• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cùng con học nói
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 23
  • Sau

Giới thiệu

CHUYỆN CỦA TÔI

Tôi có một tình yêu đặc biệt với ngôn từ, cùng với niềm đam mê ngôn ngữ nói chung và mong muốn làm việc trực tiếp với mọi người nên tôi đã đến với chuyên khoa điều trị các bệnh về ngôn ngữ và giao tiếp. Các bác sĩ thuộc chuyên khoa này điều trị tất cả các chứng bệnh liên quan đến giao tiếp của nhiều dạng bệnh nhân khác nhau, từ người lớn bị tai biến cho đến bệnh nhi bị ảnh hưởng bởi chứng hở vòm miệng bẩm sinh. Sau khi học xong ở London, tôi lập gia đình và chuyển tới thành phố Manchester. Tại đây, tôi nghiên cứu sâu hơn về chuyên ngành Thính học, chuyên chẩn đoán và điều trị các vấn đề về thính lực.

Sau đó không lâu, tôi sinh một cô con gái và hai cậu con trai. Những năm liền sau đó, các con đã dạy tôi rất nhiều điều về sự phát triển giao tiếp và ngôn ngữ!

Từ năm 1980, tôi làm việc bán thời gian ở Manchester, tại một trung tâm y tế mà bây giờ có tên gọi là Trung tâm Dịch vụ Y tế Quốc gia Manchester, thiết lập một trung tâm tư vấn dành cho phụ huynh có con gặp vấn đề về thính lực trước khi vào lớp 1. Tôi cũng làm việc tại các phòng khám để điều trị cho trẻ em gặp các bệnh khác nhau về ngôn ngữ và giao tiếp. Sau đó, tôi được bổ nhiệm làm bác sĩ phụ trách chính của khoa trị liệu ngôn ngữ và giao tiếp, chịu trách nhiệm điều trị cho các bệnh nhi gặp khó khăn về ngôn ngữ, thính lực và học tập. Tôi cũng tham gia giảng dạy các khóa học thuộc lĩnh vực này cho các bác sĩ cùng chuyên ngành và các nhóm chuyên môn khác. Tôi cũng được mời làm cố vấn trong lĩnh vực Thiểu năng Ngôn ngữ tại Đại học Hoàng Gia chuyên đào tạo bác sĩ chuyên khoa trị liệu ngôn ngữ và giao tiếp, và dần dần, tôi có thể tư vấn cho bất kỳ bác sĩ nào ở nước Anh cùng chuyên ngành nếu họ cần giúp đỡ.

Sau đó, tôi được Cơ quan Y tế Vùng Tây Bắc tài trợ triển khai một dự án nghiên cứu kéo dài ba năm, nhờ đó xây dựng được các công cụ chính xác để phát hiện trẻ em có nguy cơ chậm phát triển ngôn ngữ trong năm đầu đời. Nghiên cứu này, cùng với một nghiên cứu khác về cơ chế trẻ em tự kỷ, suy giảm thính lực, mắc khuyết tật học tập và khiếm thính phản hồi âm thanh đã giúp tôi nhận được học vị tiến sĩ. Tiếp theo đó, tôi được bổ nhiệm làm Trưởng khoa Trị liệu ngôn ngữ và giao tiếp, chịu trách nhiệm điều trị cho tất cả trẻ em gặp các vấn đề về ngôn ngữ và giao tiếp tại Trung tâm Dịch vụ Y tế Quốc gia Manchester.

Trong suốt sự nghiệp của mình, tôi đặc biệt quan tâm đến khả năng lắng nghe và chú ý của trẻ nhỏ và luôn mong muốn khám phá sâu hơn mối liên hệ giữa những khả năng này và sự phát triển ngôn ngữ. Cơ hội tuyệt vời đến với tôi khi tôi có thể tiến hành các hoạt động kiểm tra y tế định kỳ dành cho trẻ mẫu giáo cùng với đồng nghiệp Deirdre Birkett – một bác sĩ với trình độ chuyên môn cao mà tôi đã luôn kính trọng. Trong quá trình làm việc, Deirdre và tôi đã học hỏi lẫn nhau rất nhiều để giúp đỡ những bệnh nhân nhí học nói và giao tiếp. Chúng tôi đã phát triển một chương trình vô cùng hiệu quả hoàn toàn dựa trên việc tạo điều kiện cho các bậc phụ huynh giúp đỡ con em mình phát triển. Chúng tôi đã rất hứng khởi khi phát hiện ra rằng trong mọi trường hợp bệnh nhi gặp vấn đề với ngôn ngữ hay chậm phát triển ngôn ngữ nhưng không liên quan tới điếc bẩm sinh, tự kỷ, chậm phát triển nói chung hay các vấn đề về phát triển thần kinh, dù bệnh có nặng như thế nào đi nữa, nếu cha mẹ có thể và sẵn sàng dành nửa tiếng mỗi ngày làm theo chương trình của chúng tôi, các bé sẽ tiến bộ rất nhanh. Chỉ trong vòng vài tuần hoặc vài tháng, các bé phát triển được khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ bình thường tương ứng với lứa tuổi của trẻ. Với tôi, niềm vui trên khuôn mặt của cha mẹ khi các bé bắt đầu giao tiếp luôn là một trong những phút giây giá trị nhất trong sự nghiệp. Chính vì điều đó mà cả hai chúng tôi đều toàn tâm toàn ý phát triển chương trình này như một phương pháp can thiệp trong điều trị.

