H
ầu như tất cả các bậc phụ huynh của những trẻ mắc hội chứng tự kỷ có khả năng nói đều đã từng trải nghiệm qua chuyện tương tự thế này: Hồi lớp năm, Philip được học về cơ thể người. Cậu bé đã cố gắng tập trung vào các cuộc thảo luận về chế độ ăn, bài tập thể dục, và những cách chăm sóc cơ thể. Cũng trong tuần đó, bố mẹ của Philip đã đưa cậu bé đi xem phim. Họ vừa đến rạp chiếu phim thì đã thấy một dòng người đang xếp hàng chờ mua vé. Philip hào hứng chớp lấy cơ hội để thể hiện những kiến thức đã học gần đây của mình. Đi đi lại lại dọc theo dòng người đó, cậu bé chỉ vào từng người và lớn tiếng nói: “Bác kia béo quá! Anh này gầy giơ xương ! Cô kia thấp quá! Bác kia béo phì và có thể chết sớm!”
Khi bố mẹ của Philip chia sẻ câu chuyện này, họ đã thuật lại sự ngây ngô của con mình bằng giọng kể vô cùng hài hước. Tuy nhiên, tôi chắc chắn rằng họ không thể cười nổi vào thời điểm mà chuyện đó xảy ra.
Rồi đến Eli, chàng thiếu niên vừa mới vào trường cấp ba, đang chật vật học cách tham gia vào các cuộc đối thoại với mọi người. Cũng như rất nhiều người mắc hội chứng tự kỷ, cậu bé thường có khuynh hướng nói tường tận về các chủ đề mà cậu quan tâm, nhưng lại hiếm khi hỏi về sở thích của người khác. Tôi đã gợi ý Eli đặt câu hỏi và lắng nghe những lời gợi ý để biết chủ đề mà đối phương muốn thảo luận, nhưng qua nét mặt của cậu bé, tôi biết cậu đang mỗi lúc một chán nản và bực dọc hơn. Cuối cùng , Eli cũng chịu mở lời: “Những người khác có thể làm tốt việc đó, nhưng với cháu thì chẳng dễ dàng gì.”
Tôi hỏi lại: “Tại sao không ?”
Cậu bé đáp: “Họ có thể đọc được suy nghĩ của người khác.”
Đó là cách mà Eli giải mã thế giới xung quanh mình, nơi mà cậu bé ý thức rõ rằng bạn bè và những người lạ đang tương tác với nhau bằng nhiều cách mà cậu không thể hiểu nổi. Cách duy nhất để cậu bé lý giải cách người khác dễ dàng tương tác với nhau là do họ có năng lực ngoại cảm, điều mà cậu bé còn đang khiếm khuyết. Vậy còn lý do nào nữa không ?
Ở một mức độ nhất định, đối với hai trường hợp trên - Philip với dòng người xếp hàng mua vé, Eli với ý nghĩ về khả năng đọc suy nghĩ của người khác - đã diễn tả hai thái cực về cách mà người mắc hội chứng tự kỷ liên hệ với thế giới xung quanh mình, một thế giới với những quy tắc còn ẩn giấu, những kỳ vọng ngầm, và với cách sử dụng ngôn ngữ theo nhiều sắc thái. Hầu hết những người mắc hội chứng tự kỷ đều gặp khó khăn ở các mức độ khác nhau trong việc định hướng về thế giới xung quanh. Một số trẻ, giống như Philip, đã không hiểu được những quy tắc giao tiếp xã hội nên chúng không thể nhận ra sự bất cẩn của bản thân và cũng chẳng mấy quan tâm đến suy nghĩ của người khác về hành động của mình. Những đứa trẻ khác, giống như Eli, lại gặp trở ngại theo những cách khác: chúng nhận thức quá rõ sự tồn tại của những quy tắc và yêu cầu trong cách giao tiếp, nhưng bởi không hiểu được chúng , nên các em thường thấy lo lắng và thiếu sự tự tin trong giao tiếp. Cùng với đó lòng tự trọng của những đứa trẻ này cũng bị ảnh hưởng khi phải ra sức thích nghi với một thế giới mà dường như đang thách thức vốn hiểu biết của chúng.
Khó khăn của việc học hỏi quy tắc giao tiếp
Với cả hai nhóm tự kỷ trên - một nhóm vô tư không nhận thức được thế giới quanh mình và một nhóm thì nhận thức rất rõ ràng - tất cả những khó khăn này đều bắt nguồn từ cùng một vấn đề. Con người vốn có bản năng giao tiếp xã hội, nhưng chứng tự kỷ lại gây ra nhiều trở ngại cho việc phát triển bản năng ấy ở họ.
Chúng ta hãy cùng xem xét cách học ngôn ngữ cơ bản. Một bà mẹ sẽ không bắt đứa con còn mới chập chững biết đi của mình ngồi xuống để giải thích về từ loại hay cách chia động từ. Cũng như chúng ta học ngôn ngữ bằng cách tiếp xúc và đi sâu tìm hiểu nó, chúng ta lắng nghe và quan sát để xây dựng tri thức của bản thân về ngôn ngữ đó. Nói theo thuật ngữ của cuộc nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ thì chúng ta tạo ra các quy tắc về ngôn ngữ, và kết quả là ta học được nghĩa của từ cũng như cách sử dụng chúng để diễn tả những ý tưởng phức tạp.
Những quy tắc giao tiếp cũng vậy. Thông thường , được mọi người tạo ra những quy ước mơ hồ và vô hình về sự tương tác xã hội. Trẻ học những quy tắc này thông qua một quá trình tìm hiểu và thấm nhuần, cùng với sự hướng dẫn thường xuyên của người lớn (“Con đừng chen vào khi mẹ đang nói chuyện với ông nhé.”) Tuy nhiên, đối với người mắc hội chứng tự kỷ thì bản chất của sự khiếm khuyết đã khiến họ gặp trở ngại trong việc nghiên cứu các bối cảnh giao tiếp cũng như hình thành các quy tắc trên. Họ có thể học những quy tắc này, nhưng nó giống như người trưởng thành học một ngôn ngữ thứ hai vậy, do đó rất khó để họ có thể đạt tới mức sử dụng ngôn ngữ trôi chảy cùng tâm lý thoải mái như người bản xứ. Những gì đến với người khác một cách tự nhiên và dễ dàng thì ngược lại với những người mắc hội chứng tự kỷ, họ phải thực sự nỗ lực có chủ đích, và luôn bị ám ảnh với những chướng ngại mà mình phải trải qua.
Tôi gặp Philip lần đầu khi làm cố vấn tại nhà cho cậu con trai bốn tuổi mắc hội chứng tự kỷ của anh. Philip là một chuyên viên đầu tư ngân hàng vô cùng thành công chừng bốn mươi tuổi và được chẩn đoán mắc hội chứng Asperger. Tuy tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh loại xuất sắc, nhưng anh nói với tôi rằng không gì có thể sánh bằng khả năng nắm bắt thế giới xung quanh. Anh nói: “Việc học kinh tế và tài chính chẳng khác nào nguồn sống của tôi cả. Nhưng bây giờ tôi phải đọc sách để hiểu mọi người xung quanh mình - biểu cảm gương mặt họ cùng những sắc thái và cách nói ẩn ý trong giao tiếp.”
Hãy hình dung đến việc lần đầu vào một quán ăn tự phục vụ lạ lẫm. Quán ăn kiểu này cũng có nhiều loại khác nhau: tại một số nơi, khách hàng sẽ thanh toán tại quầy trước, rồi mới lấy khay đựng thức ăn và chọn đồ ăn từ các khay khác nhau; tại những nơi khác, khách hàng sẽ chọn đồ ăn và đặt chúng vào khay, rồi sau đó mới đi ra xếp hàng để trả tiền. Một câu hỏi được đặt ra là: “Vậy khách hàng sẽ lấy dao dĩa, gia vị, đồ uống ở đâu?”. Mỗi một quán ăn lại có sự sắp đặt khác nhau.
Lần đầu vào một quán ăn tự phục vụ, bạn sẽ học những quy tắc ở đây thế nào? Chắc chắn là bạn sẽ quan sát người khác làm. Bạn khám phá những quy tắc bất thành văn tại quán ăn bằng việc nhìn người khác len qua dòng người ra sao, họ hành động thế nào, lấy những gì và ở đâu.
Nhưng nếu bạn mắc hội chứng tự kỷ thì theo bản năng của mình, bạn có thể sẽ không quan sát và xem xét kĩ được cách người ta làm trong tình huống trên. Bạn có thể sẽ ngay lập tức lấy đồ ăn mà mình muốn - thậm chí còn chẳng cần xếp hàng , bởi suy cho cùng mục đích của bạn cũng chỉ là lấy đồ ăn mà thôi. Là một người mắc hội chứng tự kỷ, bạn có thể nhận thức được rằng bản thân cần tuân thủ những quy tắc, nhưng bởi bạn không biết những quy tắc ấy là gì nên bạn có thể cảm thấy mất phương hướng và lo lắng , hoặc mơ hồ. Bạn sẽ nhìn quanh để tìm chút manh mối về chúng. Và chắc chắn là lúc đó sẽ chẳng có gì thôi thúc bạn học hỏi bằng việc quan sát hành vi của người khác đâu.
Đó là cách người mắc hội chứng tự kỷ cảm nhận về thế giới xung quanh mình: giống như một quán ăn tự phục vụ với những quy tắc riêng mà khách hàng ở đó đều biết rất rõ nhưng chỉ những người mắc hội chứng tự kỷ lại gần như không thể học theo ngay được.
