T
rong một lần về thăm lại ngôi trường ở Buffalo, nơi tôi từng làm việc với một vài trẻ mắc hội chứng tự kỷ từ vài chục năm trước. Đi trên dãy hành lang quen thuộc, tôi nghĩ về những đứa trẻ mà tôi yêu quý, băn khoăn không biết bây giờ chúng thế nào rồi. Khi tôi vào một lớp học có căn bếp nhỏ, tôi thấy một vài thanh thiếu niên đang cùng nhau chuẩn bị bữa sáng. Có một cậu học sinh khoảng mười tám tuổi, cao hơn mét tám, với khuôn mặt tươi vui và tràn đầy năng lượng. Khi cậu bé nhìn thấy tôi từ phía bên kia của căn phòng thì dường như ngay lập tức đã nhận ra tôi. Cậu bé mỉm cười, nhảy cẫng lên, rồi đung đưa người và nói một cách đầy hào hứng khi nhìn về phía tôi.
Nhận thấy phản ứng của cậu bé, người giáo viên lại gần tôi và nói: “Có phải ông từng làm việc ở đây không ? Ông có biết Bernie không?”
Đúng là tôi đã từng làm việc với một cậu bé tên Bernie ở đó. Lúc đó, cậu bé còn rất nhỏ chỉ mới chỉ sáu hay bảy tuổi thôi.
Giáo viên gọi cậu bé vẫn đang đứng ở phía bên kia của căn phòng . “Lại đây nào, Bernie. Tôi muốn em gặp một người quen cũ.”
Cậu bé lại mỉm cười lần nữa và háo hức chạy về phía tôi. Rõ ràng là cậu bé đã nhận ra tôi, nhưng cách chào hỏi của cậu rất khác biệt. Cậu bé nói: “Bác Barry đấy !” rồi ôm chặt lấy tôi và nói tiếp: “Bây giờ bác cháu mình cùng ngồi xuống để buộc dây giày nào!”
Những kỷ niệm chợt ùa về trong tôi: tôi từng làm việc tại lớp học của Bernie nhiều năm trước. Một trong những nhiệm vụ của tôi trong nhiều tuần liền chính là dạy cậu bé cách buộc dây giày.
Khi cậu bé nhắc lại: “Bây giờ bác cháu mình cùng ngồi xuống để buộc dây giày nào!” Bernie nói như vậy vì muốn làm khơi dậy kỷ niệm hơn là gợi nhớ cho tôi. Khuôn mặt cậu sáng bừng với nụ cười rạng rỡ, và tôi có thể cảm nhận được sự hào hứng cùng niềm vui trong giọng nói khi cậu nhắc lại những kỷ niệm của chúng tôi một lần nữa : “Bây giờ bác cháu mình cùng ngồi xuống để buộc dây giày nào!”
Một câu chuyện khác: Louis đã liên lạc với tôi vì vợ chồng anh cảm thấy lo lắng trước một thói quen bí ẩn của Julio, cậu con trai bốn tuổi của họ. Mỗi lần họ đỗ xe trước biển báo dừng là cậu bé - vốn không chịu nói chuyện - lại trở nên hoang mang , đột nhiên la hét và sau đó tự đập vào đầu của mình. Louis giãi bày : “Việc đó khiến chúng tôi rất buồn lòng. Tại sao thằng bé lại hành động như vậy?”
Tôi cũng thấy khó hiểu nên hỏi: “Anh tránh cái ngã tư ấy ra được không?”
Louis đáp: “Không được.” Bởi ngã tư ấy nằm trên tuyến đường mà vợ chồng anh thường xuyên phải đi qua, nên rất khó để họ có thể tránh được nó.
Tôi cũng chưa thể cho họ một câu trả lời thỏa đáng , và tôi chỉ biết dặn Louis rằng bố mẹ phải vào vai thám tử để tìm ra câu trả lời cho chính thắc mắc của họ. Tôi nhắc anh để ý đến mọi dấu hiệu có thể châm ngòi cho hành động của con trai họ.
Ba ngày sau, Louis gọi lại cho tôi và nói: “Tôi nghĩ chúng tôi đã tìm ra nguyên nhân rồi.” Anh kể với tôi rằng hồi nhỏ, Julio từng bị sốt rất cao và cơ thể bị thiếu nước trầm trọng. Vợ chồng anh phải đưa con đến phòng khám, và Julio tỏ ra sợ hãi, hốt hoảng tột độ khi các nhân viên y tế phải giữ cậu bé nằm im để họ có thể truyền dịch qua tĩnh mạch cho cậu bé.
Sau đó, Louis đã xâu chuỗi mọi chi tiết mà anh ấy đã tìm ra: tại ngã tư đường , nơi mà Julio thường xuyên la hét dữ dội, có một tòa nhà được sơn màu trắng giống như phòng khám mà cậu bé đã từng tới lúc còn nhỏ. Có lẽ vì những ký ức ấy quá ám ảnh nên khi vừa nhìn thấy tòa nhà, cậu bé liền nhớ lại trải nghiệm đầy đau đớn và khó khăn đó của mình.
Giống như cách Bernie hồi tưởng lại quãng thời gian học cách buộc dây giày đầy vui vẻ khi xưa, thì Julio cũng đột nhiên nhớ về những khoảnh khắc đầy đau đớn và hoang mang, cứ như thể cậu bé đang phải sống lại hồi ức đáng sợ đó vậy. Cậu bé chỉ cần thoáng thấy tòa nhà trát vữa trắng thôi là đã trở nên hoảng loạn rồi.
Ảnh hưởng của ký ức cảm xúc
Từ hai câu chuyện trên: một câu chuyện về những kỷ niệm vui vẻ, còn câu chuyện còn lại là về những ám ảnh đầy đau thương - chúng ta đã thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của ký ức cảm xúc đối với người mắc hội chứng tự kỷ. Khi nhắc đến ký ức của mình, chúng ta thường nghĩ đến các sự kiện đã xảy ra: những thông tin khách quan, trung lập về những trải nghiệm mà chúng ta có, người chúng ta mới gặp hay quen biết từ lâu, những nơi mà chúng ta từng đến. Tuy vậy, ngoài các sự kiện thực tế, chúng ta cũng có những ký ức cảm xúc về mọi thứ xung quanh mình. Trong tiềm thức, chúng ta gắn ký ức của mình với những cung bậc cảm xúc nhất định: từ vui vẻ, sung sướng cho đến buồn rầu, đau đớn, tức giận và căng thẳng.
