bọn chúng sẽ đi ra ngoài, mỗi tên mang theo ít nhất là một và thường là hai vali. Từ nhà thờ xuống bờ nước mất năm phút đi bộ. Tại đó, chúng sẽ lên một thuyền câu. Hai đến ba phút sau, chúng sẽ rời thuyền và đi bộ trong bầu không gian yên tĩnh của đêm Chủ nhật về nhà thờ cũ.
Ba tên trong số chúng sẽ đợi ở đó trong khi tên thứ tư đi ra ngoài, đến chỗ một chiếc xe Lincoln Navigator màu đen mà chúng đỗ ở phía sau tòa nhà cách đó vài trăm mét. Hắn sẽ đến đón ba tên còn lại để đi về Nhà trọ Hampton, nơi chúng sẽ ở qua đêm trước khi tản ra để về nơi cư trú.
Con thuyền chở tiền sẽ trôi ra khỏi bến lúc tờ mờ sáng và mất hút về phía đường chân trời phía Nam. Darling đã xem xét đến việc cướp thuyền, nhưng hắn nghĩ rằng có thể tiền được đặt trong một két an toàn, hoặc nếu không phải thì cũng khó mà lấy; vấn đề này có thể gây rắc rối và chúng không có thời gian hay sự chuẩn bị để làm việc đó.
Vào hồi mười giờ tối Chủ nhật, Poole và Darling chui ra khỏi một thân xe nhà kéo FEMA, nơi cả hai đã dành phần lớn thời gian từ chiều đến tối để ăn bánh kẹp Subway, uống nước Smartwater và đi tiểu vào trong nhà vệ sinh không còn đấu đường nước ở phía cuối thân xe.
Cả hai đều mặc đồ tối màu, nhưng trông không quá bất thường hay như kiểu sắp đi đánh trận – đơn giản là quần bò hiệu Levi’s màu đen và áo phông dài tay có cổ màu xanh thẫm. Cả hai đều đeo găng tay phẫu thuật màu xanh nhạt và mặt nạ trượt tuyết, thứ không thường thấy ở thị trấn Biloxi, địa hình ở đây vốn không phù hợp để trượt tuyết.
Poole mang theo hai khẩu súng ngắn, Darling mang một, tất cả đều lắp giảm thanh. Darling dùng đạn 9 li, Poole dùng đạn 10 li. Những khẩu súng gắn ống giảm thanh tự chỉnh dài hơn ba mươi lăm phân nằm trong tay của chúng. Trước khi rời khỏi xe nhà kéo, hai tên đã phun ướt các ống giảm thanh trước khi gắn chúng vào nòng súng. Các ống giảm thanh được làm ướt sẽ hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều.
Chỉ có một tên canh gác ở phía ngoài. Hắn đang ngồi sau một bụi hoa hồng tím phờ phạc gần bên cửa ra vào. Chúng vào trong từ phía góc khuất của khối móng nhà, Poole đi trước, Darling theo sát phía sau.
Ở trong góc, khoảng sáu mét từ phía cửa ra vào, Poole liếc nhìn. Bởi bụi hồng che khuất, hắn không nhìn thấy tên canh cửa; nhưng gã lính canh cũng không nhìn thấy hắn. Di chuyển với sự chậm rãi lạnh lùng, hắn khom gối đi men theo tường. Sau ba mét, hắn có thể ngửi thấy mùi của gã kia – mùi thuốc lá, nhưng vẫn chưa nhìn thấy được gã này. Khi còn một mét nữa, Poole cẩn thận đứng dậy, lưng áp vào bức tường đá, nhìn xuống.
Tên lính canh không bao giờ biết được cái gì đã hạ gục hắn: Poole rướn người qua bụi hồng và bắn vào đầu tên kia, một tiếng bụp như tiếng gậy đánh gôn phát ra từ khẩu súng.