Dĩ nhiên là người mắc hội chứng tự kỷ có thể học được những quy tắc này - nếu như được người khác hỗ trợ và chỉ bảo. Giờ thì hãy so sánh với một quán ăn khác. Trong chuyến đi đến Denver, tôi đã ăn tối tại một nhà hàng buffet có hẳn một quầy rau củ riêng với cách bài trí rất độc đáo. Khi khách hàng bước vào, họ ngay lập tức được chỉ dẫn đến quầy rau củ, rồi thanh toán cho nhân viên thu ngân. Sau đó, họ đi đến một khu vực khác có súp, bánh mì kẹp, và đồ tráng miệng , tất cả đã bao gồm trong giá cố định mà họ vừa thanh toán. Vậy một người mới đến làm thế nào để nắm được trình tự thực hiện các bước như trên? Có lẽ là bởi họ phải chứng kiến quá nhiều khách hàng hoang mang không biết phải bắt đầu từ đâu, nên ai đó đã lưu tâm đến câu hỏi ấy và thiết lập các công cụ hỗ trợ bằng hình ảnh nhằm hướng dẫn khách hàng của mình về các quy tắc của nhà hàng. Họ đã đặt các tấm biển với sơ đồ các bước thực hiện cho những người mới đến: từ việc bắt đầu xếp hàng để lấy sa lát, sau đó trả tiền, rồi tiếp tục di chuyển tới một quầy khác và tự lấy súp, đồ tráng miệng. Như thể tất cả khách hàng đều mắc hội chứng tự kỷ, và nhà hàng đang giúp chúng tôi nắm được quy tắc tại đây bằng cách cung cấp trình tự các bước thực hiện vậy.
Trong hoàn cảnh giao tiếp thực sự, người mắc hội chứng tự kỷ thường bị bỏ mặc để tự lo, tự tìm cách đương đầu với thực tế mà dường như họ là người duy nhất không có chút hiểu biết nào. Vì vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi mà Ros Blackburn luôn thích nói thẳng : “Đó là lý do tôi không muốn giao tiếp với mọi người.” Một thanh niên tự kỷ khác, Justin Canha (xem Chương 10), cũng đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng nhưng đầy thú vị như vậy. Khi một người bạn mắc hội chứng tự kỷ khác nói với Justin rằng cậu ấy cần rèn luyện tác phong và cách ứng xử của mình, Justin chỉ cười và đáp: “Mấy thứ đó quá vô vị và chán òm.”
Một yếu tố xã hội khác mà chúng ta cần cân nhắc nhưng lại thường không nghiêm túc nghĩ đến chính là bối cảnh văn hóa mình thuộc về. Mỗi khi ra nước ngoài, tôi lại được nhắc nhở về những quy tắc tiêu biểu cho đất nước mình mà đang chi phối các mối tương tác xã hội của tôi. Trong chuyến đi đến Trung Quốc, tôi đã ghé thăm một cửa hàng bán lẻ lớn và đông đúc tại Quảng Châu để cảm nhận về nền văn hóa địa phương. Khi đang xếp hàng chờ tại quầy thu ngân thì một phụ nữ đứng sau tôi đã bất ngờ đẩy tôi, cô ấy có vẻ là muốn chen lên đứng cùng với ai đó ở trước tôi. Trong lúc len người qua, cô ta đột ngột tóm lấy vai tôi và xô mạnh tôi sang một bên, cũng chẳng thèm dừng lại để giải thích hay xin lỗi tôi một câu. Nếu như có ai đó làm như vậy với tôi tại siêu thị Target ở quê nhà thì tôi hoàn toàn có lý do để đối mặt với họ ngay lập tức. Tuy nhiên, tại mảnh đất Trung Hoa chật cứng người này, tôi đã học được một điều rằng hành vi như vậy là hoàn toàn có thể xảy ra ở đây. Tôi đã có thể đánh giá hành vi đó trong những hoàn cảnh xung quanh và đã phản ứng phù hợp - cũng có nghĩa là không phản ứng gì.
Trở ngại trong việc hiểu các tình huống giao tiếp
Khi người mắc hội chứng tự kỷ biểu hiện các hành vi có vẻ khó hiểu hay thô lỗ, hoặc chỉ đơn giản là những khi họ tỏ ra lơ đễnh, không hiểu chuyện - là bởi vì mạng lưới thần kinh đã cản trở quá trình cân nhắc các nhân tố thuộc về tiềm thức vốn giữ vai trò trong việc giúp chúng ta giải mã được các tình huống giao tiếp. Tình trạng thiếu khả năng nhận thức bẩm sinh này biểu hiện theo nhiều cách khác nhau. Đơn cử như gia đình của Michael thường xuyên tổ chức tiệc nướng vào Chủ nhật hàng tuần cho nhóm hỗ trợ của cậu con trai mười hai tuổi của họ, bao gồm các chuyên gia và giáo viên đã đồng hành cùng cậu bé trong suốt thời gian điều trị. Trong những lần hội họp như vậy, thỉnh thoảng Michael lại cười khúc khích một mình, tuy ngồi cùng bàn với mọi người nhưng rõ ràng là tâm trí của cậu bé đã bị lấp đầy bởi những suy nghĩ của riêng cậu. Michael vẫn cứ tiếp tục cười khúc khích ngay cả khi bố mẹ yêu cầu cậu bé dừng lại. Tôi đã được chứng kiến sự việc trong một lần đến thăm nhà họ và ngay lập tức chớp lấy cơ hội để tìm hiểu về hành vi của cậu bé. Tôi nói: “Michael, có chuyện gì khiến cháu buồn cười như vậy?”
Cậu bé chỉ vào một trong những bác sĩ trị liệu đang ngồi tại bàn rồi nói: “Bởi vì cô Susie! Giọng cô ấy cao, và cứ léo nhéo bên tai cháu, khiến cháu cảm thấy buồn cười lắm.”
Cô bác sĩ đỏ mặt, ngại ngùng nói với cậu bé: “Vậy có lẽ cô sẽ phải điều chỉnh và hạ thấp giọng của mình xuống trong những lần trị liệu tiếp theo với cháu thôi.”
Michael không nhận thức được điều mình vừa nói đang khiến người khác cảm thấy xấu hổ. Cậu bé trả lời câu hỏi của tôi theo một cách mà cậu nghĩ là khách quan: cô ấy thực sự có một chất giọng cao, léo nhéo. Cậu bé không hiểu quy tắc giao tiếp rằng : chúng ta không nên nói bất cứ điều gì về một người ở chốn đông người nếu như điều đó không mang ý nghĩa tích cực. Vậy những đứa trẻ khác làm thế nào để học được điều này? Câu trả lời là phụ huynh thường sẽ phải luyện tập cho con mình ngay từ khi còn nhỏ, nhưng đến khi mười hai tuổi, hầu hết trẻ đã có kha khá trải nghiệm trong việc nghiên cứu bối cảnh giao tiếp và có những cách ứng xử thích hợp với mỗi tình huống. Quá trình này cũng giúp ta hiểu biết toàn diện hơn về các quy tắc ngầm của phép lịch sự trong giao tiếp hàng ngày.
Luke là một trường hợp khác. Những trở ngại về giao tiếp đã sớm bộc lộ khi giáo viên phàn nàn rằng cậu bé không biết cách chơi đùa cùng các bạn khác. Thay vì chơi đùa theo cách mà các bạn cùng lớp vẫn làm, cậu bé lại thường túm lấy các bạn và ra sức hạ gục chúng. Luke là một đứa trẻ dễ thương , tính cách không hề cục súc, trái lại còn là một cậu bé rất vui vẻ. Thực ra, lúc kéo các bạn khác xuống dưới sàn cậu bé còn cười ngoác miệng , nên chúng tôi bất giác chưa thể hiểu tại sao cậu bé lại hành động bạo lực đến thế. Với vai trò là cố vấn học khu của Luke, tôi đã gặp bố mẹ cũng như nhóm hỗ trợ đã đồng hành cùng cậu bé, và mẹ của cậu đã giải thích rõ toàn bộ sự tình. Luke có hai anh trai, và những hoạt động vui chơi ở nhà của chúng thường mang tính bạo lực: nhảy lên người nhau và kéo nhau ngã xuống sàn. Vì thế, tuy chỉ mới bốn tuổi rưỡi nhưng Luke đã mang khái niệm vui chơi ấy đến trường. Cậu bé không thể nhận biết được ngôn ngữ cơ thể hay biểu cảm khuôn mặt của các bạn là dấu hiệu cho thấy chúng không hề thích thú với trò chơi bạo lực của cậu. Luke cũng không hiểu rằng trường học và ở nhà cậu bé sẽ phải áp dụng những quy tắc hoàn toàn khác nhau.
Hạn chế trong việc dạy các quy tắc xã hội
Trường học nào cũng có những quy định rõ ràng , và trẻ mắc hội chứng tự kỷ thường rất giỏi tuân thủ những quy tắc này, nhất là khi quy tắc đã được giải thích rõ ràng và các em thấy thế là hợp lý. Trên thực tế, rất nhiều trẻ mắc hội chứng tự kỷ trở thành người duy trì quy định bằng cách chỉ ra sai sót của những đứa trẻ khác khi chúng vi phạm các nguyên tắc về việc hành xử sao cho đúng đắn khi ở trường. Những quy định ngầm và không rõ ràng mới là thách thức của trẻ mắc hội chứng tự kỷ. Tôi từng làm việc với một cậu bé mười tuổi tên là Ned. Ned luôn háo hức khi giáo viên đưa ra các câu hỏi trên lớp, nhất là các câu hỏi liên quan đến môn học yêu thích của cậu bé. Mỗi khi biết được câu trả lời là cậu bé sẽ giơ tay để phát biểu ngay. Tại sao ta lại không khen ngợi sự hứng thú cùng trí thông minh của cậu bé nhỉ? Ned thích học địa lý nên khi giáo viên cho cả lớp xem bản đồ châu Phi và yêu cầu lũ trẻ nhận biết các quốc gia trong khu vực này, cậu bé đã liên tiếp hét to tên của từng quốc gia một: “Kenya! Tanzania! Tunisia!”