Chúng ta đều trải nghiệm điều này ở các mức độ khác nhau. Mỗi lần nghe bài hát “Moon River,” lòng tôi luôn dâng lên một nỗi sầu muộn khó tả. Đó là giai điệu yêu thích của mẹ tôi. Bà qua đời khi tôi mới chỉ mười hai tuổi. Đã hơn năm mươi năm trôi qua nhưng tôi vẫn nghe văng vẳng đâu đây tiếng hát của bà. Một trải nghiệm phổ biến hơn là khi chúng ta tham dự buổi họp lớp cấp ba và gặp lại một người bạn cùng lớp mà bạn chẳng thể nhớ nổi tên họ là gì, nhưng bạn lại nhớ rất rõ cảm xúc yêu ghét của mình với người bạn ấy. Những sự việc trong quá khứ có thể rất mơ hồ, nhưng mọi cảm xúc gắn liền với chúng lại luôn tồn tại dai dẳng và rõ nét trong tâm trí bạn. Chúng ta đều có cơ chế như vậy và chúng ta luôn bị cuốn theo những ký ức tích cực về con người, địa điểm hay các hoạt động. Ngược lại, nếu đó là những ký ức tiêu cực đầy căng thẳng thì ta sẽ lảng tránh chúng , và chỉ cần nghĩ về chúng thôi là mọi cảm xúc khó chịu sẽ bị khơi dậy.
Với người mắc hội chứng tự kỷ thì những điều này còn nghiêm trọng hơn, bởi khả năng ghi nhớ là thế mạnh của họ. Chỉ một số ít người mắc hội chứng tự kỷ là sở hữu các kỹ năng bác học như các nhân vật trong bộ phim Rain Man, nhưng cũng có rất nhiều phụ huynh và giáo viên vẫn phải kinh ngạc trước khả năng ghi nhớ phi thường của con cái hay học sinh của mình. Thông thường, những đứa trẻ này nhớ như in ngày sinh nhật, khu vực địa lý hay các sự kiện diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của chúng. Điều mà ít người quan tâm nhưng lại có sức quan trọng trong việc giúp đỡ người mắc hội chứng tự kỷ chính là ảnh hưởng to lớn của những ký ức cảm xúc, cả những ký ức tích cực lẫn tiêu cực.
Đây cũng là tình huống mà rất nhiều điều tồi tệ có thể xảy ra cùng một lúc: một đứa trẻ có khả năng ghi nhớ quá khứ siêu phàm nhưng lại gặp trở ngại về mặt thần kinh. Dẫn tới việc các em sẽ phải trải qua nhiều trải nghiệm căng thẳng hơn những đứa trẻ bình thường. Bởi chứng tự kỷ cũng kéo theo sự hoang mang , hiểu lầm trong giao tiếp, cũng như các vấn đề về cảm giác. Đó là lý do vì sao chỉ một liên tưởng nhỏ như việc nhìn thấy một tòa nhà trắng hay gặp mặt giáo viên cũ cũng có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ ở người mắc hội chứng tự kỷ.
Ký ức lý giải hành vi như thế nào
Nếu chúng ta thấy hành vi của một người là khó hiểu hoặc có vấn đề thì thường là do người đó đang bị cuốn vào một ký ức quá dữ dội và sinh động , như thể những sự kiện ấy đang tái diễn lại lần nữa. Bernie có được niềm vui từ kỷ niệm buộc dây giày giữa hai chúng tôi không phải vì cậu bé hồi tưởng lại quá khứ xa xôi, mà bởi vì những ký ức về quãng thời gian đó quá sâu sắc, khiến cậu bé có cảm giác như mình đang sống trong quá khứ, quay về chính địa điểm và thời gian khi ấy.
Khi một đứa trẻ đột nhiên suy sụp hay rơi vào tình trạng hoảng loạn cực độ mà không hề báo trước, cũng chẳng rõ nguyên nhân vì sao, thì lý do có thể bắt nguồn từ những ký ức cảm xúc tiêu cực không tên, giống như trường hợp của Julio. Chắc chắn là Julio không hề muốn nhớ lại những ký ức đau đớn ở phòng khám lúc còn nhỏ, nhưng cậu bé lại la hét đầy đau đớn, mất kiểm soát, và khiếp sợ chỉ vì nhìn thấy một tòa nhà sơn màu trắng. Những hành động của trẻ không hề báo trước điều gì, cũng không tỏ dấu hiệu lo lắng hay sợ hãi hơn để bố mẹ hoặc giáo viên có thể can thiệp cũng như hỗ trợ trẻ trước khi mọi thứ vượt quá tầm kiểm soát và không thể cứu vãn nổi. Ký ức cảm xúc của cậu bé không diễn ra theo cách ấy. Julio không thể nhận thức được rằng việc cậu bé đi khám đã diễn ra từ nhiều năm trước, với hoàn cảnh khác nhau, và tại một không gian và thời gian hoàn toàn khác xa hiện tại. Hình ảnh về tòa nhà đã gợi lại những ký ức của cậu bé, điều mà không dễ gì để cậu nguôi ngoai ngay được.
Những nguyên nhân tác động và khơi gợi ký ức có khi chỉ đơn thuần là chỉ một cái tên. Miguel là cậu bé tự kỷ mười một tuổi có khả năng giao tiếp bằng lời nói rất hạn chế. Nhưng khi mẹ của cậu bé là Leslie nói với con mình rằng cô đang thuê một người hộ lý mới tên là Jennifer để hỗ trợ cậu tại nhà và ở trường, Miguel nhanh chóng nói: “Không Jennifer! Không Jennifer!”