Rất nhiều bệnh nhi được chúng tôi điều trị ở Manchester xuất thân từ những gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn. Từ khi triển khai chương trình với tên gọi hiện nay là Trẻ học nói, tôi đã có cơ hội áp dụng nó với các gia đình đến từ nhiều vùng khác nhau ở nước Anh với nhiều hoàn cảnh kinh tế khác nhau. Cho đến nay, các kết quả đều thành công.

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRẺ HỌC NÓI

Chương trình can thiệp của chúng tôi ban đầu được phát triển nhằm giúp điều trị cho trẻ em vốn có vấn đề về ngôn ngữ, nhưng rồi chúng tôi phát hiện ra rằng chúng tôi có thể áp dụng chương trình này cho các bé từ khi còn rất nhỏ như một biện pháp phòng ngừa. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi đã tới thăm nhà của 373 trẻ ở độ tuổi 10 tháng tuổi. Quan sát ban đầu cho thấy thậm chí ở giai đoạn rất sớm này, các bé đã có những khác biệt rất lớn, không chỉ trong các kỹ năng tiền ngôn ngữ mà còn cả mức độ phát triển chung. Môi trường sống cũng như mức độ và cách thức các bé được giao tiếp cũng tương đối khác nhau; những yếu tố này hóa ra có liên quan mật thiết tới sự phát triển ngôn ngữ của các bé. Khi quá trình khảo sát kết thúc, chúng tôi cảm thấy mình có thể chỉ ra được bé nào có nguy cơ mắc chứng chậm nói.

Tôi được Cơ quan Y tế Vùng Tây Bắc tài trợ lần thứ hai cho nghiên cứu tiếp theo trong ba năm để thử nghiệm ý tưởng này. Bằng cách sử dụng kỹ thuật sàng lọc đã được phát triển trước đó, chúng tôi tìm ra được một nhóm gồm 140 trẻ mười tháng tuổi mắc chứng chậm phát triển ngôn ngữ ở các mức độ khác nhau, dao động từ rất nhẹ cho đến mức độ nặng. Các bé này được chia thành hai nhóm tương đồng với nhau về sự phát triển ngôn ngữ, sự phát triển chung và nền tảng xã hội. Một nhóm được điều trị theo chương trình can thiệp mà chúng tôi phát triển, trong khi nhóm còn lại đóng vai trò là nhóm đối chứng, không có sự can thiệp của chương trình đó. Trong vòng bốn tháng sau đó, Deirdre và tôi đến thăm nhóm Trẻ học nói bốn lần, thảo luận với phụ huynh rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống của họ như âm thanh xung quanh các bé, tivi, lượng giao tiếp mà các bé nhận được hay cách thức trẻ được giao tiếp. Sau đó chúng tôi yêu cầu phụ huynh dành nửa tiếng mỗi ngày làm theo Chương trình Trẻ học nói.

Chúng tôi đã rất vui mừng khi kết quả thu được giống như các kết quả đã có với các bệnh nhi được chúng tôi điều trị tại các cơ sở y tế trước đó. Các bé thuộc Chương trình Trẻ học nói đã phát triển ngôn ngữ rất nhanh và chỉ chưa đến bốn tháng, tất cả các bé thực hiện chương trình này đều bắt kịp với các bé phát triển bình thường khác. Ngoài ra, chúng tôi cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi bố mẹ các bé chia sẻ sự mãn nguyện của họ khi cùng con tham gia chương trình.

NHỮNG TRẺ THUỘC CHƯƠNG TRÌNH TRẺ HỌC NÓI VÀO NĂM BA TUỔI

Một điều vô cùng quan trọng với nghiên cứu của chúng tôi là cần phải xác định liệu những tác động của Chương trình Trẻ học nói có bền vững hay không, vì thế chúng tôi đã tiếp tục theo dõi sự phát triển của cả hai nhóm cho đến khi trẻ được ba tuổi. Chúng tôi quyết định chọn độ tuổi này vì cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trẻ em chậm phát triển ngôn ngữ từ năm ba tuổi, rồi kéo dài trong nhiều năm, thậm chí đến khi trẻ đã trưởng thành. Tất cả các nghiên cứu cho thấy nhiều trẻ tiếp tục gặp vấn đề về ngôn ngữ và giao tiếp và một số lượng tương đối lớn các trẻ vì thế mà gặp khó khăn trong học tập1, 2, 3, 4, 5.

Khi nhìn vào những đứa trẻ ba tuổi này, chúng tôi đã rất ngạc nhiên trước kết quả thu được. 85% số trẻ thuộc nhóm không có sự can thiệp của Chương trình Trẻ học nói vẫn mắc chứng chậm phát triển ngôn ngữ, một số trường hợp ở mức độ nghiêm trọng. Trái lại, hầu hết tất cả các bé có sự can thiệp của Chương trình Trẻ học nói đã phát triển đến mức chuẩn bình thường, thậm chí nhiều bé ở thành phố còn phát triển năng lực ngôn ngữ trên mức ấy. (Chỉ có ba trẻ không đạt được mức tiêu chuẩn do phải trải qua những điều kiện khắc nghiệt trong cuộc sống). Một vài trẻ còn hiểu lời nói và có khả năng tạo nhóm câu ở mức độ thường chỉ thấy ở trẻ bốn tuổi rưỡi! Những trẻ này có thể hiểu những câu phức rất dài và tự diễn đạt điều muốn nói một cách trôi chảy đến bất ngờ. Ví dụ, một bé trai ba tuổi tên là John có thể dễ dàng làm theo các câu rất dài như “Hãy đi tìm những chiếc bút màu sáp dày và đưa cho Billy để phát cho các bạn gái”, câu này thông thường chỉ các bé bốn tuổi rưỡi mới có thể làm theo. John cũng không gặp khó khăn khi nói về sở thích chơi khủng long một cách chi tiết, sử dụng những từ khó như “tuyệt chủng”. Cũng ở giai đoạn này, khả năng chơi và kỹ năng giao tiếp của các bé xuất hiện những điểm khác biệt khá rõ rệt6.