Trong nhóm kỹ năng xã hội, chuyên gia ngôn ngữ trị liệu đã đưa cho Ned các chỉ dẫn về tầm quan trọng của việc giơ tay trong lớp. Cô giải thích: “Nếu như con giơ tay, điều đó sẽ làm giáo viên và các bạn của con vui, bởi khi đó tất cả mọi người đều có cơ hội trả lời câu hỏi.” Quy tắc mà Ned được dạy chính là: nếu cậu bé giơ tay, giáo viên sẽ gọi cậu bé đứng lên trả lời.
Nhưng tất nhiên vấn đề là không phải lúc nào giáo viên cũng có thể gọi một mình cậu bé. Ned đã hào hứng , tích cực xung phong phát biểu, cố gắng không tự tiện trả lời, nhưng dường như có đôi lúc giáo viên đã phớt lờ cậu bé. Cậu bé chỉ được học về quy tắc mà không hề biết đến những trường hợp ngoại lệ của nó, vì vậy khi đã giơ tay lên mà không được giáo viên gọi, Ned nhanh chóng thay đổi cảm xúc và trở nên lo lắng , buồn bã. Trong buổi trị liệu tiếp theo về nhóm các kỹ năng xã hội của cậu bé, bác sĩ trị liệu đã cố gắng giúp Ned hiểu chính xác hơn về quy tắc này từ chính quan điểm của cậu bé: Nếu con giơ tay, đôi lúc giáo viên sẽ gọi con, nhưng cũng sẽ có lúc cô gọi các bạn khác trong lớp.
Sau khi Ned làm quen và luyện tập với quy tắc này được một vài tuần, tôi liền ghé thăm lớp học của cậu bé. Tôi không chắc là Ned biết tôi đang ở đó, cho đến khi giáo viên hỏi cả lớp một câu. Ned ngay lập tức giơ tay xin được trả lời, sau đó quay lại và nói lớn với tôi rằng : “Bác Barry ! Cháu đã giơ tay trả lời nhưng không có nghĩa là cô giáo sẽ gọi cháu!”
Điều đáng ngợi ca chính là Ned đã nỗ lực rất nhiều để có thể hiểu được các quy tắc dường như chẳng hợp lý chút nào với cậu bé: Vì sao lúc nào cũng phải giơ tay? Nếu mình đã giơ tay, tại sao cô giáo lại không gọi mình? Và nếu cô không gọi, tại sao cô không nói to quy tắc để giải thích vì sao mình không được gọi?
Trải nghiệm của Ned đã cho thấy những hạn chế cố hữu trong việc dạy trẻ các quy tắc của thế giới xã hội cùng những trở ngại mà chúng ta phải đối diện khi nỗ lực làm điều ấy. Chúng ta dạy trẻ một quy tắc, nhưng rồi trẻ phải va chạm với các trường hợp ngoại lệ của nó. Chúng ta dạy trẻ các trường hợp ngoại lệ nhưng lại quên nói với chúng rằng thông thường mọi người không nói về các quy tắc, mà chỉ đơn thuần tuân thủ chúng. Trẻ rất muốn hiểu và làm đúng những quy tắc này, nhưng đôi khi việc bước vào thế giới của những quy tắc giao tiếp chỉ mang đến nhiều sự hiểu lầm hơn mà thôi - có lúc còn theo những cách khôi hài.
Việc tuân thủ quy tắc có thể gây bối rối
Hồi mới vào nghề, tôi đã làm việc cùng một trợ giảng để dạy cậu bé Michael những cách chào hỏi người khác sao cho phù hợp. Đầu những năm 1980, chúng tôi sống tại một thị trấn nhỏ ở miền Trung Tây, hồi đó tác phong và cách ứng xử của cậu bé là một vấn đề quan trọng. Vì vậy, chúng tôi đã dạy Michael cách đánh giá mối quan hệ của cậu ấy và người đối diện một cách nhanh chóng , rồi sau đó dạy cậu cách sử dụng các từ ngữ xưng hô thích hợp như: nói “anh bạn” đối với bạn bè ngang hàng , gọi “thưa bà/cô” đối với phụ nữ, và “thưa ông/anh” đối với đàn ông.
Việc này là trở ngại đối với Michael bởi cậu bé không nhớ nổi các từ ấy. Quá trình này còn ẩn chứa một thách thức chính: là cậu bé phải xem xét các đặc điểm riêng biệt của người khác, ví dụ như giới tính và tuổi, và vai vế của họ đối với cậu. Một buổi chiều nọ, cậu trợ lý của tôi thấy rất vui trước sự tiến bộ của Michael. Khi thấy bức ảnh của một người phụ nữ, Michael sẽ nói “thưa cô”; khi thấy bức hình của một cậu bé khác, Michael sẽ nói “anh bạn”, và cách xưng hô của cậu bé đối với mỗi một đối tượng là chính xác tuyệt đối. Vì thế, cuối buổi trị liệu, trợ lý của tôi đã đề nghị Michael thể hiện những kỹ năng mới cho tôi xem. Michael nhìn tôi rồi mỉm cười, có lúng túng nhưng cực kỳ hào hứng , cậu bé thốt lên: “Xin chào tiến sĩ-anh-bạn-bà-ông !”
Michael đã học được các quy tắc, nhưng cậu bé quá háo hức và choáng ngợp nên không thể áp dụng chúng trong lần đầu tiên thực hành. Dẫu vậy, tôi vẫn thấy được sự nỗ lực của Michael, thấy được những khó khăn của việc này cũng như mong muốn gắn kết của cậu bé với tôi. Ngày hôm nay, tôi thực sự trân trọng cái tên mà cậu bé gọi tôi, tiến sĩ-anh bạn-bà-ông.
Ngôn ngữ có thể là một rào cản trong việc thấu hiểu trong xã hội, bởi vì người mắc hội chứng tự kỷ thường chỉ hiểu nghĩa đen của ngôn ngữ trong khi chúng ta lại không hay nói thẳng ý kiến của mình. Đó là lý do vì sao họ có thể thấy những lời nói ẩn dụ, mỉa mai, cùng những hình thức nói không theo nghĩa đen thật rắc rối.
Một ngày nọ, Helen thấy cậu con trai Zeke chín tuổi của mình tỏ ra hết sức buồn bã sau khi đi học về, vì thế cô đã hỏi con mình lý do.
Cậu bé đáp: “Con không muốn cô Milstein chết đâu!”
Tò mò về chuyện gì đang xảy ra với giáo viên dạy lớp bốn của con trai mình, Helen đã bảo Zeke giải thích.
Cậu bé nói: “Con nghe thấy cô ấy nói với cô O’Connor rằng , ‘Nếu tuần này trời mà mưa thêm một ngày nào nữa thì tôi sẽ tự tử luôn’.”
Sandra cùng với con gái Lisa bảy tuổi của mình đi mua quà sinh nhật cho anh trai cô bé. Lisa đã chọn một quả bóng chày. Trên đường về nhà, Sandra đã nhắc con gái giữ bí mật về món quà ấy cho đến ngày sinh nhật của anh trai: “Con hãy giấu nó dưới cái mũ của con nhé.” Sau đó, bố của Lisa vào phòng ngủ của cô bé và thấy một chiếc mũ đi biển trên giá sách, khác hẳn với nơi thường ngày cô bé vẫn cất chiếc mũ. Khi anh ấy định lấy cái mũ xuống để mang đi chỗ khác, Lisa đã hét toáng lên: “Không ! Bố đừng chạm vào nó! Đó là một bí mật!”
Ngay cả những thay đổi giản đơn cũng có thể gây ra nhiều rắc rối bất ngờ. Một đứa trẻ nhấc máy nghe điện thoại, và khi có người hỏi: “Mẹ cháu có nhà không ?”, đứa trẻ đáp: “Có ạ,” rồi cúp máy luôn. Một đứa trẻ vô tình làm đổ hộp sơn, làm sơn bắn tung tóe khắp nhà. Khi giáo viên nói một cách mỉa mai: “Giỏi thật!” thì cậu bé lại tưởng mình đã làm tốt.
Tầm quan trọng của sự thẳng thắn
Để tránh những vấn đề như vậy, phụ huynh cùng giáo viên nên giao tiếp với trẻ mắc hội chứng tự kỷ theo cách thẳng thắn và rõ ràng nhất có thể. Chúng ta cũng cần sử dụng phương thức “kiểm tra vốn hiểu biết,” cụ thể là hỏi người mắc hội chứng tự kỷ xem họ có hiểu điều chúng ta nói không , thay vì mặc định rằng họ đã hiểu, và nếu cần thiết thì giải thích thêm cho họ.
Những yêu cầu trực tiếp luôn hiệu quả hơn những gợi ý mơ hồ. “Những chiếc bánh quy này trông ngon quá” có thể là cách chúng ta nói lịch sự với trẻ, hàm ý mà bạn dùng để nói với một người bình thường nhằm ám chỉ rằng bạn muốn ăn một cái, nhưng với người mắc hội chứng tự kỷ thì sẽ tốt hơn nếu bạn nói: “Cho tôi xin một cái bánh nhé.”