Cậu còn chưa gặp người phụ nữ ấy, nên Leslie không hiểu sao con mình lại phản ứng dữ dội đến thế. Sau một thời gian, cô ấy mới nhận ra nguyên nhân của cơn giận ấy. Khi Miguel chỉ mới lẫm chẫm biết đi, cậu bé cũng được chăm sóc bởi một bà vú tên là Jennifer. Mẹ của cậu bé không hài lòng với cách làm việc của bà vú nên cuối cùng đã sa thải bà ta. Sau đó, con trai cô tiết lộ rằng cậu bé đã bị bà ta đã ngược đãi; Miguel phải cố gắng hết sức mới thốt được ra câu nói: “Jennifer đánh Miguel!”. Dù cô hộ lý mới là một người hoàn toàn khác nhưng việc đó cũng chẳng quan trọng với cậu bé. Vì chỉ mới nghe cái tên đó thôi là bao ký ức cảm xúc tiêu cực lại ùa về trong Miguel, và cậu bé không thể thoát khỏi cơn ám ảnh đó.
Trong sự nghiệp của mình, tôi thường xuyên gặp phải trường hợp trẻ mắc hội chứng tự kỷ bị tổn thương tâm lý chỉ vì một từ đơn giản. Một số trẻ khi nghe thấy mọi người gọi tôi là “Bác sĩ Barry” liền trở nên lo lắng và sợ hãi - không phải vì bất cứ điều gì tôi đã làm mà vì từ bác sĩ.
Tôi từng đến tận nhà thăm Billy, một cậu bé tự kỷ tám tuổi. Khi tôi đang chờ tại phòng khách, bố của cậu đã gọi: “Bác sĩ Barry đến rồi đấy con à!”
Thay vì đến chào hỏi tôi, cậu bé hét lên để phản đối: “Không tiêm! Không tiêm! Không bác sĩ Barry! Không bác sĩ Barry!”
Chúng tôi chưa từng gặp nhau trước đó, nhưng chỉ cần nghe thấy từ bác sĩ thôi là mọi ký ức cảm xúc tiêu cực về những lần cậu bé đến phòng khám nhi khoa lại trỗi dậy. Tôi cố gắng trấn an Billy rằng mọi thứ sẽ ổn thôi, nhưng cậu bé lại lo lắng đến mức chạy ngay vào nhà tắm, rồi khóa cửa lại. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng la hét và cả tiếng khóc thút thít của cậu bé: “Con không muốn bị tiêm! Con không muốn bị tiêm!”
Bố của cậu cố gắng trấn an cậu: “Con yêu à, bác Barry không phải là bác sĩ tiêm trẻ. Bác là bác sĩ chơi đùa với trẻ em mà.” Phải mất khoảng mười phút thì cậu bé mới có thể bình tĩnh lại để lắng nghe và hiểu được những lời bố nói. Chúng tôi có thể nghe thấy cậu bé dõng dạc nhắc lại lời của bố mình: “Bác Barry không phải là bác sĩ tiêm trẻ! Bác là bác sĩ chơi đùa với trẻ.” Cuối cùng , cậu bé cũng chịu ra khỏi nhà tắm và chúng tôi đã có khoảng thời gian vui vẻ bên nhau.
Sẽ thế nào nếu như Billy không nói năng gì cả, hoặc nếu, thay vì nói “Không tiêm!”, cậu bé lại sử dụng những từ chỉ mình cậu hiểu mà tôi và bố cậu cũng không thể hiểu nổi ý nghĩa của chúng ? Khi đó, phản ứng đột ngột, lo sợ của Billy trước sự xuất hiện của tôi sẽ là một bí ẩn. Để giải mã nó, tôi sẽ mất nhiều thời gian để làm quen và tìm hiểu hơn nữa.
Sự thật là ký ức cảm xúc không cần từ ngữ để lý giải. Naomi, một nhà nghiên cứu bệnh lý liên quan đến ngôn ngữ nói, đã không tài nào yêu cầu Max đến văn phòng của mình được dù nó nằm ngay trong khuôn viên trường của cậu bé. Cô biết chính xác lý do vì sao cậu bé lại làm vậy: Trong một lần trị liệu trước đó của Max, cô đã phải đến tận lớp để đưa cậu bé đến văn phòng mình. Đó là một ngày đông giá buốt, và vì gặp phải những trở ngại nhất định về mặt cảm giác nên cậu bé phải đi bít tất. Họ cùng nhau đi xuống hành lang trải thảm để đến văn phòng - cô ấy đi thong thả, còn cậu bé thì lê từng bước nặng nề. Đến nơi, cô ấy bảo Max mở cửa. Vừa chạm vào nắm cửa, cậu bé ngay lập tức bị giật mình vì cảm nhận được tĩnh điện ở đó. Tuy không có gì nguy hiểm, nhưng đó vẫn là một điều bất ngờ và gây khó chịu cho cậu.
Vài tuần sau đó, Max không đi đến chỗ nào gần văn phòng của Naomi nữa. Khi đi trên hành lang , cậu bé sẽ đi ép sát vào bờ tường đối diện văn phòng cô, cứ như thể tay nắm cửa đã sống dậy và lao vào cắn cậu bé. Phải mất đến ba tháng thì cậu mới có thể vượt qua ký ức với cảm xúc tiêu cực đó và tự đến văn phòng của cô ấy để tiếp tục điều trị.
Tại sao Naomi không tranh luận với Max? Đối với trẻ mắc hội chứng tự kỷ, những phản ứng từ ký ức cảm xúc thường xuất phát từ bản năng và rất nguyên sơ. Thường thì khả năng suy luận của trẻ trong bất cứ tình huống nào cũng bị hạn chế, vì thế các em không thể tự nhắc bản thân mình rằng chỉ vì một việc đã từng xảy ra trước đó không có nghĩa là nó sẽ lại tái diễn trong tương lai. Một đứa trẻ khác có thể hiểu và lý giải trải nghiệm này theo lô gích: Ồ, mình đã từng bị giật rồi. Đó là chuyện trước đây thôi, nó sẽ không xảy ra nữa, mà nếu có thì mình cũng không sao cả, nó sẽ không tệ đến thế đâu. Chúng thậm chí còn muốn bị giật điện mức nhẹ như một cách khám phá thế giới xung quanh mình. Tuy nhiên, đối với trẻ mắc hội chứng tự kỷ thì mọi ký ức đều hằn sâu trong tiềm thức của các em và thường không dễ bị lu mờ.