Những kết quả này cho thấy việc thay đổi các yếu tố trong môi trường và cách thức trẻ em được giao tiếp có tác động quan trọng trong việc ngăn ngừa các vấn đề về ngôn ngữ và giúp những trẻ đang phát triển chậm bắt kịp với các bạn cùng lứa tuổi. Kết quả nghiên cứu thực sự đáng mừng cho nên chúng tôi quyết định nghiên cứu tiếp với hai nhóm trẻ này khi được bảy tuổi.

NHỮNG TRẺ THUỘC CHƯƠNG TRÌNH TRẺ HỌC NÓI VÀO NĂM BẢY TUỔI

Chúng tôi mời hai nhà tâm lý học cùng tham gia vào nghiên cứu, không tiết lộ cho họ những trẻ nào thuộc nhóm có sự can thiệp của Chương trình Trẻ học nói và đề nghị họ đánh giá hai nhóm trẻ này. Các nhà tâm lý đã sử dụng các bài kiểm tra chuẩn hóa toàn diện, bao gồm cả những bài kiểm tra trí thông minh phổ biến nhất tại Anh áp dụng cho trẻ em ở lứa tuổi này7, 8, 9.

Một lần nữa, kết quả của nghiên cứu đã làm chúng tôi thực sự ngạc nhiên. Chỉ bốn trẻ thuộc nhóm Trẻ học nói còn mắc chứng chậm phát triển ngôn ngữ, so với con số 20 của nhóm đối chứng. Thực tế cho thấy tính trung bình, khả năng hiểu các câu phức và sử dụng các cấu trúc câu của các bé thuộc nhóm Trẻ học nói vượt các bé thuộc nhóm đối chứng một khoảng thời gian là 15 tháng. Một số trẻ còn thể hiện khả năng tương đương với trình độ của trẻ mười tuổi rưỡi. Khả năng đọc của các trẻ thuộc nhóm Trẻ học nói tính trung bình cũng vượt 15 tháng so với các trẻ thuộc nhóm đối chứng.

Kết quả bài kiểm tra từ vựng vốn được coi là chỉ số tốt nhất để dự đoán trí thông minh cũng như vậy10. Những trẻ tiến bộ nhất đã có thể hiểu những từ như “thảm họa”, “trưng bày”, “phân đoạn” và “giáo huấn” vốn không hề dễ hiểu đối với trẻ dưới mười tuổi rưỡi.

Phát hiện thú vị nhất đối với chúng tôi là sự khác biệt rõ rệt về trí thông minh tổng quát giữa hai nhóm. Chỉ số IQ trung bình của nhóm Trẻ học nói thuộc tốp đầu trong tổng số trẻ tham gia nghiên cứu (gồm 3 tốp) và khoảng 1/3 đến 1/4 số trẻ này thuộc ngưỡng năng khiếu. Ngược lại, chỉ số IQ trung bình của nhóm đối chứng thuộc tốp dưới và chỉ có một trẻ duy nhất trong nhóm này thuộc ngưỡng năng khiếu.

Những điểm khác biệt này được thể hiện qua kết quả các bài thi SAT của chính phủ Anh dành cho tất cả trẻ em bảy tuổi và mười một tuổi. Theo đó, tất cả trẻ thuộc nhóm Trẻ học nói đều đạt mức tiêu chuẩn hoặc cao hơn, trong khi 1/3 số trẻ thuộc nhóm đối chứng không đạt được mức tiêu chuẩn.

Ngoài ra, giữa hai nhóm cũng có những điểm khác biệt đáng chú ý về mặt phát triển hành vi và cảm xúc, các kỹ năng xã hội và khả năng tập trung. Các nhà tâm lý thực hiện cuộc kiểm tra này có nhiều lời nhận xét tích cực đối với bài thi của nhóm Trẻ học nói như “tập trung cao độ”, “hành vi thân thiện và cởi mở” hay “bé rất thân thiện, tự nhiên thể hiện bản thân”. Ngược lại, phần thi của hơn 1/3 số trẻ thuộc nhóm đối chứng nhận được lời nhận xét tiêu cực, cho thấy các bé này rất dễ bị sao nhãng và cần nhiều quãng nghỉ mới có thể làm xong bài. Một số lời nhận xét đáng buồn nhất cho thấy một vài bé cảm thấy vô cùng căng thẳng và sợ thất bại trước việc đó, một việc có vẻ rất quen thuộc với các bé. Trong khi đó, hầu hết các bé thuộc nhóm Trẻ học nói đều thích thú với các bài kiểm tra này. Chúng tôi cảm thấy vui mừng khi nghe cha mẹ các bé tâm sự rằng “Bây giờ, con tôi đã tự tin nói chuyện”. Thậm chí, ngay cả một nhóm ghi hình cũng nhận xét tương tự như thế khi họ quay phim phỏng vấn bọn trẻ cho chương trình truyền hình về kết quả nghiên cứu này. Một cậu bé đã khiến người quay phim rất bất ngờ bởi cách cậu bé lôi cuốn họ vào cuộc trò chuyện sau khi được mẹ cho phép nói chuyện với đoàn ghi hình. Cậu bé ấy đã đặt những câu hỏi về thiết bị của họ, rồi so sánh thiết bị ghi hình với máy ảnh của bố mình. Quá ấn tượng với những gì được chứng kiến, nhóm ghi hình đã quyết định để cậu bé đưa ra những lời kết cuối chương trình!