Đối với một số người mắc hội chứng tự kỷ, có thể chúng ta cũng cần phải giải thích khái niệm ngôn ngữ hàm ý cũng như dạy họ ý nghĩa cụ thể của các từ và cụm từ không rõ ràng và gây khó hiểu cho họ (ví dụ như các thành ngữ). Họ có thể sẽ chẳng hiểu ý nghĩa sâu xa của câu “That’s a piece of cake”1 hay “Break a leg”2, nhưng chúng ta có thể giảng giải trực tiếp những thành ngữ đó cho họ, giống như dịch các từ ngữ của ngôn ngữ khác sang tiếng Anh vậy. Rất nhiều trẻ giữ một danh sách các từ hoặc cụm từ mà chúng thấy khó hiểu, sau đó xem lại cùng với bố mẹ hoặc giáo viên của mình. Chúng ta cần nhớ rằng trẻ ở những độ tuổi khác nhau, với năng lực ngôn ngữ và trải nghiệm xã hội không giống nhau thì sẽ trải qua vấn đề này theo các mức độ khác nhau.
1. Người mắc hội chứng tự kỷ có thể sẽ hiểu theo nghĩa đen: “một mẩu bánh”; nhưng đây là thành ngữ có ý rằng : việc này rất dễ. (ND)
2. Tương tự, nghĩa đen: gãy chân; tuy nhiên người nói có ý: chúc may mắn! (ND)
Chúng ta cũng cần nói rõ về ý nghĩa cụ thể của những từ mà mình sử dụng. Bố mẹ của Nicholas đã dạy con mình gọi 911 trong trường hợp khẩn cấp mà theo lời giải thích của họ thì đó là khi việc xấu xảy đến với cậu bé hay ai đó. Ngày hôm sau, cậu bé đòi mẹ ăn thêm món tráng miệng sau bữa tối nhưng bị từ chối, và thế là cậu bé gọi ngay 911 rồi nói với người điều hành: “Đây là trường hợp khẩn cấp! Mẹ cháu không cho cháu ăn thêm món tráng miệng!” Trong trường hợp này, nếu bố mẹ cậu bé liệt kê các ví dụ cụ thể về trường hợp khẩn cấp ví dụ như hỏa hoạn, tai nạn ô tô, hoặc ai đó bị thương nặng thì sẽ tốt hơn.
Khi trung thực không phải là thượng sách
Môi trường giao tiếp vô cùng phức tạp, với vô số những quy tắc bất thành văn, ngoại lệ, và biến tướng. Dù phụ huynh và các chuyên gia có nỗ lực thế nào trong việc chuẩn bị hành trang cho trẻ thì chúng ta cũng không bao giờ lường trước được hết những vấn đề rủi ro có thể phát sinh, ngay cả khi chúng ta (hoặc những đứa trẻ) có mục đích tốt. Hãy xem xét trường hợp của Ricky, một cậu thiếu niên mắc hội chứng tự kỷ và cũng là một nghệ sĩ piano tài ba. Ricky đã từng tình nguyện chơi đàn miễn phí cho những người trong viện dưỡng lão. Cậu bé chưa bao giờ đến một nơi như thế, nhưng bố mẹ Ricky nói rằng đó sẽ là một cử chỉ cao cả và giàu lòng nhân ái. Họ cũng nói cho con mình biết là một số người cao tuổi mà cậu bé sẽ gặp đều mắc bệnh nan y cũng như gặp phải các trở ngại khác, vì thế tiếng đàn của cậu bé sẽ vực dậy tinh thần cho họ. Trong ngày biểu diễn chính thức, khá đông người đã tập trung tại phòng giải trí để thưởng thức tiếng đàn. Trước khi ngồi xuống biểu diễn, Ricky giới thiệu bản thân, bày tỏ niềm hạnh phúc của mình khi có mặt ở đó và cũng nói thêm rằng : “Cháu rất tiếc vì một số ông bà ở đây sẽ chết sớm.”
Lòng thương cảm của Ricky dành cho những người cao tuổi mà cậu bé gặp là hoàn toàn đúng đắn, nhưng cậu lại chưa nhận thức được rằng việc thẳng thừng nhắc những người ấy nhớ đến thực tế rằng họ đang ở ngưỡng cửa của cái chết là hết sức thiếu tế nhị!
Chúng ta cũng có thể nhìn nhận sai sót của Ricky theo một cách khác: cậu bé là một người trung thực. Tuy nền văn hóa của chúng ta đề cao giá trị của sự thật và phẩm chất trung thực, nhưng việc tương tác với người mắc hội chứng tự kỷ lại khiến chúng ta nhận ra rằng môi trường giao tiếp đôi khi cũng đòi hỏi con người ta phải tế nhị bớt trung thực hơn.
Donald là một thanh niên ngoài hai mươi tuổi làm việc cho một hệ thống nhà thuốc với nhiệm vụ cất thuốc lên giá đựng và giúp đỡ khách hàng. Khi chúng tôi gặp mặt, cậu đã nói với tôi rằng : “Quản lý của cháu nói rằng cháu là một nhân viên có năng lực, nhưng người giám sát trực tiếp thì không thích cháu lắm. Anh ấy gọi cháu là đồ khốn.”
Khi tôi hỏi kĩ hơn, Donald nói rằng một phụ nữ cao tuổi đã đến cửa hàng để tìm mua một loại pin. Donald đã nói với vị khách đó rằng mặc dù cửa hàng có loại pin này, nhưng tốt hơn hết là bà ấy nên mua ở một cửa hàng vật liệu ngũ kim nằm cách đây chỉ một tòa nhà. Ở đó, sẽ có nhiều sự lựa chọn và giá cả cũng hợp lý hơn. Người giám sát đã nghe thấy hết lời khuyên của Donald dành cho vị khách.
Thậm chí ngay cả khi thuật lại câu chuyện của mình, Donald dường như vẫn không hiểu điều gì đã khiến người giám sát của cậu phật ý. Cậu nói với tôi: “Quản lý của cháu nói rằng nhân viên chăm sóc khách hàng như chúng cháu phải thật đáng tin cậy để khách hàng thấy rằng cửa hàng này thật thân thiện và uy tín. Vậy tại sao người giám sát của cháu lại gọi cháu là đồ khốn chỉ vì cháu làm như vậy?”
Vậy lý do thực sự nằm ở đâu? Không có gì ngạc nhiên khi Eli lại cho rằng những người khác có thể bí mật đọc được suy nghĩ của nhau. Đối với người mắc hội chứng tự kỷ, việc nỗ lực thấu hiểu môi trường giao tiếp có thể đồng nghĩa với việc phải liên tục sống trong cảm giác bối rối, hoang mang , và mệt mỏi.
Áp lực từ sự hiểu lầm
Tôi đã gặp vô số người mắc hội chứng tự kỷ từng hiểu sai các tình huống và hành vi giao tiếp. Ngay cả khi ai đó đã cố giải thích thì họ vẫn không thể hiểu nổi lý do của những việc đó. Nếu như sự việc này cứ lặp lại hết lần này đến lần khác thì sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Chúng ta đều biết rằng khi người mắc hội chứng tự kỷ thú nhận rằng : Tôi đáng lẽ phải hiểu điều này, nhưng cho dù có cố gắng thế nào thì tôi cũng không thể hiểu nổi, tức là họ có thể đang phải trải qua sự giận dữ, buồn rầu và lo lắng. Rất nhiều người trong số đó đã phản ứng bằng cách ngăn chặn mọi hình thức giao tiếp với người khác hoặc chỉ đơn thuần là lảng tránh họ. Một số người thu mình lại và rơi vào trạng thái trầm cảm. Lòng tự trọng của họ bị tổn thương mỗi khi họ đặt câu hỏi: “Tại sao mình không thể hiểu điều này? Mình bị sao vậy? Hay mình là kẻ ngu dốt?”
Nhận thức xã hội chỉ là một dạng trong các dạng trí thông minh mà thôi. Bạn có thể thông minh, tài giỏi trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng vẫn phải nỗ lực rất nhiều để hiểu được biểu cảm khuôn mặt và những ám hiệu mơ hồ trong các tình huống giao tiếp diễn ra hàng ngày. Khả năng hiểu biết xã hội đòi hỏi một nhân tố mà cha đẻ của thuyết đa trí tuệ là nhà nghiên cứu Howard Gardner đã gọi là : Trí thông minh giao tiếp. Nếu một người có thế mạnh trong lĩnh vực này thì có thể đánh giá được cảm xúc, những mong muốn, và ý định của người khác trong các hoàn cảnh xã hội khác nhau. Tất nhiên là một người không mạnh về trí thông minh giao tiếp cũng có thể chứng minh trí tuệ của mình trong các lĩnh vực như âm nhạc, toán học, hoặc giải quyết những vấn đề phức tạp.
Nhận thức được khó khăn của bản thân, rất nhiều trẻ đã xin lỗi người khác, nhưng chủ yếu là theo thói quen - vì các em không hiểu mình đang xin lỗi vì điều gì. Trẻ có thể hiểu rõ các quy tắc xã hội. Trẻ sẽ nỗ lực để hành xử đúng đắn, và nếu các em nghi ngờ rằng bản thân chúng đã nói sai điều gì hay cư xử không đúng mực, thì theo bản năng chúng sẽ thốt lên: “Xin lỗi! Xin lỗi!” - dù phụ huynh hay giáo viên có trấn an trẻ bao nhiêu lần, trẻ cũng vẫn nghĩ rằng mình đã mắc lỗi, và thế là trẻ cứ tự động nói xin lỗi.
Việc liên tục phải sống trong tình trạng hoang mang kéo dài, thậm chí cả về những tương tác xã hội bình thường , cũng đồng nghĩa với việc khi các tình huống lạ lẫm ập đến không được báo trước, thì chúng sẽ dễ phản ứng lại theo những cách bất ngờ hay cực đoan. Người khác khi chứng kiến hành vi đó có thể đánh giá chúng thật thiếu suy nghĩ, đột ngột hoặc khó hiểu. Tuy nhiên, hành vi ấy thường xuất phát từ sự chán nản, bực dọc và lo lắng của trẻ trong suốt một thời gian dài.