Darling tiến lên, cũng lặng lẽ như Poole và chẳng thèm nhìn vào xác chết. Ở trong còn ba tên nữa. Chúng cần sự kiểm soát chớp nhoáng; không thể chạy theo sự hỗn loạn, với màn đấu súng điên rồ. Cần phải xử lý ba tên còn lại ngay lập tức.
Darling đến bên cửa, hắn hít thở: “Sẵn sàng chưa?”
Cánh cửa sẽ không bị khóa. Chúng đã thấy mấy tên lính canh ra vào mà không cần gõ cửa hay dùng chìa khóa. Poole đứng ngay ngắn vào vị trí, mỗi tay cầm một khẩu súng.
“Vào thôi.” Poole thì thầm.
Darling thò một tay đeo găng chạm vào tay nắm cửa, xoay nó, rồi đẩy vào. Nó kêu két một tiếng và Poole xông vào trong, cả hai khẩu súng giương lên. Hắn có thể thấy ba người đàn ông cách đó chín mét, ngồi cạnh nhau ở một chiếc bàn. Cả ba đều nhìn lên, có thể là đang mong đợi để gặp tên canh gác bên ngoài, nhưng tất cả những gì chúng thấy là một kẻ lạ mặt mặc đồ tối màu, chẳng nói gì mà chỉ nổ súng.
Darling yểm trợ, Poole sẽ hạ đối thủ. Darling đá cánh cửa đóng lại khi Poole cho cả ba tên kia mỗi kẻ một phát đạn; trong vòng nửa giây, hai phát từ tay phải, một từ tay trái, đôi chút chậm hơn lúc hắn tập bắn bia giấy. Nửa giây gần như là đủ nhanh nhưng không hẳn. Một trong ba tên vớ được khẩu 9mm từ bàn kiểm tiền và bắn lại một phát hú họa.
Viên đạn bay trúng phần dưới cánh tay trái của Poole, nhưng gã kia đã chết trước khi Poole nhận ra mình bị trúng đạn. Trong lúc hắn bước đến bàn kiểm tiền thì một bé gái, khoảng sáu tuổi, bỏ chạy về phía cuối căn phòng từ chỗ ngồi của mình ở dưới sàn cùng một con búp bê Barbie. Tuy vậy, cô bé biết rằng mình sẽ không thoát được, đành đứng lại, xoay người ra phía sau, rồi nói: “Chú đã giết ông cháu.”
“Xin lỗi, nhóc.” Poole nói, rồi bắn vào đầu cô bé.
Darling, chạy từ phía sau lên, cất lời, cơn sốc hòa trong giọng nói: “Ôi chết tiệt, Gar, mày có phải làm thế không?”
“Có, tao phải làm thế. Nó đã đủ lớn để biết gọi cảnh sát.” Poole nói. Hắn không có chút cảm xúc gì dành cho cô bé, nhưng hắn phải xoa dịu Darling. “Nếu chúng ta trói nó lại, có thể nó sẽ chết đói trước khi ai đó kịp tìm ra nó. Đây là điều tốt nhất rồi.”
Darling nhìn chằm chằm vào cái xác của đứa trẻ như con búp bê hiệu Raggedy Ann, mặc chiếc váy trắng giờ đang vấy những vết máu loang như những bông hoa đỏ được thêu trên vải màu nhạt. “Ôi chết tiệt. Chúng ta có thể gọi ai đó…”
“Tỉnh lại đi, anh bạn! Xong rồi! Hãy đi lấy mấy cái vali chết tiệt ra đây.” Poole nói. “Chúng ta phải đi! Gã chết tiệt kia đã gặp may và bắn trúng tao.”
“Ôi, Chúa ơi. Tệ không?”
“Không, nhưng ta phải xem đã. Chuẩn bị vali đi.”
Poole không thể xắn tay áo đủ cao để quan sát vết thương, nên hắn kéo áo phông qua đầu. Hắn thấy một vết rách dài hai phân rưỡi ở dưới cánh tay; nó đang rỉ máu, nhưng viên đạn chưa thực xự đâm xuyên qua. Một vết thương phần mềm, như mọi người vẫn nói trong các bộ phim truyền hình cũ về Miền Tây.