Tóm lại, những phát hiện đã được kiểm định riêng rẽ này giúp chúng tôi nhận ra rằng chương trình này dù được phát triển để phòng tránh các vấn đề về ngôn ngữ ở trẻ nhưng cũng có thể thúc đẩy sự phát triển ngôn ngữ của tất cả các đối tượng trẻ em. Rõ ràng, phụ huynh có thể học cách áp dụng Chương trình Trẻ học nói từ khi trẻ mới chào đời để mọi đứa trẻ đều có cơ hội phát triển hết tiềm năng của mình.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã được đăng trên nhiều tạp chí khoa học, được trình bày tại các hội nghị trong nước và quốc tế. Đồng thời, rất nhiều người, cả các bác sĩ trị liệu ngôn ngữ và giao tiếp lẫn các chuyên gia khác, muốn học hỏi thêm về bài kiểm tra sàng lọc mà chúng tôi đã sử dụng và Chương trình Trẻ học nói. Mặc dù tôi đang tham gia dự án nghiên cứu chuyên sâu hơn về sự phát triển khả năng chú ý ở trẻ nhỏ, tôi hi vọng sẽ không bao giờ phải dừng công việc điều trị vì được làm việc với bọn trẻ và cha mẹ của các bé vẫn luôn là món quà quý giá nhất đối với tôi.

SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ

Mặc dù chúng ta đều biết rằng những trẻ không phát triển ngôn ngữ theo mức tiêu chuẩn của lứa tuổi tương ứng sẽ có nguy cơ gặp các vấn đề về cảm xúc, giao tiếp xã hội và học tập rất cao, nhưng chúng ta vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng về việc một đứa bé sơ sinh thực sự lĩnh hội ngôn ngữ chỉ trong vòng bốn năm đầu đời như thế nào.

Giả thuyết ra đời sớm nhất11 giải thích cho điều tuyệt vời này là trẻ tạo ra những âm thanh ngẫu nhiên và người lớn xung quanh “nhào nặn” những âm này bằng cách đáp lại những âm giống với từ nhất. Ví dụ, bé thường bập bẹ từ “mama” trong giai đoạn đầu, và mỗi khi bé làm như vậy thì người mẹ sẽ xuất hiện. Cuối cùng, bé sẽ gắn từ đó với người mẹ. Tuy nhiên, nhà ngôn ngữ học vĩ đại Chomsky đã phủ nhận quan điểm này vào những năm 1950 và 196012, 13. Theo Chomsky, trẻ sinh ra đã có một năng lực học ngôn ngữ bẩm sinh, và khi nghe thấy ngôn ngữ, trẻ sẽ tự động kích hoạt một “cơ quan tiếp nhận ngôn ngữ” để giúp trẻ hiểu được những gì nghe thấy và sau này là giúp trẻ tự kết nối các câu. Ông cho rằng lượng ngôn ngữ mà trẻ được nghe và cách thức người lớn nói chuyện với trẻ không quá quan trọng. Theo Chomsky, chúng ta khi sinh ra đã có sẵn trong mình vốn kiến thức về các nguyên tắc ngữ pháp, ví dụ danh từ và động từ trong tiếng Anh phải phù hợp với nhau về số (ít hay nhiều): Các câu “The boy jumps” (Cậu bé nhảy lên) và “The girls jump” (Các bạn gái nhảy lên) là đúng ngữ pháp, còn những câu “The boy jump” và “The girls jumps” là sai14. Giả thuyết này vẫn cho rằng sự phát triển ngôn ngữ chỉ có thể xảy ra nhờ vốn kiến thức bẩm sinh ấy, trong khi lượng ngôn ngữ và thể loại ngôn ngữ trẻ được tiếp xúc đóng vai trò mờ nhạt.

Một nhà ngôn ngữ học hàng đầu khác là Pinker cũng có quan điểm cho rằng trẻ em sinh ra đã có sẵn kiến thức về từ loại và vai trò của chúng trong câu15, điều này xảy ra ở mọi ngôn ngữ. Ví dụ, trẻ biết rằng bất kỳ cái gì gây ra hành động là chủ ngữ của câu. Khi thấy con mèo làm vỡ một bình hoa và nghe thấy người mẹ nói “Con mèo nghịch ngợm”, em bé sẽ ngay lập tức cho rằng con mèo là nguyên nhân của vấn đề và vì thế là chủ ngữ của câu.

Mặc dù vẫn chưa có sự đồng thuận hoàn toàn về kiến thức ngôn ngữ bẩm sinh này, nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đồng ý rằng phải có một lượng kiến thức bẩm sinh hoặc cơ chế bẩm sinh nào đó để giải thích cho tốc độ học ngôn ngữ đáng ngạc nhiên ở trẻ nhỏ.

Những cơ chế như vậy nhạy cảm với những tác động từ môi trường ở mức độ nào vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Như chúng ta đã biết, cả Chomsky và Pinker đều cho rằng tác động từ môi trường không thực sự quan trọng, nhưng nhiều nhà nghiên cứu khác16, 17, 18 lại nhấn mạnh tầm quan trọng của tương tác xã hội và tác động của yếu tố đầu vào đối với quá trình tiếp nhận ngôn ngữ. Họ cho rằng trẻ sẽ dần hình thành các kỹ năng ngôn ngữ ban đầu thông qua các hoạt động tương tác tích cực và có ý nghĩa với mọi người xung quanh. Cho dù đồng ý rằng chúng ta được lập trình sẵn để học ngôn ngữ theo một cách nào đó từ khi sinh ra, nhưng việc học lại phụ thuộc hoàn toàn vào sự tương tác giữa trẻ và môi trường xung quanh, trong đó loại ngôn ngữ mà một đứa trẻ được nghe có ảnh hưởng lớn đến mức độ mà đứa trẻ đó phát huy tiềm năng của bản thân.

Nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa yếu tố ngôn ngữ đầu vào từ người lớn và tốc độ, bản chất của sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ đã góp phần củng cố quan điểm này. Nhiều nghiên cứu trong số này được tiến hành bắt nguồn từ mối quan tâm xuất hiện vào những năm 1970 nhằm đáp lại quan điểm của Chomsky rằng chắc chắn phải tồn tại một cơ quan tiếp nhận ngôn ngữ thì trẻ mới hiểu được vì ngôn ngữ người lớn sử dụng với trẻ con vốn quá phức tạp, thiếu tính tổ chức và tính chuẩn mực. (Hình như Chomsky đã không tiếp xúc nhiều với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, bởi vì theo bản năng, hầu hết người lớn đều ý thức rằng họ không trò chuyện với trẻ nhỏ giống như cách họ nói chuyện với bạn bè!).

Mặc dù rõ ràng các mốc phát triển ngôn ngữ nhất định diễn ra tương đối độc lập với những tác động từ môi trường (trẻ em khiếm thính bắt đầu bập bẹ cùng thời điểm với trẻ không khiếm thính, và trẻ thiếu môi trường giao tiếp lẫn trẻ được tiếp xúc nhiều với người khác đều nói những từ đầu tiên ở độ tuổi giống nhau), nhưng gần như chắc chắn rằng các yếu tố tác động từ môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc định hình sự phát triển ngôn ngữ và khả năng tương tác xã hội của trẻ trong tương lai. Ví dụ, nhiều bằng chứng khoa học cho thấy lượng ngôn từ mà một đứa trẻ được nghe tỉ lệ thuận với sự phát triển của trẻ, nghĩa là trẻ càng được nói chuyện nhiều thì học ngôn ngữ càng nhanh19, 20. Nội dung giao tiếp cũng đã được chứng minh là có ảnh hưởng vô cùng lớn tới việc học ngôn ngữ21, 22. Nhiều dẫn chứng cho thấy trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có xu hướng thích những kiểu lời nói nhất định, rồi lắng nghe và học được nhiều hơn từ đó23. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng việc tiếp nhận những từ vựng và cấu trúc ngữ pháp cụ thể ở trẻ có liên quan đến ngôn ngữ đầu vào mà trẻ được tiếp xúc24.

Từ kinh nghiệm điều trị và nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng việc cha mẹ điều chỉnh lời nói của mình là yếu tố then chốt trong sự tiến bộ vượt bậc ở trẻ và vì thế là một phần vô cùng quan trọng của Chương trình Trẻ học nói.

Tóm lại, mặc dù rất có khả năng chúng ta có một cơ chế học ngôn ngữ bẩm sinh, nhưng nhiều bằng chứng khoa học cho thấy cách thức trẻ được giao tiếp có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ - bạn sẽ thấy rõ điều này khi trải nghiệm Chương trình Trẻ học nói. Vào những năm 1960, nhà sinh học Lenneberg đã tổng hợp lại vai trò trung gian này như sau: “Trẻ em được lập trình về mặt sinh học để phát triển ngôn ngữ tương tự như động vật được lập trình hành vi. Tuy nhiên, để thành công, cơ quan này cần phải đảm bảo đầy đủ tính năng và môi trường xung quanh cần cung cấp một lượng đầu vào phù hợp với chất lượng tốt”25. Thật thú vị, quá trình này thực ra cũng giống với các loài khác. Ví dụ, người ta tin rằng điệu hót cơ bản của loài chim mai hoa là bẩm sinh vì những con chim nuôi tách biệt đều có thể hót được, nhưng chim non cần phải được nghe những điệu hót mẫu từ chim trưởng thành để hót cho đúng bài đúng điệu26.

Kết quả của Chương trình Trẻ học nói ủng hộ quan điểm này. Tôi có thể giúp bạn hỗ trợ con mình cất lên bài hát hay nhất của bé!

TẠI SAO MỌI THỨ ĐI LỆCH HƯỚNG?

Ngôn ngữ là thứ phân biệt con người với phần còn lại của tạo hóa và chắc chắn nó đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển văn hóa xã hội của nhân loại. Tuy nhiên, mặc dù sở hữu khả năng phát ngôn tuyệt vời này, chúng ta vẫn thường gặp trở ngại lớn khi giao tiếp với nhau. Tôi đã từng rất thích thú khi được một người bạn làm bác sĩ thú y chia sẻ rằng trên thực tế, hầu hết những lần mọi người tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của cô không phải do chẩn đoán sai, mà là do thiếu giao tiếp. Hôm đó chúng tôi đã tiếp tục chia sẻ với nhau và đoán rằng có lẽ nhiều cuộc chiến tranh và xung đột nghiêm trọng đều bắt nguồn từ những hiểu lầm như vậy.

Vì thế, chắc chắn chẳng có nhiều chuyện quan trọng hơn việc đảm bảo những em bé của chúng ta lĩnh hội được những kỹ năng giao tiếp tốt nhất mà chúng ta có thể truyền lại. Tuy nhiên, chậm phát triển ngôn ngữ lại được xem là khiếm khuyết phổ biến nhất ở trẻ em27, với tỉ lệ ảnh hưởng được dự đoán lên đến 10% tổng số trẻ bảy tuổi hoặc là hơn thế, và tỉ lệ này tại các cộng đồng khó khăn trong thành phố thậm chí còn cao hơn nhiều28, 29, 30, 31.