Benny là một học sinh mười ba tuổi, cậu bé hiếm khi chủ động giao tiếp với mọi người. Cậu bé gặp rất nhiều trở ngại ở ngôi trường cấp hai công lập của mình, và cứ đến giữa buổi học là lại nổi cáu vì căng thẳng , cũng như những yêu cầu của các lớp học buổi sáng. Cậu bé cũng có một khoảng thời gian đầy khó khăn khi mọi người xung quanh cậu bộc lộ những cảm xúc tiêu cực. Một số người mắc hội chứng tự kỷ lúc mà cảm nhận được những cảm xúc mạnh từ người khác - chẳng hạn như niềm vui, nỗi buồn, sự háo hức, lo lắng - thì họ lại rơi vào tình trạng hỗn loạn, cứ như thể chính họ đang trải qua những cảm xúc ấy, dù chẳng thể hiểu nổi tại sao họ lại cảm thấy như vậy.
Một lần chuông báo cháy ở trường reo vào đúng thời điểm trong ngày mà Benny hay tỏ ra lo lắng và mất kiên nhẫn nhất. Khi cùng các bạn xếp hàng ra khỏi lớp, Benny đã nhìn thấy hai cậu bạn đánh nhau, phớt lờ sự căn dặn của giáo viên. Khi cô hiệu trưởng phát hiện ra sự việc, cô đã ngay lập tức xen vào đứng giữa Benny và hai cậu bé kia rồi buông những lời khiển trách gay gắt thậm tệ, chỉ thẳng ngón tay vào mặt mấy cậu nhóc và ra lệnh cho chúng quay trở về hàng ngay lập tức.
Benny đột nhiên phản ứng lại hết sức bất ngờ: cậu bé tiến lại gần cô hiệu trưởng và xô cô ngã xuống đất. Cô chẳng thể làm gì bởi Benny khá to khỏe trong khi cô chỉ nhỉnh hơn một mét rưỡi một chút thôi. Cô đứng dậy và phủi quần áo. Rất may là cô hiệu trưởng không hề bị thương , nhưng dù sao thì cô ấy vẫn thấy run sợ. Sau đó, cô hiệu trưởng đã đình chỉ học tập của Benny luôn hôm đấy.
Không lâu sau đó, tôi đã gặp cô với danh nghĩa cố vấn học khu. Cô ấy nói với tôi rằng : “Anh Barry à, tôi thừa nhận rằng mình vẫn đang học hỏi dần về hội chứng tự kỷ, nhưng trường chúng tôi không thể chứa chấp những hành vi như thế này được.” Cô không chỉ lo lắng cho bản thân mình mà còn băn khoăn không biết các bạn cùng lớp với Benny sẽ nhìn nhận hành vi của cậu bé ra sao.
Tôi đã cố giải thích với cô hiệu trưởng rằng vụ việc vừa rồi là hệ quả của hàng loạt sự việc hỗn loạn mà chỉ mình Benny mới nhận thấy. Trước cả khi chuông báo cháy reo lên, cậu bé cũng đã tỏ ra lo lắng rồi. Cuộc diễn tập cứu hỏa bất ngờ diễn ra trong những âm thanh ồn ào càng khiến cậu bé hoảng loạn hơn. Tiếp đến là những lời quở trách gay gắt từ cô hiệu trưởng đã khiến cậu bé rối trí và mất kiểm soát. Benny thực sự buồn phiền khi chứng kiến sự giận dữ của cô hiệu trưởng và cậu bé coi đó là một hành vi hung hăng , vì vậy mới có những phản ứng bốc đồng như vậy. Nỗi lo mỗi lúc một dâng trào trong Benny từ cuộc diễn tập cứu hỏa cũng như cuộc đối đầu giữa cô hiệu trưởng với hai cậu bé kia như giọt nước làm tràn ly, mới khiến cậu bé có phản ứng tiêu cực như vậy.
Giải quyết vấn đề này không phải là một điều dễ dàng. Chúng ta không thể lường trước được những tình huống có thể khiến Benny bất an. Riêng ở trường cấp hai thôi cũng đã có vô số tình huống gây hoang mang và lo lắng rồi. Những gì chúng ta có thể làm là đảm bảo rằng mọi người ở trường đều đang nỗ lực hết sức để giúp Benny bộc lộ sự lo lắng của mình, các giáo viên và giáo vụ phải để ý đến những dấu hiệu rối loạn đầu tiên của Benny, rồi kịp thời hỗ trợ để bất cứ khi nào cậu bé gặp những việc không mong muốn xảy đến - khi mọi việc đã vượt quá giới hạn chịu đựng của Benny - ai đó có thể can thiệp để giúp cậu bé. Trong kế hoạch điều tiết cảm xúc mà nhóm hỗ trợ chuẩn bị cho Benny, họ đã thêm vào thời khóa biểu của cậu bé một khoảng thời gian nghỉ ngơi nữa vào đúng thời điểm cậu thay đổi tâm trạng và trở nên cáu kỉnh, ngoài ra còn điều một hộ lý đến lớp của Benny để giúp cậu bé ứng phó cũng như thích nghi với hoàn cảnh.
Nhận thức xã hội và trường học
Cô hiệu trưởng của Benny đã có một nỗ lực đáng ghi nhận. Cô cố gắng thấu hiểu hành vi của cậu bé, thay vì nghiễm nhiên cho rằng hành vi ngỗ ngược của học sinh mình chỉ đơn thuần bắt nguồn từ sự hung hăng và ý định muốn gây gổ với ai đó. Trẻ mắc hội chứng tự kỷ thường có những hành động khiến mọi người xung quanh hoang mang và hiểu lầm. Trong quá trình làm việc với rất nhiều trường học, tôi thường xuyên phải nghe rất nhiều giáo viên phàn nàn về một học sinh hung hăng hoặc bướng bỉnh hoặc thách thức họ, và mãi về sau tôi mới hiểu vấn đề thực sự là gì: những người giáo viên này không hề hiểu học sinh của mình. Thông thường , là bởi trẻ không có những hiểu biết, nhận thức nhất định về xã hội, trong khi đó giáo viên lại nghĩ học sinh của mình cố tình hành xử như vậy. (“Thằng bé biết rõ mình đang làm gì mà.”)
Hãy nhìn nhận sự việc theo cách này : Tại hầu hết các trường học, gần như học sinh nào cũng cảm thấy được khuyến khích để làm vừa lòng giáo viên của mình - bằng cách trả lời đúng , đạt điểm A trong các kỳ thi, thể hiện thật tốt trong ngày hội khoa học, tuân thủ các quy định của trường lớp. Rất nhiều học sinh cũng cố gắng để làm bố mẹ tự hào về mình. Tuy nhiên, người mắc hội chứng tự kỷ có thể thiếu những động lực để làm những việc như vậy. Một cậu học trò giỏi đại số có thể đưa ra đáp số đúng cho một bài toán khó mà cậu được giao, nhưng nếu giáo viên yêu cầu cậu trình bày các bước làm để có được đáp án ấy thì có thể cậu bé sẽ từ chối làm việc ấy. Điều đó không có nghĩa là cậu bé không vâng lời, mà chỉ là cậu không biết cô giáo đang kỳ vọng điều gì khi yêu cầu cậu giải thích như vậy. Cậu bé thầm nghĩ: “Con biết làm bài này như thế nào, và cũng có thể đưa ra đáp án chính xác. Tại sao con phải nói với cô cách làm của mình?”
Các giáo viên đã quá quen với việc học sinh cố gắng làm vui lòng mình, không thì chí ít cũng phải hiểu rằng đó là điều chúng nên làm. Vì vậy, nếu không được đào tạo và hướng dẫn bài bản, đương nhiên là họ sẽ thấy khó hiểu, bối rối khi phải đối mặt với những học sinh như Jason, cậu bé tự kỷ học lớp năm rất thông minh và có thể nói chuyện khá lưu loát mà tôi từng đồng hành. Một ngày nọ, giáo viên dạy vẽ đã yêu cầu từng học sinh viết tên hai con vật mà các em yêu thích. Jason đã viết ra tên của hai loài động vật là “ngựa” và “đại bàng.”
Giáo viên nói: “Bây giờ, cô muốn các con vận dụng trí tưởng tượng của mình để vẽ một con vật có những đặc điểm của cả hai con vật mà các con vừa chọn.”
Jason ngồi cuối lớp ngay lập tức nói lớn và chắc nịch rằng : “Con sẽ không làm như thế.”
Một trong những trợ lý lớp học đã lại gần chỗ cậu bé và giải thích về bài tập này một lần nữa.
Jason vẫn một mực nói: “Con sẽ không làm!”
Người trợ lý đáp: “Nhưng Jason à, đây chính là bài tâp ngày hôm nay của chúng ta. Bạn nào trong lớp cũng làm mà.”
Cậu bé vẫn khăng khăng : “Con sẽ không làm!”
Nhận thấy cậu bé mỗi lúc một lo sợ và vì không muốn đẩy vấn đề đi quá xa, nên người trợ lý đã hỏi Jason xem cậu bé có cần nghỉ giải lao không. Cô liền dẫn cậu bé đi dạo, cố gắng giúp cậu bình tĩnh trở lại và trên đường đi luôn miệng nói rằng tất cả các bạn trong lớp đều làm bài tập đó. Khi họ trở về lớp học, giáo viên thấy Jason có vẻ đã bình tĩnh hơn liền hỏi cậu bé đã sẵn sàng để vẽ chưa.
Ngạc nhiên thay, cậu bé vẫn lặp lại lời mình trước đó: “Con sẽ không làm!”
Điều đáng nói là không một ai chịu hỏi lý do tại sao cậu bé lại làm như vậy. Tôi chậm rãi đến bên cậu và cất tiếng hỏi: “Jason, tại sao cháu không muốn vẽ bức tranh cô giáo yêu cầu vậy?”