Điều đó cũng xảy ra với Steven. Mỗi ngày cậu bé lại tiến triển một chút trong việc làm quen với trường học mới cho đến khi một sự việc chẳng lành xảy ra: buổi diễn tập cứu hỏa diễn ra đúng lúc cậu bé đang đứng dưới chuông báo cháy. Steven gặp phải những trở ngại về cảm giác và đặc biệt nhạy cảm với các tiếng ồn lớn, vì vậy phải đến mấy tuần sau cậu bé mới có thể tự tin bước chân vào ngôi trường mới mà không cảm thấy căng thẳng hay lo lắng nữa.
Bất cứ điều gì cũng có thể là yếu tố kích thích
Nhiều phụ huynh của trẻ mắc hội chứng tự kỷ đều biết rằng , dự đoán những yếu tố tạo ra kích thích với trẻ là một việc không hề dễ dàng. Thông thường , điều chúng ta nói luôn xuất phát từ những ý định tốt đẹp và thực tâm nhất nhưng lại vô tình kích động các phản ứng mạnh mẽ theo bản năng của trẻ mắc hội chứng tự kỷ. Một phần nhiệm vụ của tôi khi đến thăm trường của Scott là quan sát cậu bé bảy tuổi này chạy quanh phòng thể chất. Khi cậu bé chạy ngang qua tôi, theo phản xạ tự nhiên, tôi đã mỉm cười và nói: “Giỏi lắm, Scott!”
Đang chạy thì cậu bé dừng lại và nhìn tôi trừng trừng , vẻ mặt chẳng vui chút nào. Cậu bé lạnh lùng đáp lại: “Không nói ‘Giỏi lắm’! Đừng nói ‘Giỏi lắm’!”
Có phải cậu bé đang tỏ ra ngang bướng không hay chỉ đang khẳng định quyền kiểm soát của mình theo một cách riêng biệt?
Lần tiếp theo Scott chạy ngang qua tôi, tôi đã phải kiềm chế để không nói gì, nhưng đến khi cậu bé chạy vòng tiếp theo, tôi lặng lẽ giơ ngón cái của mình ra. Scott dừng lại và lại nhìn tôi trừng trừng. Cậu bé nói: “Đó cũng có nghĩa là ‘Giỏi lắm’!”, rồi lặp lại những lời ban nãy: “Không nói ‘Giỏi lắm’! Đừng nói ‘Giỏi lắm’!”
Sau đó, tôi mới hiểu vì sao Scott lại khó chịu với những nỗ lực khen ngợi vô ý của tôi. Năm ngoái, cậu bé phải trải qua quá trình điều trị dài với một bác sĩ trị liệu hành vi. Cô ấy chỉ dựa vào phương pháp truyền thống , tức là yêu cầu cậu bé ngồi vào bàn trong một khoảng thời gian dài và tiến hành các buổi dạy thử. Cô ấy dành cho Scott những lời khen và những phần thưởng tinh thần mỗi khi cậu bé nỗ lực và làm tốt bài tập. “Giỏi lắm!” đã trở thành câu thần chú của cô ấy, còn cậu bé thì lại ghét cay ghét đắng những tiết học đó vì cảm thấy như mình đang bị kiểm soát và kìm kẹp, mà đó là điều cậu bé không hề mong muốn. Trên sân tập, tôi nói “Giỏi lắm” với vẻ thân thiện, nhưng đối với Scott, câu nói ấy lại khiến cậu bé nhớ về những tiết học đầy gian nan với cảm giác không thoải mái, và cũng chẳng vui vẻ gì. Nếu tôi định tán dương Scott bằng cách nói “Giỏi lắm!” hoặc giơ ngón tay cái lên thì việc đó sẽ chẳng làm Scott thấy ấn tượng hay thích thú, và cậu bé muốn tôi biết điều đó.
Trẻ em không phải lúc nào cũng có thể giao tiếp được rõ ràng để cho chúng ta biết điều gì đang làm chúng phiền muộn. Đầu năm học, một giáo viên lớp hai luôn tự hỏi tại sao gần như sáng nào cũng thế, cứ đến tầm mười một giờ ba mươi phút là cô học trò Alice lại bắt đầu bật khóc và chán nản. Alice không nói được nên không ai biết điều gì khiến cô bé trở nên phiền lòng như vậy. Vì nghĩ Alice đói nên giáo viên đã mang cho cô bé chút đồ ăn vặt, nhưng cũng chẳng ích gì. Cô giáo cố gắng thay đổi các hoạt động trên lớp sao cho phù hợp với Alice, nhưng lúc nào cô bé cũng buồn bã. Đó thực sự là một trở ngại.
Khi được yêu cầu can thiệp vào trường hợp này, tôi đã trao đổi với người kèm cặp của Alice từ năm ngoái và đề cập đến những trở ngại của cô bé. Cô giáo của Alice vừa nghe đã hiểu vấn đề. Cô nói với tôi: “Năm ngoái, sáng nào cũng thế, cứ đến mười một giờ ba mươi phút là tôi lại dẫn Alice ra sân chơi và cho con bé một khoảng thời gian để ngồi xích đu.” Đó là cách giúp cô bé bình tĩnh và cảm thấy thoải mái trước khi kết thúc mỗi một buổi sáng dài dằng dặc. Nếu như bên ngoài trời mưa hay có tuyết rơi, ai đó sẽ đưa cô bé đến phòng thể chất để chơi xích đu, nhưng ngày nào cũng vậy, cứ đến mười một giờ ba mươi là cô bé lại được ngồi xích đu.
Bí ẩn đã được giải đáp. Alice chẳng có cách nào nói cho mọi người biết điều mình muốn, nhưng cô bé có những ký ức cảm xúc tích cực đầy mạnh mẽ về hoạt động ấy. Mặc dù trở lại trường sau một kỳ nghỉ hè dài cũng như đối mặt với nhiều thay đổi khi vào một lớp học mới và giáo viên mới, nhưng cô bé đã gắn mốc thời gian ở trường đó với cảm giác tích cực, ổn định khi ngồi trên chiếc xích đu. Dù cô bé có nhận thức được mối liên kết với lịch trình học năm ngoái hay không thì điều đó cũng cho thấy vai trò quan trọng của ký ức cảm xúc.