Đến đây bạn có thể đang băn khoăn tại sao lại như vậy. Chậm phát triển ngôn ngữ hiển nhiên có liên hệ với chứng khó học, chứng tự kỷ và suy giảm thính lực. Nó cũng có thể bắt nguồn từ những vấn đề về phát triển thần kinh cụ thể như rối loạn ngôn ngữ đơn thuần, rối loạn phối hợp động tác và rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) mà chúng ta sẽ thảo luận trong Phụ lục 1 (xem trang 422). Những vấn đề trong việc tạo âm cũng có căn nguyên từ những tình trạng như hở hàm ếch và tổn thương dây thần kinh chi phối môi, lưỡi và vòm miệng.

Tuy nhiên, với nhiều trẻ hoàn toàn bình thường – chiếm phần lớn số trẻ gặp khó khăn trong việc phát triển ngôn ngữ, tôi và bác sĩ Deirdre luôn tin rằng tình trạng chậm phát triển ngôn ngữ xuất phát từ việc ngôn ngữ hướng đến một đứa trẻ không ăn khớp với mức độ sử dụng ngôn ngữ thực tế của trẻ hoặc phổ biến hơn là mức độ hiểu ngôn từ của trẻ. Người lớn luôn có xu hướng tự động điều chỉnh ngôn từ theo độ tuổi và tầm vóc của trẻ, và nếu một đứa trẻ chậm hơn so với nhóm tuổi, đặc biệt là trong khả năng hiểu, có thể là vì những lý do khác nhau, sự trật khớp ấy rất dễ xảy ra. Ví dụ, những giai đoạn mất thính lực tạm thời, có liên quan đến tình trạng viêm tai giữa xuất tiết vô cùng phổ biến ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, có thể dễ dàng khiến trẻ gặp khó khăn trong việc lắng nghe và không cố gắng lắng nghe nữa, từ đó ảnh hưởng đến khả năng hiểu của trẻ. Tình trạng ốm đau kéo dài ở trẻ hay người mẹ cũng có thể gây ra tình trạng chậm phát triển ngôn ngữ. Căng thẳng, áp lực và các yêu cầu của cuộc sống cũng có thể gây ra hậu quả tương tự, ví dụ chuyển nhà tới một nơi khác, tách khỏi sự hỗ trợ từ gia đình nội ngoại đôi bên.

Điều quan trọng nhất mà mọi người phải công nhận là chỉ trong những trường hợp hiếm hoi và bi kịch nhất khi cha mẹ ngược đãi hay thường xuyên bỏ bê con trẻ, cha mẹ mới bị quy trách nhiệm cho tình trạng chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ.

Tôi phải nhấn mạnh điều này bởi vì tôi đã nhìn thấy quá nhiều bậc phụ huynh tự dằn vặt bản thân về những điều mà tôi biết rõ hoàn toàn không phải lỗi của họ.

TRÍ THÔNG MINH CÓ PHẢI BẨM SINH?

Tương tự như việc có nhiều tranh luận về quá trình thụ đắc ngôn ngữ, từ thế kỷ 18 đến nay đã có nhiều tranh luận về câu hỏi phải chăng trí thông minh của con người chỉ đơn thuần là sản phẩm của gen di truyền hay còn bị tác động bởi những trải nghiệm sau khi chào đời. Các nhà khoa học giờ đây tin rằng trẻ em khi sinh ra không phải là một cỗ máy có hệ gen được lập trình sẵn và họ chuyển sang nghiên cứu cách thức các yếu tố di truyền và điều kiện môi trường sống tương tác với nhau. Chúng ta biết rằng ở tuần thứ 12 của thai kỳ, các nơ-ron thần kinh đã cho thấy những sóng hoạt động có tính tổ chức, và chính những sóng này sẽ làm thay đổi hình dạng của não bộ. Những quá trình định hình não bộ trước khi chào đời ấy cũng sẽ thúc đẩy việc học diễn ra với tốc độ rất nhanh sau này. Khi chào đời, não của trẻ đã có hầu hết tất cả các tế bào thần kinh cần có, nhưng tại thời điểm đó các liên kết não bộ vẫn chưa hình thành. Thông tin mà trẻ sơ sinh nhận được thông qua các giác quan sẽ kích thích hệ thần kinh hoạt động và vô số các kết nối được thiết lập chẳng bao lâu sau khi trẻ chào đời. (Một báo cáo gần đây đã tổng hợp những nghiên cứu về vấn đề này32).

Vì thế, những năm đầu đời, đặc biệt là ba năm đầu tiên, là giai đoạn mà tính mềm dẻo phát triển của não bộ diễn ra mạnh mẽ, khi đó quá trình hoàn thiện các liên kết thần kinh trong não bộ cần có sự kích thích phù hợp. Vì thế, sự kích thích này giữ vai trò quan trọng trong việc định hình sự phát triển của trẻ trong tương lai. Khi được hai tuổi, số lượng khớp nối thần kinh trong não trẻ sẽ tăng gấp đôi và mức năng lượng mà não trẻ sử dụng nhiều gấp đôi so với người lớn. Những kết nối được tạo ra trong thời điểm này nhưng không được sử dụng dần dần sẽ bị triệt tiêu sau năm 10 tuổi.