Cậu bé đáp: “Chẳng có loài động vật nào mà nửa đại bàng , nửa ngựa cả. Cháu không vẽ đâu.”
Jason không hề cố tình tỏ ra ngang bướng hay làm trái ý cô giáo. Chẳng qua là cậu bé không thể hiểu nổi mục đích của bài tập này và nó cũng thách thức lối tư duy của cậu. Jason không hề bị ảnh hưởng bởi các quy tắc giao tiếp bất thành văn quy định rằng cậu bé nên làm bài tập để cô giáo vui lòng , rằng một học sinh dù không muốn thì vẫn cần làm theo mọi yêu cầu của giáo viên. Ý thức về trách nhiệm giao tiếp xã hội không hề tồn tại trong suy nghĩa của cậu bé. Thậm chí ngay cả khi Jason biết rằng giáo viên muốn cậu nghe lời, hợp tác và biết mình nên làm như vậy thì trong lúc nước sôi lửa bỏng , những trở ngại trong việc hiểu yêu cầu của bài tập - một chủ đề mâu thuẫn hoàn toàn với nhận thức của cậu bé về thế giới bên ngoài - trở ngại đó cũng sẽ thôi thúc cậu từ chối làm theo yêu cầu của cô giáo mà thôi.
Đối với trường hợp của Jason, cách cậu phản ứng lại với một bài tập trên lớp có thể cung cấp cái nhìn rất riêng về quá trình trẻ xử lý thông tin cũng như nhận thức thế giới và xã hội. Hồi Sherise học lớp ba, vào Ngày lễ Martin Luther King Jr. cô giáo của cô bé đã phát cho cả lớp phiếu bài tập về ông. Như bao trẻ mắc hội chứng tự kỷ khác, Sherise có khả năng ghi nhớ ngày tháng và thông tin rất ấn tượng , vì thế cô bé có thể đọc làu làu toàn bộ ngày tháng diễn ra những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của ngài King dễ dàng hơn các bạn cùng lớp. Những gì mà cô bé thiếu đôi khi chính là khả năng đặt tất cả thông tin vào một ngữ cảnh văn hóa và xã hội.
Trong phiếu bài tập có một câu hỏi yêu cầu học sinh liệt kê những điều điểm tốt ở vị Mục sư này. Sherise đã viết: “Ông thích chó. Ông có thể đọc sách”. Cô bé tiếp tục nêu ra những câu hỏi tương tự:
Hãy viết điều mà con thích nhất ở Mục sư King. “Ông đã giúp con. Ông lau dọn phòng con.”
Hãy cho cô biết một điều mà Mục sư đã dạy con. “Ông dạy con cách viết các nguyên âm dài và ngắn.”
Hãy so sánh bản thân con với Mục sư. “Mục sư King đeo cà vạt. Con không đeo cà vạt.”
Tại sao con nghĩ Mục sư là một tấm gương tốt. “Bởi vì ngày sinh của ông là ngày lễ.”
Một lần nữa, cô bé này không hề cố tình tỏ ra ngang bướng. Sherise là một cô bé thông minh có trí nhớ siêu đẳng khiến các thầy cô và những người xung quanh đều không khỏi ngạc nhiên. Tuy vậy, cô bé không thể hiểu nổi mục đích của bài tập hay những câu hỏi cá nhân. Những người khác có thể cảm nhận được rằng các câu hỏi này đều xoay quanh việc mục sư King đã thay đổi xã hội và lối sống của người dân Mỹ thế nào. Chỉ có điều đề bài không hề nói rõ điều đó. Phiếu bài tập yêu cầu cô bé nêu một số “điểm tốt” ở vị mục sư này thì Sherise lại nghĩ đến những điểm tốt củabản thân mình. Tương tự, khi được hỏi mục sư đã dạy cho cô bé điều gì, cô bé chỉ đơn thuần nghĩ về những điều mà bản thân học được từ ông , dù chúng chẳng liên quan gì đến yêu cầu của đề bài. Bài tập này đòi hỏi mức độ nhận thức và hiểu biết giao tiếp xã hội sâu hơn khả năng vốn có của Sherise, bởi cô bé bị khiếm khuyết về mặt giao tiếp. Việc này cũng chẳng khác nào yêu cầu một đứa trẻ khuyết tật về thể chất phải cạnh tranh bằng được với các đối thủ khác để giành chiến thắng trong cuộc chạy đua sáu mươi mét.
Giáo viên bối rối trước những câu trả lời của Sherise và thấy thất vọng tràn trề. Thay vì có thái độ như vậy với cô bé, họ nên vững lòng và tán dương những nỗ lực thực sự của cô học trò bé nhỏ. Dù bài tập có thể gây cảm giác bối rối hay bế tắc, Sherise vẫn không hề nói rằng : “Con không làm được đâu. Con không hiểu đề bài”. Cô bé đã cố gắng hết sức để làm rồi. Hơn nữa, dù nhận thức của cô học trò lớp ba ấy còn hạn chế nhưng điều đó không có nghĩa là cô bé sẽ không bao giờ hiểu được những khái niệm giao tiếp này. Nhận thức về mặt giao tiếp xã hội và cảm xúc, cũng như rất nhiều nhân tố khác nữa, cần một thời gian để phát triển. Mỗi một đứa trẻ sẽ trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau với các mức độ không giống nhau. Tuy nhiên, để làm được điều này, các em thường phải trải nghiệm rất nhiều và cần sự hỗ trợ trực tiếp của mọi người. Điều tốt nhất và ý nghĩa mà các giáo viên có thể làm cho Sherise không phải là trách mắng cô bé vì không làm theo yêu cầu của bài tập, mà là tán dương mọi nỗ lực của cô bé cũng như hỗ trợ thêm để cô học trò nhỏ hiểu rõ yêu cầu của bài tập này hơn.
Thấu hiểu cảm xúc
Nếu như trẻ mắc hội chứng tự kỷ gặp trở ngại trong việc nhận thức các quy tắc giao tiếp “ngầm” và mơ hồ thì chúng càng khó có thể hiểu rõ những cung bậc cảm xúc của chính mình và những người xung quanh. Vào năm 1989, lần đầu tiên Oprah Winfrey phỏng vấn Temple Grandin, Oprah đã hỏi cô ấy rằng : “Cảm giác hiện giờ của chị như thế nào?” Grandin liền trả lời bằng cách mô tả cảm giác khó chịu của mình khi phải mặc những chiếc áo len “ngứa ngáy” người. Khi nhắc đến “cảm giác,” ý Winfrey muốn nói đến những cảm xúc của Grandin về thế giới đầy phức tạp ẩn sâu trong mỗi con người cô. Tuy nhiên, Grandin lại nghĩ rằng người phỏng vấn đang hỏi về những trải nghiệm giác quan của mình - cụ thể là xúc giác.
Hoặc cũng có thể cô ấy đang lảng tránh câu hỏi của phóng viên. Bởi cảm xúc rất trừu tượng , mơ hồ và rất khó nắm bắt, và người mắc hội chứng tự kỷ thường gặp khó khăn trong việc nói về những vấn đề như vậy, nhất là khi việc đó đòi hỏi họ phải tự soi xét bản thân. Trước đây, một số chuyên gia và những người khác không hiểu sao lại có thể cho rằng người mắc hội chứng tự kỷ vô cảm. Dĩ nhiên là điều đó không đúng. Họ cũng trải qua hàng loạt những xúc cảm giống như chúng ta. Thậm chí ngược lại, cảm xúc của họ còn lớn hơn. Khó khăn của họ chính là không hiểu rõ và bộc lộ những cảm xúc của chính mình cũng như nhận biết chúng ở những người khác.
Alvin là một cậu bé mười tuổi hay nói nhưng thường xuyên lo lắng bất an và gặp nhiều vấn đề về giác quan. Một ngày nọ, giáo viên lớp học đặc biệt của Alvin cho cậu bé xem bức ảnh chụp một bé trai đang khóc, rồi đưa ra hàng loạt các câu hỏi: Bé trai trong bức ảnh đang cảm thấy thế nào? Vì sao em ấy lại cảm thấy như vậy? Alvin có thể giải thích rằng bé trai khóc vì cảm thấy buồn. Người giáo viên sau đó hỏi tiếp một câu: “Vậy Alvin này, điều gì làm con buồn?”
Cậu bé lặp lại: “Điều gì đã làm con buồn?” rồi đáp: “Thứ khiến con không khỏe là những miếng pho mát màu vàng ạ.” Không hiểu sao cậu bé lại chuyển từ buồn sang không khỏe, có lẽ bởi đó cũng là một cảm xúc tiêu cực, nhưng lại xuất phát từ bản năng và cậu bé dễ nắm bắt hơn.
Giáo viên hỏi lại một lần nữa: “Điều gì làm con buồn?”
Cậu bé lại đáp : “Điều gì khiến con cảm thấy tồi tệ? Bị tiêu chảy ạ.”
Alvin có thể dễ dàng nhận biết rằng bé trai trong bức ảnh đang buồn, nhưng lại không thể liên hệ nó với cảm xúc nội tại của chính bản thân mình. Chắc hẳn cũng có lúc cậu bé cảm thấy buồn, nhưng vì mới mười tuổi nên có lẽ cậu bé không thể dùng lời nói để diễn đạt cảm xúc của mình được. Cuộc trò chuyện này đã chứng tỏ là một người mắc hội chứng tự kỷ hoàn toàn có khả năng nhận biết rõ cảm xúc của người khác, nhưng lại thiếu năng lực bộc lộ cảm xúc của họ, mà việc này đòi hỏi họ phải tự nhận thức và đánh giá lại xúc cảm của mình.