Tôi cũng chứng kiến điều tương tự với trường hợp của Michael, cậu con trai một đồng nghiệp của tôi. Cậu bé thường xuyên “nói chuyện một mình” bằng nhiều hình thức khác nhau. Một buổi chiều nọ, khi tôi đang lái xe đưa Michael đến sân trượt patin, cậu bé ngồi ở hàng ghế phía sau và bắt đầu độc thoại với một vị bác sĩ nào đó trong khi xung quanh không có lấy một bóng người: “Bác sĩ Boyer à, gặp bác cháu vui quá! Bác khỏe không , bác sĩ Boyer ? Bác sẽ làm gì hôm nay thế, bác sĩ Boyer ?”
Tôi tình cờ biết được rằng vị bác sĩ mà Michael đang nói tới đã qua đời. Vì thế, tôi đã hỏi cậu bé: “Michael à, bác sĩ Boyer có ở đây không ?”
Cậu bé mỉm cười và nói: “Không , bác Barry à. Cháu chỉ đang giả vờ nói chuyện với bác ấy thôi vì bác sĩ Boyer là một người rất tốt với cháu.”
Hành động của cậu bé chẳng khác mấy so với cách mà bất kỳ ai cũng có thể hồi tưởng về những trải nghiệm êm đềm khó quên với một người đã qua đời. Michael không hề mặc cảm hay lo lắng đến điều người khác nghĩ về mình, vì thế cậu bé tiếp tục nói to, và tôi vinh dự được chứng kiến những hồi tưởng tích cực này.
Những bài học về
Rối loạn căng thẳng hậu chấn thương (PTSD)
Mặc dù tất cả mọi người đều có những trải nghiệm về ký ức cảm xúc, nhưng những ký ức đó hiếm khi làm ta choáng ngợp hay xâm phạm nghiêm trọng đến cuộc sống và khả năng hoạt động của ta. Vì vậy, khi phụ huynh và giáo viên chứng kiến những phản ứng cực đoan của con cái hay học trò mình đối với những ký ức cảm xúc tiêu cực, họ thường tự hỏi liệu đứa trẻ đó có đang bị Rối loạn căng thẳng hậu chấn thương (PTSD) hay không. PTSD là một hình thức cực đoan của ký ức cảm xúc tiêu cực và là hệ quả chẳng lành xảy ra sau khi một người phải trải qua những chấn thương tâm lý nghiêm trọng : chứng kiến hoặc chịu đựng tình trạng bạo lực, là nạn nhân bị bạo hành về thể xác hoặc xâm hại tình dục, hoặc sống sót sau một vụ tai nạn ô tô kinh hoàng.
Ký ức cảm xúc và PTSD không giống nhau, nhưng cũng có trường hợp chúng chồng chéo lên nhau. Người ta chẩn đoán một người bị PTSD khi những ký ức của người này liên tiếp xâm phạm đời sống hay làm mất năng lực hoạt động của người đó. Một nghiên cứu về bộ não đã chỉ ra rằng những ký ức cảm xúc nằm ở hạch hạnh nhân của não, thuộc một phần hệ rìa của não bộ và có nhiệm vụ thực hiện các chức năng về trí nhớ cũng như cảm xúc. Các tình huống gợi nhắc một người về các sự kiện gây sang chấn tâm lý có thể kích thích quá trình giải phóng các hoóc môn căng thẳng. Điều này dẫn đến sự kích thích hoạt động của hạch hạnh nhân, từ đó các hoóc môn này càng được giải phóng nhiều hơn. Kết quả là quá trình này gây ra những vấn đề nghiêm trọng về cảm xúc với các biểu hiện như là suy nghĩ dồn dập, tức giận và luôn đề phòng , cảnh giác cao độ với mọi người và mọi việc.
Đó là lý do vì sao một người lính sống sót sau chiến tranh lại có lúc cảm thấy như mình đang phải sống lại những khoảnh khắc đau đớn nhất, như thể mình đang lạc vào quá khứ, chứ không phải đứng ở hiện tại để nhớ về những ngày tháng xa xăm. Ta có thể thấy người đó đang ở nhà, trong phòng khách của mình, nhưng tiềm thức của anh ta lại đang ở Baghdad.
Những ký ức cảm xúc hiếm khi làm suy yếu chức năng hay xâm phạm vào đời sống của trẻ mắc hội chứng tự kỷ như rối loạn căng thẳng hậu chấn thương. Tuy nhiên, ký ức cảm xúc thường là tác nhân của những thay đổi đột ngột và mạnh mẽ trong hành vi của trẻ, khiến các bậc cha mẹ và thầy cô không khỏi hoang mang. Vậy nên các nghiên cứu về chứng PTSD có thể đem đến những bài học quý giá để phụ huynh và các chuyên gia giúp người mắc hội chứng tự kỷ đương đầu, cũng như vượt qua những ký ức cảm xúc tiêu cực. Một điều quan trọng mà chúng ta cần ghi nhớ là: khi bạn có một ký ức như vậy mà chẳng thể xóa bỏ, nó sẽ tồn tại trong bộ não của bạn. So sánh với việc dùng máy tính thì tức là bạn không thể xóa nó khỏi ổ cứng. Và chỉ cần một từ ngữ, hình ảnh, hoặc mùi vị có liên quan đến nó thôi là cũng có thể kích thích ký ức sang chấn trong bạn.
Ngay sau khi trải qua vụ va chạm với một chiếc xe Volvo màu đỏ, bạn sẽ cảm thấy lo lắng và sợ hãi khi thoáng thấy bất cứ chiếc xe màu đỏ nào. Tuy nhiên, sau vài tháng thấy những chiếc xe đỏ chạy qua mà không xảy ra vụ tai nạn nào, bạn bắt đầu thấy an toàn hơn và cảm giác lo sợ cũng nguôi ngoai phần nào. Điều đó không có nghĩa là ký ức ấy không tồn tại nữa, mà nó chỉ giảm bớt và được thay thế bởi những ký ức tích cực hơn hoặc chí ít là trung lập hơn mà thôi. Tương tự, ký ức tích cực của một đứa trẻ có thể lấn át những ký ức đau đớn và khó khăn mà chúng từng phải trải qua.