Darling đang lùa những xấp tiền lẻ tẻ từ trên mặt bàn vào một chiếc vali, chốc chốc lại dừng lại để ngó về phía xác cô bé, như thể đang hi vọng con bé còn chút dấu hiệu của sự sống. Hắn định thần lại, liếc nhìn Poole, và hỏi lại: “Tệ như thế nào?”
“Không tệ lắm. Cần phải xé một cái áo hay cái gì đó. Chỉ là một chút băng bó thôi.”
“Chúng ta có một đống áo trên sàn ấy. Xé lấy một cái đi.” Darling nói.
Poole xé một miếng từ chiếc váy của cô bé, cho rằng có lẽ nó là thứ ít tiếp xúc nhất với cơ thể của người chủ cũ, và do đó khó mà gây nhiễm trùng được: Poole nghĩ về mọi thứ như vậy, kể cả khi đang căng thẳng. Hắn băng cánh tay của mình lại thật chặt và gọn gàng, thực sự nó là tất cả những gì hắn cần. Hắn kéo áo xuống qua đầu, rồi hắn cùng Darling kiểm tra số tiền chiếm được. Poole chẳng có gì hơn để nói ngoại trừ: “Ôi trời!”
“Đúng đó, anh bạn.” Darling nói. “Nhiều hơn những gì tao nghĩ. Khá nặng đấy. Mày khênh được không?”
“Được chứ. Đau đấy, nhưng không tệ.”
Hắn đã nhầm về việc vác tiền. Mỗi chiếc vali phải nặng từ mười tám đến hai mươi ba cân, nặng như cục ắc quy của tàu đánh cá vược; có đến sáu cái như vậy, thay vì chỉ ba đến bốn cái như chúng dự định. Hắn có thể mang mỗi tay một vali, nhưng không thể chạy với chúng; chiếc vali bên cánh tay bị bắn trúng của hắn khiến hắn đi chậm lại, vết đạn sượt qua giờ bỏng cháy như lửa đốt. Darling, đang vác bốn chiếc vali, mỗi tay một chiếc và hai bên nách hai chiếc, chạy đằng trước và liên tục gắt lên: “Nhanh nào, nhanh nào.”
Chiếc xe ăn trộm nằm cách đó một trăm tám mươi mét. Darling chất đống vali lên xe và chạy về phía Poole, lấy chiếc vali ở bên tay bị thương của hắn, và cả hai cùng nhau quay lại xe.
Chúng lái xe chậm rãi – chúng là những tay lành nghề – đi khỏi Biloxi. Chúng vứt chiếc xe ăn trộm tại một chỗ nghỉ trên đường I-10, chuyển các vali sang chiếc xe Chevy thùng dài của Darling. Darling đã làm một mặt sàn giả trong khoang cắm trại và ở đó, chúng đổ tiền mặt vào qua một cửa khoang giấu kín, đóng nắp lại và vứt những chiếc vali lên trên đó.
Tiếp tục đi về phía Tây, chúng cởi bỏ những chiếc găng tay phẫu thuật và vo tròn lại rồi vứt qua cửa sổ. Những cái mặt nạ trượt tuyết được vứt theo sau, mỗi lần một chiếc, cách nhau vài cây số. Đi thêm hơn ba mươi cây số nữa, Darling cho xe rẽ vào một đường thoát chạy ngoặt vào một con đường phụ dẫn đến một cây cầu.
Chúng vứt súng từ trên cầu xuống con sông tối và hẹp rồi đi về phía đường cao tốc liên bang. Đi xa thêm nữa dọc theo con đường, chúng để năm chiếc vali bên cạnh nhau ở một lề đường ở Slidell, Louisiana, với một tờ giấy đặt ở trên ghi “Miễn phí”.
Tầm hơn một tiếng sau khi giết bốn người và một cô bé, chúng đã ra khỏi Slidell, tiếp tục đi về phía Tây.