Eric là một cậu bé mười ba tuổi cũng gặp phải vấn đề này. Trong tiết học về trạng thái cảm xúc, giáo viên của Eric đã cho cậu bé và các bạn quay “bánh xe cảm xúc,” một dạng cò quay ru-lét với tên của rất nhiều cảm xúc khác nhau (vui vẻ, bối rối, giận dữ) được sắp xếp quanh bánh xe. Kim chỉ vào cảm xúc nào thì lũ trẻ sẽ phải trả lời các câu hỏi về cảm xúc ấy. Eric quay được từ “ghen tị”. Cuộc hội thoại giữa giáo viên và Eric diễn ra như sau:
Thầy giáo: Hôm nay con cảm thấy thế nào, Eric?
Eric: Con cảm thấy ghen tị ạ.
Thầy giáo: Con có thể cho thầy biết vì sao không?
Eric: Vì con cảm thấy rất ghen tị ạ.
Thầy giáo: Thế sao con lại ghen tị?
Eric: Vì… đội Indiana sẽ đấu với đội Đại học bang Louisiana ạ.
Thầy giáo: Vì sao điều đó khiến con ghen tị?
Eric: Vì ghen tị khiến con thấy thật tuyệt. (Eric quay đi, vẻ mặt đầy lúng túng ).
Cuộc trò chuyện tiếp tục diễn ra, và Eric rõ ràng không hiểu thế nào là ghen tị cả.
Thầy giáo: Con có hiểu thế nào là ghen tị không ?
Eric: Thế nào là ghen tị ?
Thầy giáo: Nếu như Darrell có một chiếc đồng hồ mới toanh và thầy nghĩ đó là chiếc đồng hồ đẹp nhất thầy từng thấy, và thầy thực sự muốn có nó thì đó, như thế nghĩa là thầy ghen tị vì đồng hồ của Darrell đẹp hơn cái của thầy đấy.
Eric: Dạ.
Thầy giáo: Vậy con hiểu thế nào là ghen tị chưa?
Eric: Vì Darrell có chiếc đồng hồ mới
Thầy giáo: Và thầy muốn có nó.
Eric: Và thầy sẽ muốn có nó…
Thầy giáo: Vậy, hôm nay con có thấy ghen tị không ?
Eric: Có ạ.
Thầy giáo: Vì sao?
Eric: Vì Darrell muốn một chiếc đồng hồ mới.
Thầy giáo: Không phải.
Eric: Vì thầy có một chiếc đồng hồ mới.
Thầy giáo: Vì sao Eric lại thấy ghen tị cơ?
Eric: Vì con có một chiếc đồng hồ ở nhà.
Thầy giáo: Con có thể chọn một cảm xúc khác không ?
Eric: Không. Con đã chọn ghen tị rồi mà!
Eric đã cố gắng hết sức để trả lời câu hỏi của thầy và cậu bé thật đáng khen khi không chịu bỏ cuộc, dù thầy giáo có gợi ý cậu làm vậy. Nhưng Eric hiển nhiên là một người có tư duy trực diện, máy móc, đang gặp khó khăn với các khái niệm trừu tượng , mơ hồ.
Điều không nên khi dạy về cảm xúc
Các nhà giáo dục thường nghĩ rằng họ đang dạy người mắc hội chứng tự kỷ cách diễn đạt cảm xúc của mình, trong khi thực chất là họ chỉ đang dạy cách nhận biết biểu cảm gương mặt dựa vào tranh ảnh. Sử dụng ngôn ngữ để diễn tả cảm xúc là một trong những nhiệm vụ khó hình dung nhất đối với một đứa trẻ. Nhận biết và xác định một quả táo hay một cái bàn là một chuyện rất dễ, nhưng truyền đạt cảm xúc của bản thân cũng như của người khác là một chuyện phức tạp hơn gấp bội. Các phản ứng nhận thức và sinh lý cũng là một phần của cảm xúc. Chúng ta không chỉ cảm nhận mà còn tự nhìn nhận, đánh giá và giải thích cách thức cũng như lý do ta bộc lộ những xúc cảm ấy. Bản thân chúng ta cũng trải nghiệm những cảm xúc trong chính cơ thể mình.
Những phản ứng ấy dù sinh động nhưng lại cũng mơ hồ, khó nắm bắt. Tuy nhiên, một số nhà trị liệu đề xuất dạy trẻ mắc hội chứng tự kỷ các cung bậc cảm xúc khác nhau bằng cách để trẻ nhận biết các biểu cảm gương mặt thông qua biểu đồ và tranh ảnh như: vui, buồn, háo hức, giận dữ, ngạc nhiên, lúng túng. Ros Blackburn đã chỉ cho tôi thấy điểm thiếu sót của phương pháp này. Cô nói: “Nhiều năm qua, mọi người luôn cố dạy tôi những cảm xúc khác nhau bằng cách để tôi nhận biết những gương mặt vui sướng và cau có khó chịu. Vấn đề là đâu phải người nào cũng bộc lộ cảm xúc như trong hình.” Những người giáo viên này không hề dạy về cảm xúc mà chỉ đang đơn thuần dạy cách nhận diện tranh ảnh mà thôi. Và chắc chắn là họ cũng không dạy trẻ cách thể hiện cảm xúc của mình cũng như hiểu được lý do vì sao chúng lại cảm thấy như vậy.
Một phương pháp hiệu quả hơn chính là giới thiệu các xúc cảm vui mừng , ngớ ngẩn, choáng váng , lo lắng vào đúng thời điểm người mắc hội chứng tự kỷ đang trải qua chính những cảm xúc đó. (Đối với một số người, phương pháp thích hợp hơn chính là tạo ra sự kết nối giữa một hình ảnh trực quan chẳng hạn như một bức hình, với cảm xúc của một người.) Bằng cách đó, người mắc hội chứng tự kỷ có thể học được cách bộc lộ cảm xúc và giao tiếp bằng trải nghiệm về cảm xúc theo phương diện nhận thức của mình, chứ không chỉ dừng lại ở một biểu cảm về gương mặt. Một khi đã hiểu và nắm được các trạng thái cảm xúc, họ có thể học các kiểu tình huống giao tiếp khác nhau gắn liền với cảm xúc đó.
Dạy giao tiếp: đâu mới là mục đích?
Tương tự, người lớn thường coi trọng việc dạy những gì được gọi là “các kỹ năng xã hội” hơn là nhận thức về xã hội và tư duy xã hội.* Và cách họ dạy các kỹ năng được coi là quan trọng thường rất thiếu tính sáng tạo và khiên cưỡng , bởi mục đích cuối cùng của họ chỉ là muốn đứa trẻ tỏ ra “bình thường”. Việc này không thể giúp một đứa trẻ đưa ra các quyết định đúng đắn khi tương tác với người khác, hay nhận biết và đối phó được với các tình huống xã hội, hay thấu hiểu góc độ nhìn nhận, trải nghiệm cảm xúc cũng như quan điểm của mọi người.
* Michelle Garcia Winner đề cập chi tiết đến vấn đề này trong cuốn sách của bà, Why Teach Social thinking? (tạm dịch: Sao phải dạy tư duy xã hội ?) (San Jose, CA: Think Social, 2014).
Việc giao tiếp mắt là một ví dụ điển hình. Rất nhiều trẻ em mắc hội chứng tự kỷ thường tránh nhìn vào mắt người khác, có thể vì các em thấy không thoải mái; cũng có thể là vì để giao tiếp bằng bằng mắt đòi hỏi sự tập trung và tiêu tốn nhiều năng lượng khiến các em bị xao nhãng dẫn đến không thể suy nghĩ thấu đáo.
Nhưng vì văn hóa Mỹ coi trọng việc nhìn vào mắt nhau trong giao tiếp, nên chuyên gia tâm lý Ivar Lovaas đã quá cố của trường UCLA, một trong những chuyên gia về tự kỷ đầu tiên, cho rằng cần phải đào tạo một đứa trẻ giao tiếp bằng mắt trước cả khi học các kỹ năng khác. Trong nhiều năm liền, dấu ấn duy nhất của Lovaas về cách thức điều trị của mình là lời tuyên bố rằng khả năng giao tiếp bằng mắt khi được yêu cầu là điều kiện tiên quyết để học các kỹ năng khác, nhưng ông cũng chẳng có bằng chứng khoa học nào để chứng minh điều đó là chính xác. Về sau, Lovaas rút lại quan điểm của mình, nhưng không may là nhiều bác sĩ vẫn hứng thú với khái niệm “đào tạo giao tiếp thông qua ánh mắt”.
Nếu thực sự lắng nghe người mắc hội chứng tự kỷ, bạn có thể hiểu được thông điệp rất rõ ràng của họ: việc phải nhìn vào mắt người khác có thể cực kỳ khó khăn với họ. Việc đó khiến họ cảm thấy lo lắng. Họ kháng cự những ai ép buộc họ làm điều đó. Người mắc hội chứng tự kỷ cảm thấy thoải mái và ổn định hơn khi họ không phải giao tiếp bằng ánh mắt trong khi tương tác với những người khác. Người bình thường hình thành thói quen nhìn thẳng vào người khác từ lúc nhỏ, nhưng kiểu nhìn chằm chằm cũng mang một ý nghĩa và đáp ứng một mục đích khác nữa. Khi nói chuyện, những người trong cuộc thường nhìn thẳng vào nhau và có lúc họ nhìn đi chỗ khác. Nhờ thế mà chúng ta có thời gian để tập trung suy nghĩ những điều định nói, để thư giãn và để tiết chế bản thân hơn.