Đôi khi các bậc cha mẹ và những người khác cũng có thể giúp trẻ tạo dựng ký ức cảm xúc tích cực. Anna là một học sinh mẫu giáo rất sợ nhà vệ sinh. Các vấn đề nghiêm trọng về đường ruột đã khiến cô bé phải chịu nhiều đau đớn và khổ sở. Trong suốt quá trình rèn luyện cách đi vệ sinh nghiêm ngặt ở nhà, cô bé đã rất khốn khổ khi phải ngồi trên chiếc bô chẳng mấy thoải mái trong những khung giờ nhất định. Cuối cùng, việc thay đổi chế độ dinh dưỡng chỉ giải quyết được các vấn đề về đường ruột của Anna mà chẳng thể đập tan nỗi sợ nhà vệ sinh của cô bé. Để giúp Anna, bố mẹ cô bé đã bật những bài hát mà con mình yêu thích ngay trong nhà vệ sinh, cùng hát với cô bé tại đó, và để Anna đọc những cuốn sách mà cô bé yêu thích. Phương pháp kịp thời đó đã mang đến những ký ức vui vẻ để phần nào lấn át đi những ký ức buồn phiền của cô bé.
Làm thế nào để biết khi nào thì ký ức cảm xúc trở thành một vấn đề nghiêm trọng?
Chúng ta dựa vào đâu để biết khi nào thì những ký ức cảm xúc tiêu cực là nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi của trẻ? Không phải lúc nào bạn cũng dễ dàng tìm được câu trả lời. Thông thường , việc tìm hiểu nguyên nhân gốc rễ của các hành vi mà trẻ thực hiện đòi hỏi chúng ta phải quan sát và tìm hiểu kỹ càng hơn. Có ba dấu hiệu rõ rệt mà tôi nêu ra như sau:
• Trẻ phản ứng bằng hành vi mạnh mẽ mà dường như chẳng hề liên quan đến những điều bạn quan sát được.
• Trẻ liên tục thể hiện nỗi lo sợ đối với một người, một địa điểm hay một hoạt động nhất định.
• Trẻ mắc chứng nhại lời, lặp đi lặp lại các từ hoặc cụm từ liên quan đến con người, địa điểm, hay hoạt động nào đó.
Đương đầu với những ký ức cảm xúc: Các cách giúp đỡ
Nhân tố quan trọng nhất trong việc giúp người mắc hội chứng tự kỷ đối phó với những ký ức cảm xúc tiêu cực chính là nhận thức và trân trọng trải nghiệm cũng như hỗ trợ việc kiểm soát cảm xúc của chính họ. Thường thì các bậc cha mẹ và các giáo viên - với mục đích tốt đẹp nhất là giúp đỡ con em hay học sinh của họ - nhưng lại có bản năng làm ngược lại. Một số phớt lờ vấn đề này, hy vọng nó sẽ sớm biến mất. Số khác lại ra sức giảm thiểu sự trải nghiệm của trẻ bằng những câu nói mang tính chất trấn an: “Ồ, đừng lo lắng về điều đó nữa”.
Tuy nhiên, những phương pháp như vậy không hề thể hiện sự tôn trọng đối với người mắc hội chứng tự kỷ, cũng không có cái nhìn nghiêm túc đối với những trở ngại mà họ đang gặp phải. Hơn nữa, nó cũng không dạy họ cách để tự điều tiết cảm xúc của bản thân. Trong thực tế, những phương pháp này không hề hiệu quả. Thay vì cảm thấy được thấu hiểu và được hỗ trợ, người mắc hội chứng tự kỷ sẽ thấy như mình bị bỏ rơi - và thậm chí còn trở nên lo lắng và sợ hãi hơn.
Khi đã hiểu được những ký ức cảm xúc đang gây rắc rối cho người mắc hội chứng tự kỷ, chúng ta cần tránh các tác nhân kích thích, cũng như các tình huống hoặc những người gây ra vấn đề này. Chiến lược này tuy có vẻ đơn giản, nhưng nó thực sự giúp ích cho người mắc hội chứng tự kỷ. Nếu như bạn biết rằng những căn phòng ồn ào có thể khiến đứa trẻ lo sợ, vậy thì hãy lưu ý đến điều đó. Nếu như bạn từng thấy âm thanh của món đồ chơi điện tử nào đó khiến một cô bé phải bịt tai lại ngay khi vừa nhìn thấy nó, thì hãy cất ngay món đồ ấy đi. Thậm chí trước khi xảy ra bất cứ vấn đề gì, bạn nên cho cô bé biết rằng món đồ chơi ấy không có ở đây.
Thường thì những tác nhân gây ra sự lo âu ở người mắc hội chứng tự kỷ là không thể tránh khỏi. Trong những trường hợp như vậy, cách tốt nhất chính là tôn trọng người đó và đừng bắt ép họ làm gì cả. George và Holly sống ở một nơi có rất nhiều công viên. Họ có một cô con gái tự kỷ tên là Amy, và ba người con còn lại thì hoàn toàn bình thường. Trong khi những đứa trẻ này rất thích và cũng thường xuyên đến công viên chơi thì Amy lại tỏ ra vô cùng sợ hãi mỗi khi đi đến đó. Cô bé cảm thấy choáng ngợp trước hầu hết các trò chơi ở công viên và không thể chịu đựng được những âm thanh ở đó. Đáng lẽ đây là hoạt động kỳ thú cho cả gia đình, nhưng thay vào đó việc này lại chia tách họ.
Nhưng thay vì bắt ép con gái mình đi đến công viên, bố mẹ của Amy đã trao cho cô bé quyền kiểm soát. Họ để cô bé lựa chọn đi cùng cả gia đình mà không phải chơi những trò cô bé không thích. Họ cho Amy xem những bức hình của vòng quay ngựa gỗ và quầy đồ ăn, hai thứ mà cô bé đặc biệt yêu thích. Họ cũng mang theo tai nghe chống ồn giống loại mà trường của cô bé sử dụng. Khi thấy con mình tỏ ra lo lắng , mẹ cô bé đã nói: “Con có cần tai nghe không ? Con có muốn rời chỗ này không , Amy ? Con có muốn về nhà không ?” Nếu Amy nói cô bé muốn về, họ sẽ tôn trọng quyết định ấy của cô bé. Khi họ quay lại công viên lần khác, họ để Amy mang con thú nhồi bông mà cô bé yêu thích đi cùng , và mua cho cô bé món ăn khoái khẩu. Mọi chuyến đi đều phụ thuộc vào tình trạng của cô bé.