Đó là lý do vì sao nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thiếu kích thích có thể gây ra tác động xấu đến sự phát triển tương tự như khiếm khuyết giác quan. Ví dụ, tình trạng bi kịch của nhiều trẻ mồ côi ở Romania cho thấy việc thiếu các kích thích cần thiết gây ra những hậu quả không thể cứu vãn đối với trí thông minh của những trẻ này. Từ những năm đầu thế kỉ này, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những đứa trẻ ở các trung tâm bảo trợ trẻ em dù được chăm sóc tốt về mặt thể chất nhưng do nhận được rất ít sự tương tác từ người lớn nên ngay từ tháng thứ ba đã gặp phải vấn đề chậm phát triển không thể khắc phục được.

Nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra tác động to lớn của kích thích sớm lên sự phát triển trí tuệ của trẻ, tạo tiền đề cho sự ra đời của chương trình phát triển Headstart(*) ở Hoa Kỳ và các chương trình tương tự ở nước Anh, được thiết kế nhằm bù đắp cho những đứa trẻ thiếu hụt tiếp xúc văn hóa. Đây là những chương trình mầm non bắt đầu từ khi trẻ ba tuổi, đem đến cho trẻ cơ hội vui chơi và đầu vào ngôn ngữ đa dạng. Nhiều trẻ cho thấy những tiến bộ trí tuệ rõ rệt khi tham gia chương trình. Mặc dù vậy, điều đáng chú ý là hiện nay nhiều chuyên gia phụ trách những chương trình này thừa nhận rằng bắt đầu từ ba tuổi là quá muộn và ít hiệu quả.

Chú thích:

(*) Chương trình Headstart được khởi xướng lần đầu tiên vào năm 1965 ở Hoa Kỳ nhằm chuẩn bị sẵn sàng đi học cho trẻ em mới chào đời đến năm tuổi trong các gia đình có thu nhập thấp bằng cách hỗ trợ trẻ em phát triển toàn diện.

Tất nhiên, chúng ta cần phải thừa nhận rằng mỗi đứa trẻ sinh ra có năng lực trí tuệ bẩm sinh khác nhau, nghĩa là không phải ai cũng có thể trở thành thiên tài Einstein được! Tuy nhiên, khoa học đã chứng minh rằng chỉ số IQ không hề cố định hay vĩnh viễn và chúng ta có thể tạo ra những thay đổi lớn trong giai đoạn đầu đời thông qua các kích thích từ môi trường xung quanh. Có thể thay đổi quan trọng nhất lại nằm ở việc thúc đẩy sự phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ chính để tư duy, vì thế ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ rất chặt chẽ. Một lần nữa, các nhà tâm lý vẫn chưa đi đến được thống nhất tuyệt đối về bản chất và mức độ của mối quan hệ này, nhưng có một sự đồng thuận chắc chắn rằng đây là mối quan hệ rất chặt chẽ.

Hiện nay, rất nhiều nhà khoa học quan tâm đến sự tương đồng giữa hai phương diện này. Hầu hết các lý thuyết gia đều cho rằng sự phát triển ngôn ngữ và trí tuệ đều xảy ra khi trẻ khám phá đồ vật, hiện tượng và con người xung quanh, và rõ ràng hai lĩnh vực này phụ thuộc lẫn nhau. Ví dụ, trẻ cần phát triển trí tuệ đến những mức độ nhất định mới có thể lĩnh hội ngôn từ thành công. Trước khi gọi được tên đồ vật, trẻ cần có được khái niệm rằng đồ vật sẽ tiếp tục tồn tại ngay cả khi trẻ không nhìn thấy. Ngược lại, sự phát triển trí tuệ được ngôn ngữ hỗ trợ rất nhiều. Hãy tưởng tượng một em bé đang chơi ghép hình và cố gắng tìm hiểu xem các miếng ghép sẽ được đặt ở đâu. Khi người lớn nói những từ như “xoay miếng ghép” hay “nó quá nhỏ”, trẻ sẽ có thể áp dụng những gì học được sang tình huống khác. Việc hình thành khái niệm cũng được việc gọi tên hỗ trợ rất nhiều. Ví dụ, ban đầu em bé chỉ kết nối từ “mèo” với con mèo trong nhà, nhưng việc sử dụng từ mèo trong những tình huống khác sẽ nhanh chóng cho phép em bé khái quát khái niệm này với bất kỳ con mèo nào trong bất kỳ tình huống nào. Dần dần, trẻ có thể sử dụng ngôn ngữ để lên kế hoạch và thảo luận các hoạt động trước khi thực sự tiến hành. Ví dụ, chúng ta có thể nghe thấy trẻ bốn tuổi nói những điều như “Cậu chơi trước rồi đến lượt tớ” hay “Sau khi đi chơi công viên, con nghĩ con sẽ chơi với bạn chuột lang của con”.

Ngôn ngữ giúp chúng ta ghi nhớ, cung cấp và tiếp nhận thông tin. Khi trẻ được khoảng bốn tuổi rưỡi, ngôn ngữ sẽ được tiếp thu đầy đủ và có thể được sử dụng thay cho hành động, và giống như ở người lớn, ngôn ngữ trở thành con đường tắt nhanh chóng đưa trẻ đến với giải pháp để xử lý vấn đề. Ví dụ, trẻ có thể suy nghĩ cẩn thận cách giải trò xếp hình trước khi tiến hành chơi, suy nghĩ trong đầu cách thức sắp xếp và di chuyển các miếng ghép. Như thế ngôn ngữ trở thành chìa khóa để hiểu thế giới và tiếp tục giữ vai trò như vậy trong cuộc sống sau này.