“Mày bị cái quái gì vậy?” Poole hỏi, nhìn qua Darling, đang ngồi khom lưng trên tay lái, miệng thì nhăn nhó không dừng.
“Tao nuôi nấng mấy đứa con gái. Tao không thể loại bỏ hình ảnh con bé ấy ra khỏi đầu.” Darling nói.
“Thôi nào, anh bạn. Tuổi tác có gây ra khác biệt gì đâu? Con bé cũng chỉ là một nhân chứng khác.”
“Tao biết. Tao biết. Chỉ là … nó tràn ngập trong đầu tao, anh bạn ạ. Tao… cứ nhìn thấy nó. Tao sẽ ổn thôi.”
Poole chăm chú nhìn hắn trong một phút, rồi nói: “Hãy nghĩ theo cách này nhé – đã xong rồi. Không thể làm lại được. Mọi chuyện là quá khứ rồi.”
Chúng dừng xe tại một siêu thị Walmart5 mở cửa cả ngày tại Baton Rouge, rẽ sang một bên của khu đậu xe, len vào giữa hai chiếc bán tải khác, rồi trèo ra phía sau xe, và lấy đống tiền ra khỏi tấm sàn giả. Đa số là những tờ tiền một trăm đô, đã lưu thông được một thời gian và hơi nhờn, được xếp thành những xấp mười nghìn đô. Ngoài ra còn một đống tiền lẻ mà Darling đã vét từ trên bàn kiểm tiền.
5 Walmart là một chuỗi cửa hàng bán lẻ của Mỹ.
Chúng đếm vài xấp tiền và đồng ý rằng mỗi xấp này là mười nghìn đô, dù kích cỡ không giống nhau do có nhiều tờ tiền khác mệnh giá trong mỗi xấp. Chúng đếm số xấp tiền. Có bảy trăm tám mươi xấp. “Bảy triệu, tám trăm ngàn đô.” Darling thở mạnh. “Trời, bọn mọi đó sẽ phát rồ lên nếu chúng nghe được chuyện này mất.”
“Kệ xác chúng nó.” Poole nói và cười lớn.
Darling ngồi xuống sàn xe và nói: “Nghe này, bạn ơi. Quên vụ sáu mươi – bốn mươi đi. Tao chưa từng nghĩ chúng mình kiếm được nhiều như thế này. Hãy chia năm mươi – năm mươi và tao giữ đống tiền lẻ. Chẳng có nhiều hơn vài trăm nghìn đô ở đó đâu.”
“Mày là một gã chơi đẹp và chính trực.” Poole nói. “Hãy làm thế đi.”
Hắn giơ nắm đấm ra hiệu và Darling đấm chạm vào rồi chúng chia tiền.
Box đang ở khách sạn Baton Rouge Marriott. Khi tiền được đếm xong và được chia lại vào hai túi xách du lịch, Poole gọi cho cô. “Xong hết rồi.” Hắn nói.
“Em đã đợi hơn ba tiếng, lo lắng hơn cả một con thiên nga trong buổi săn vịt6.” Cô nói. “Anh đang ở đâu thế?” “Ngay tại nơi mà chúng ta phải có mặt.” Poole nói. “Anh làm tốt chứ?” Cô hỏi.
6 Câu gốc là “A nun at a penguin shoot” – “Một bà sơ trong buổi bắn chim cánh cụt”. Đây là câu trích từ serie phim truyền hình Gene Hunt, ý chỉ sự lo lắng tột độ.
“Hơn cả thế.” Poole nói. “Mười phút nữa.” Cô nói.
Cô đến sau mười hai phút. Darling đã đi đường của hắn, và năm tiếng sau, Poole và Box đi tắt vào đường I-20 phía Tây của Shreveport và lái xe qua biên giới bang Texas trên con đường về nhà ở Dallas, nghe Paul Thorne hát bài Bull Mountain Bridge trên đài phát thanh vệ tinh Sirius.
Một đống tiền ở phía sau xe.
Đống tiền, Poole nghĩ, sẽ còn mãi trong suốt cuộc đời hắn.