Họ luôn làm vậy trong suốt năm hay sáu chuyến đi chơi giống như thế, và chưa một lần nào họ bắt ép Amy mà luôn để cho cô bé có cảm giác mình được lựa chọn và đang nắm quyền kiểm soát mọi hoạt động. Khi Amy hiểu rằng mình có thể tùy ý hành động và không bị bắt ép làm những việc mình không thích, cô bé thoải mái hơn và sẵn lòng đi cùng cả nhà hơn.
Phương pháp mưa dầm thấm lâu, trao quyền kiểm soát để trẻ chủ động tham gia này có thể áp dụng vào mọi trải nghiệm khiến trẻ cảm thấy choáng ngợp: từ quán ăn tự phục vụ chật cứng người, đến lớp học mới, hay sân bowling - nhìn chung là bất cứ nơi nào mà các em đã từng gặp khó khăn. Theo kinh nghiệm của tôi, việc bắt ép trẻ chỉ khiến các em thêm lo sợ và bất an mà thôi.
Tạo dựng những ký ức cảm xúc tích cực
Một phương pháp tiếp cận hữu ích khác là làm việc có chiến lược để chuyển những điều tiêu cực thành tích cực - tìm cách để biến các địa điểm hay hoạt động gắn liền với những ký ức cảm xúc tiêu cực trở nên thoải mái và thân thiện hơn với trẻ. Lấy ví dụ như một buổi hẹn với bác sĩ nha khoa của người mắc hội chứng tự kỷ cũng thường đầy rẫy những trở ngại: những tiếng ồn lạ lẫm của máy khoan răng hay những thiết bị khác; những bóng đèn sáng lóa chiếu rọi vào mặt họ; cảm giác thiếu khả năng kiểm soát vận động đối với cơ thể mình; khó dự đoán điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Và có thể là họ đã từng phải trải nghiệm nỗi đau thể chất trong lần khám răng trước. Một người bình thường có thể nhìn nhận những trải nghiệm này một cách đơn giản và hiểu rằng dù xảy ra những việc như trên, thì các bác sĩ nha khoa có tay nghề chuyên môn cao không bao giờ cố ý muốn làm tổn hại bệnh nhân của mình, và việc chăm sóc răng miệng thực sự là một việc làm quan trọng để giữ gìn sức khỏe. Chúng ta có thể trấn an bản thân rằng chúng ta luôn an toàn, và có thể đương đầu với trở ngại bằng cách nhắm mắt lại hoặc vịn tay chắc vào ghế hay nghĩ về chuyện khác những chuyện làm chúng ta vui vẻ hơn.
Tuy nhiên, khi một người mắc hội chứng tự kỷ cảm thấy rối loạn, họ không thể tự mình giữ bình tĩnh bằng cách đó. Họ có thể có phản ứng theo kiểu chiến đấu hay bỏ chạy1: Họ ra sức bảo vệ bản thân, hoặc là tránh xa tình huống đó hay cố gắng trốn chạy nó càng xa càng tốt.
1. Fight or flight: là một phản ứng sinh lý xảy ra trong khi cơ thể cảm nhận về một sự kiện đe dọa, tấn công , hay nguy hiểm đến sự sống còn. (ND)
Hai phản ứng khác nhau giúp cho những người mắc hội chứng tự kỷ đối diện với những buổi hẹn khám răng đã cho chúng ta những bài học giá trị để giúp người mắc hội chứng tự kỷ ứng phó với nhiều thách thức khác nhau trong cuộc sống.
Marquis, cậu bé tự kỷ mười-bốn-tuổi, mỗi lần cậu chỉ có thể nói được một vài từ, và chủ yếu phải dùng các tranh ảnh để giao tiếp với mọi người. Những buổi hẹn khám răng luôn khiến Marquis lo lắng đến mức mẹ cậu bé phải rất khó khăn mới có thể dắt cậu bé qua được cửa phòng khám. Tuy nhiên, cô biết chính xác mình phải làm gì để trao con sự hỗ trợ cần thiết. Cô chủ động mua một chiếc ghế bập bênh kê ở phòng chờ, để Marquis - và cả những người khác nếu cần - có thể ngồi để tự trấn an bản thân trong khi đợi nha sĩ gọi vào khám. Cô cũng mang đến tai nghe và phát nhạc cho con mình. Cậu bé còn mang theo một trong những đồ chơi yêu thích của mình - như thú nhồi bông Shrek - để nghịch trong khi chờ đợi. Cuối cùng , cô gặp nha sĩ để hướng dẫn anh ấy hành xử, nhờ nha sĩ di chuyển chậm rãi, và sử dụng những ngôn từ tích cực khi nói cho Marquis biết về những điều sẽ xảy ra trong quá trình khám, để mọi thứ trở nên dễ đoán hơn với cậu bé và nha sĩ. Mẹ của Marquis biết rằng cậu bé không thể tránh gặp nha sĩ mãi được, nhưng thay vì thúc ép con mình đến đó, cô đã cố gắng biến phòng khám của nha sĩ thành một nơi an toàn mà ở đó cậu bé thấy bình tĩnh và ổn định mỗi khi đến đây khám.
Một người mẹ khác cũng có con mắc hội chứng tự kỷ đã tiến hành phương pháp tương tự. Là một chuyên viên vệ sinh răng miệng , cô đã hợp tác với một người mẹ khác cũng từng làm công việc đó, và một nha sĩ để mở một phòng chuyên khám phục vụ những đứa trẻ hay rơi vào tình trạng sợ hãi hoặc quá nhạy cảm mỗi khi đi khám răng , chẳng hạn như trẻ mắc hội chứng tự kỷ hay rối loạn quá trình xử lý thông tin cảm giác. Chiến lược đầu tiên của họ chính là giảm bớt sự mơ hồ về những buổi hẹn khám răng bằng cách đăng ảnh lên một trang web, bao gồm toàn cảnh phòng khám, các nhân viên ở đó cùng những giai đoạn khám chữa mà một bệnh nhân có thể trải qua. Mỗi tuần vào một buổi chiều, thay vì lên lịch cho các buổi hẹn, họ lại mở cửa phòng khám, bày biện đồ chơi và chào đón những bệnh nhân cùng gia đình của họ đến vui chơi cũng như gặp gỡ các nhân viên y tế ở đây. Tóm lại, họ đã giảm bớt cảm giác hoang mang , sợ hãi và tạo ra những ký ức về cảm xúc tích cực ở một nơi rất dễ tạo ra và gợi nhớ về những ký ức tiêu cực.