Tôi từng dạy một nhóm sinh viên cao học đến từ châu Phi. Trong giờ làm việc, tôi đã gặp riêng vài người trong số đó. Họ cực kỳ lịch sự, nhưng tôi thấy hơi khó chịu khi chẳng ai trong số họ chịu nhìn vào mắt tôi trong lúc nói chuyện. Sau đó, tôi quyết định đưa ra vấn đề và hỏi họ: “Tôi có vấn đề gì sao?” Tôi nói: “Tôi thấy không thoải mái lắm khi các anh chị không nhìn vào mắt tôi khi giao tiếp.”
Thế rồi một sinh viên trả lời: “Tôi xin lỗi, thưa Tiến sĩ. Nhưng trong văn hóa của chúng tôi, việc nhìn thẳng vào một người có chức vị cao hơn trong lúc nói chuyện bị coi là hành động thiếu tôn trọng người đó. Và Tiến sĩ là giáo sư của chúng tôi.”
Việc đó nhắc tôi nhớ rằng nhiều đặc điểm và thói quen xã hội mà chúng ta coi là quan trọng, thậm chí là cốt yếu, vốn không phải hành vi sẵn có của con người mà chỉ là những nguyên tắc có thể thay đổi ít nhiều giữa các nền văn hóa với nhau.
Giữa những người khác nhau, các quy tắc và thói quen ấy cũng không giống nhau. Trong quá trình giảng dạy tại một bệnh viện nọ, tôi có nhiệm vụ quản lý một khoa. Khi đó, tôi để ý thấy một nhân viên mới đến - một nhà nghiên cứu bệnh lý về ngôn ngữ - đang ngồi vẽ nguệch ngoạc linh tinh trong suốt buổi họp đầu tiên của khoa và chẳng buồn nhìn tôi khi tôi phát biểu. Vào buổi họp thứ hai, cô ấy vẫn tiếp tục làm như vậy. Tôi thấy thực sự bối rối đến mức phải hỏi thẳng cô ấy về việc đó. Tôi nói: “Tôi không hiểu vì lý do gì mà cô không để ý đến tôi trong mấy buổi họp vừa qua?”
Cô ấy xin lỗi vì không nói rõ cho tôi biết sớm hơn, sau đó cô ấy giải thích là cô ấy bị một khuyết tật về học vấn khiến cho cô khó có thể vừa nhìn vào người khác vừa xử lý thông tin cùng một lúc. Tôi đã vội dựa vào ngôn ngữ hình thể cũng như biểu cảm gương mặt của người đồng nghiệp đó để đưa ra những giả định không chính xác về mức độ hứng thú và tập trung của cô ấy với bài phát biểu của tôi.
Nhiều người mắc hội chứng tự kỷ nói rằng họ dễ dàng tập trung vào điều đối phương đang nói hơn nếu không cần mang thêm gánh nặng và sự căng thẳng của việc nhìn vào mặt người đó. Các giáo viên dày dạn kinh nghiệm biết chính xác học sinh nào đang nghe giảng và tập trung học, cả khi họ không nhìn vào thầy cô giáo của mình trong cả buổi học.
Nhưng trẻ em vẫn có thể học các quy định bất thành văn để cho người khác biết là chúng đang lắng nghe. Với phương pháp “nhận thức xã hội” và “tư duy xã hội”, các bậc cha mẹ và giáo viên sẽ giúp con trẻ hiểu rằng các em có thể ngụ ý là mình đang tập trung bằng cách nhìn vào người khác, dù ánh nhìn chỉ kéo dài vài giây ngắn ngủi trong lúc nói chuyện, hoặc các em cũng có thể ậm ừ gật đầu. Có nhiều trẻ thấy việc nhìn người khác khó khăn đến mức không thoải mái. Trong trường hợp đó, ta có thể dạy trẻ đưa ra lời giải thích để người nói chuyện cùng không lầm tưởng rằng các em đang thấy buồn chán và lơ đễnh. (Những lời giải thích như là : “Xin hãy hiểu rằng em vẫn đang tập trung nghe cô nói, cả khi em không nhìn thẳng vào mắt cô”.) Đó cũng là cách mà người bình thường hay dùng khi họ biết sẽ phải rời khỏi một cuộc họp hay một buổi diễn thuyết trước khi nó kết thúc để giải quyết những việc quan trọng khác. Hãy lịch sự báo trước cho diễn giả để tránh gây ra những hiểu nhầm về hành vi, cũng là để thể hiện là bạn quan tâm và tôn trọng cảm giác của họ.
Vai trò của những suy đoán ngầm
Tất cả chúng ta đều đưa ra suy đoán về hành vi của người khác và thường không nói ra, nhưng điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến các mối tương tác của chúng ta. Thường thì người mắc hội chứng tự kỷ thấy không cần phải nói về những điều khiến họ cảm thấy phiền lòng , hoặc đôi khi họ tìm những cách khác thông thường để làm việc đó.
Hiệu trưởng của một trường tiểu học nọ từng cho tôi xem tuyển tập các bức vẽ của một học sinh lớp bốn tên là Enrique. Cậu bé mắc hội chứng Asperger và bắt đầu có thói quen bỏ lại các bức tranh trên bàn của hiệu trưởng. Mỗi một bức vẽ lại có hình của một nhân vật ác quỷ với sừng và đuôi nhọn. Bức tranh nào cũng có tên của vị hiệu trưởng đi kèm với biệt danh mới của cô ấy, “Hiệu trưởng Ác quỷ.”
“Là tôi đó,” cô ấy cười nói. “Mỗi khi không thích thứ gì đó ở trường là thằng bé lại đổ lỗi cho tôi.” Khi Enrique không hài lòng với món sốt cà chua trong căng tin, cậu bé sẽ để lại một bức vẽ ác quỷ. Nếu cậu bé cho rằng có quy tắc nào đó không phù hợp, cậu sẽ để lại một bức nữa. Nhưng vị hiệu trưởng hoan nghênh cách thể hiện độc đáo này, và tôn trọng nỗ lực bộc lộ cảm xúc của Enrique trước những điều không mong muốn. Sau đó cô còn giúp cậu bé tìm những cách thông thường hơn để thảo luận mọi sự bất bình của mình với cô ấy.
Những người khác lại không có bản năng biểu đạt sự không hài lòng của họ. Bud, một cậu bé mắc hội chứng tự kỷ mười ba tuổi xán lạn, đã cho thấy những dấu hiệu trầm cảm. Thay vì tham gia vào các buổi học tại trường cấp hai, cậu sẽ nằm ườn ra bàn, úp mặt lên tay rồi nhắm tịt mắt lại. Giáo viên của cậu không biết phải làm gì với sự u sầu đó, nên đã nhờ tôi can thiệp và giúp đỡ cậu bé.
Vào buổi gặp đầu tiên với chúng tôi, Bud không ngần ngại chia sẻ: “Cháu ghét đi học lắm vì các thầy cô giáo ghét cháu.”
Tôi chưa thấy giáo viên của Bud bày tỏ bất cứ thái độ tiêu cực nào với cậu bé, mà chỉ thấy họ hoang mang không biết phải làm gì để giúp học sinh của mình. Tôi hỏi Bud lý do khiến cậu bé có những suy nghĩ như vậy.
Cậu bé trả lời: “Vì tiết nào họ cũng dạy cháu những thứ cháu không thích học.”
Bud cho rằng vì một lý do mờ ám nào đó mà các giáo viên đã lên kế hoạch giảng dạy đúng những thứ nhàm chán nhất và khiến cậu bé thấy khó chịu. Còn nguyên nhân nào khác lý giải được những khó khăn của Bud gặp phải không ?
Tôi hỏi: “Thầy cô có bao giờ hỏi cháu hứng thú với điều gì không ?”
Cậu bé đáp: “Không , họ ghét cháu mà. Họ hỏi vậy để làm gì chứ?”
Tôi xoa dịu Bud và nói là hồi bằng tuổi cậu bé, tôi cũng bị bắt phải học những môn mà tôi không thích và rằng không phải lúc nào các bạn cùng lớp với cậu cũng hứng thú với mấy môn đó đâu. Với tôi đó chỉ là kiến thức căn bản, nhưng với Bud đó lại là những thông tin, kiến thức mới mẻ. Một thiếu niên đang phát triển bình thường sẽ hiểu rằng học sinh nào cũng sẽ thích và ghét một môn học bất kỳ nào đó, và rằng chúng phải học cách sống chung với sự thật đó. Nhưng với Bud, cách lý giải duy nhất là các giáo viên ghét cậu bé.
Sau cuộc trò chuyện của chúng tôi, tôi khuyên Bud nên tham gia các nhóm kỹ năng xã hội để cậu bé hiểu được lý do vì sao người ta lại hành xử cũng như ăn nói theo cách mà họ vẫn làm, và học những cách có thể để giải thích cho những hành động của họ. Ở đó, cậu bé sẽ được học nhiều điều mà các học sinh khác đã hiểu rõ: có lúc bạn thích những lớp học này, có lúc lại không ; nếu bạn gặp khó khăn, hãy mạnh dạn hỏi thầy cô, những người sẵn lòng giúp đỡ bạn. Nhưng không một ai dành thời gian để giải thích cho Bud về những điều đó vì không ai nhận ra là cậu bé đang có những suy nghĩ sai lệch. Trường của Bud cũng đã cố gắng kết hợp các môn học với sở thích của cậu, đó là tích hợp các thể loại nhạc rock heavy metal và trò chơi điện tử vào chương trình học của cậu bé. Chúng tôi không thể giải quyết hết mọi vấn đề của Bud, nhưng việc hỏi về lý do khiến cậu bé ủ dột đã giúp mọi người nhận ra rằng đa số nỗi buồn chán của cậu đều bắt nguồn từ những sự hiểu lầm. Tất cả những gì cần làm là lắng nghe cậu bé giải thích rồi tìm những cách sáng tạo để hòa hợp với sở thích của cậu.