Các bác sĩ trị liệu làm việc tại các trường học thường gặp những đứa trẻ không chịu hợp tác và có vẻ lo sợ quá mức. Đôi khi vấn đề nằm ở không gian của các hoạt động. Đứa trẻ có thể đã từng đến phòng khám này hoặc ngồi vào chiếc bàn này với một bác sĩ hoặc giáo viên khác, và những cuộc gặp như thế chỉ căng thẳng thêm cho các em chứ không giúp ích được nhiều. Khi đến giờ điều trị, chúng sẽ ra sức phản đối việc điều trị và nói: “Không! Không! Không!” - sau đó nằm vật xuống sàn nhà.
Cách giải quyết tình huống này chính là: tạo ra nhiều hơn những ký ức cảm xúc tích cực. Trước khi làm bất cứ điều gì, hãy cho trẻ được lựa chọn một trong hai đồ chơi yêu thích của mình. Hãy dành năm hoặc mười phút lúc đầu chỉ để chơi đùa cùng trẻ. Làm theo chỉ dẫn của trẻ và để trẻ tận hưởng khoảng thời gian cũng như không gian xung quanh để các em có thể gắn những cảm xúc tích cực vào chúng. Hãy khiến trải nghiệm ấy trở nên thú vị, sau đó từ từ thêm vào những yếu tố thử thách hơn để giúp các em.
Còn một phương pháp khác đơn giản hơn, đặc biệt là với trẻ nhỏ: đó là đừng bao giờ nhắc đến hai chữ “làm việc”. Rất nhiều bác sĩ trị liệu và giáo viên dùng từ đó để nói về khoảng thời gian của mình với trẻ; họ nói: Đã đến giờ làm việc rồi. Chúng ta không thể chơi nữa - giờ là lúc chúng ta phải làm việc.
Đôi khi chính chúng ta lại là người truyền nỗi lo của mình về những khó khăn của quá trình chữa trị cho trẻ. Khi trẻ nghe thấy từ làm việc hay cảm nhận được giọng điệu của chúng ta, một loạt ký ức tiêu cực sẽ lại xuất hiện. Thay vì làm vậy, tại sao chúng ta không hạ tông giọng của mình xuống cũng như tạo dựng một bầu không khí tích cực và thân thiện hơn?
Các bậc cha mẹ có thể tiến hành phương pháp tương tự ở nhà. Một người mẹ phàn nàn rằng tối nào cô ấy cũng phải gồng mình lên để thuyết phục cậu con trai năm tuổi tên là Judah của mình cùng ăn bữa tối với mọi người trong gia đình. Vấn đề là cậu bé thích chơi xích đu ở sân sau, say sưa đến mức phớt lờ luôn cả tiếng gọi của mẹ mình. Tôi bảo cô ấy đặt mình vào vị trí của con trai mình để suy nghĩ. Khi nghe thấy tiếng gọi: “Judah! Đến giờ ăn tối rồi!”, cậu bé chỉ biết rằng mình sẽ phải dừng hoạt động yêu thích và khiến cậu bé thỏa mãn (ngồi xích đu) để tham gia vào một hoạt động khác với nhiều thử thách hơn như (ngồi vào bàn, lắng nghe mọi người trò chuyện, và phải ngồi yên một chỗ).
Tôi hỏi mẹ cậu: “Thế Judah có thích gì trong bữa tối không?”
Cô ấy nói rằng cậu bé đặc biệt thích nhấm nháp những viên kẹo ngậm dinh dưỡng Flintstones.
Tôi đề nghị với cô: “Ngày mai chị nhớ cầm theo lọ kẹo khi đi gọi Judah nhé.”
Tuần sau đó, cô ấy nói với tôi rằng giải pháp trực quan này thực sự hiệu quả. Khi cô vừa gọi Judah vừa giơ hộp kẹo lên, cậu bé đã chạy vượt qua chỗ mẹ mình đang đứng và vào thẳng nhà, rồi lặp lại lời mẹ: “Đến giờ ăn tối rồi!” sau đó ngồi xuống chỗ của mình. Một số người có thể gọi đó là hành động mua chuộc hoặc hối lộ, nhưng điều đó không đúng. Đó chỉ là giải pháp trực quan để gắn bữa tối với sự liên tưởng tích cực mà thôi. Và từ đó, một chuỗi ký ức tích cực đã được hình thành, biến bàn ăn tối trở thành một nơi thân thiện và hấp dẫn hơn với Judah.
Tất nhiên, đó là chiến lược hiệu quả nhất: góp phần xây dựng một cuộc sống tràn ngập những ký ức tích cực cho trẻ. Từ những bậc cha mẹ cho đến các chuyên gia, chúng ta biến điều đó thành hiện thực mỗi khi chúng ta đưa ra các sự lựa chọn thay vì áp đặt quyền kiểm soát lên trẻ; mỗi khi chúng ta khuyến khích sở thích cũng như khen ngợi những điểm mạnh ở trẻ thay vì giáo huấn trẻ theo cách nghĩ của mình; mỗi khi ta khơi dậy nhiều niềm vui cùng sự hứng khởi hơn trong quá trình học tập, làm việc, cũng như trong cuộc sống của trẻ. Khi chúng ta làm những việc này, mọi đứa trẻ - kể cả thanh thiếu niên và người trưởng thành mắc hội chứng tự kỷ sẽ ít phải đương đầu với các ký ức cảm xúc tiêu cực hơn, giúp họ cởi mở và sẵn sàng đón nhận những niềm vui mà cuộc sống ban tặng.