PHƯƠNG PHÁP TRẺ HỌC NÓI

Mục đích của Chương trình Trẻ học nói là thiết lập nền tảng cho tất cả các hoạt động học tập sau này. Những nền tảng này không chỉ bao gồm khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ, mà còn bao gồm cả khả năng lắng nghe, chú ý và vui chơi. Nhiều người không để ý rằng những kỹ năng này phát triển theo các giai đoạn khác nhau, và càng ít người biết rằng chúng ta có thể làm nhiều điều để hỗ trợ trẻ trải qua các giai đoạn này một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.

Đối với sự phát triển của trẻ, phương pháp này luôn luôn phù hợp và không hề gây căng thẳng đối với phụ huynh và con cái. Mặc dù Chương trình Trẻ học nói được xây dựng dựa trên kinh nghiệm điều trị chuyên sâu, cơ sở lý luận ngôn ngữ học và các nghiên cứu mới nhất, nó cũng bắt nguồn từ sự tương tác tự nhiên. Chúng tôi không sáng tác ra một tình huống giảng dạy nào, nghĩa là chương trình hòa hợp với nhịp sống bình yên hằng ngày của con bạn.

Hiện nay, mọi người đang rất lo ngại về tình trạng số trẻ gặp vấn đề với năng lực đọc viết và số học ngày càng tăng. Tôi có trao đổi với một giáo viên tại một trường lớn và biết rằng cô giáo đã rất sốc khi hơn một nửa số học sinh 11 tuổi có năng lực đọc dưới mức tương ứng với lứa tuổi. Để xử lý vấn đề đáng lo ngại này, người ta tiến hành dạy cho trẻ các con số, màu sắc, hình khối và bảng chữ cái từ rất sớm. Tuy nhiên, hướng đi này thực sự đang gây ra rất nhiều tranh cãi và một số nhà giáo dục cho rằng đây là một sai lầm. Ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng cách làm này không chỉ khiến trẻ căng thẳng mà còn mang đến cho trẻ một vấn đề mà bản thân biện pháp này đang tìm cách ngăn chặn, thông qua việc gây ra sự lo lắng và ác cảm ở trẻ khi trẻ chưa sẵn sàng cho những việc học như vậy.

Tương tự, ở các trung tâm điều trị mà tôi làm việc, tôi đã gặp nhiều trẻ được người lớn “dạy” phát âm chuẩn quá sớm, chưa phù hợp với lứa tuổi của trẻ vì lúc đó trẻ không hiểu được phát âm chuẩn cần những yếu tố gì. Thay vào đó, trẻ chỉ nhận được thông điệp từ người lớn rằng cách trẻ đang cố gắng giao tiếp không thể chấp nhận được. Kết quả là các bé trở nên lo lắng, buồn bã và gần như biến thành những đứa trẻ “câm”.

Jasper chỉ mới ba tuổi rưỡi. Bé được đưa đến phòng khám của tôi vì mẹ của bé hết sức lo lắng và mong muốn bé được tiếp tục điều trị chuyên sâu để cải thiện âm lời nói của bé vốn đã kéo dài suốt một năm ở một cơ sở khác. Bé ngồi ghé mắt nhìn tôi và rõ ràng bé đã thầm quyết định nói chuyện không phải là việc của mình. Mẹ bé cho biết Jasper chỉ nói ở nhà, nhưng cả khi ở nhà cũng rất ít nói. Người mẹ hiểu rằng con mình ghét các buổi trị liệu ngôn ngữ và bản thân cậu bé cũng ý thức được mình đang gặp phải vấn đề về ngôn ngữ, nhưng cô vẫn tin rằng liệu pháp điều trị đang theo đuổi là cần thiết. Tôi đã giới thiệu cho cô ấy Chương trình Trẻ học nói, bảo cô ấy đưa con về nhà và quên liệu pháp đang theo đuổi đi. Vài tuần sau đó, mẹ Jasper gọi điện nói với tôi rằng các âm của cậu bé không chỉ rõ ràng hơn một cách đáng ngạc nhiên, mà quan trọng hơn nữa là cô đã tìm lại được cậu con trai sôi nổi và hòa đồng!

Phụ huynh tham gia Chương trình Trẻ học nói không cần phải cảm thấy lo lắng hay dằn vặt về việc mình đi làm hay phải dành thật nhiều thời gian với con mình để đảm bảo sự phát triển tối ưu của trẻ. Trong những giai đoạn phát triển đầu tiên rất nhạy cảm của trẻ, một chút kích thích “phù hợp tuyệt đối” sẽ có những tác động rất lớn. Ba mươi phút mỗi ngày là ổn, mặc dù có thể bạn nhận thấy một số hoạt động sẽ diễn ra một cách tự nhiên và dễ dàng trong những tình huống sinh hoạt hằng ngày khác.

Đừng dằn vặt nếu bạn vừa đi làm vừa nuôi con.

Bạn cũng sẽ nhận ra trọng tâm của Chương trình Trẻ học nói thay đổi đáng kể khi trẻ lớn lên, theo đó vai trò của bạn, của việc đọc sách và vui chơi sẽ thay đổi tương ứng với từng giai đoạn phát triển của trẻ. Tôi hi vọng bạn sẽ luôn nhớ rằng con bạn phát triển hoàn thiện hơn và đa dạng hơn nhờ những gì bạn đang làm và bạn luôn luôn biết chính xác làm như thế nào là tốt nhất cho con. Dù điểm xuất phát của bạn là gì, tôi hi vọng bạn và con sẽ có những thời khắc vui vẻ bên nhau khi thực hiện chương trình này.

MỘT LƯU Ý RẤT QUAN TRỌNG DÀNH CHO PHỤ HUYNH

Chúng tôi cũng miêu tả các giai đoạn phát triển bình thường của trẻ để bạn có thể theo dõi và tận hưởng quá trình phát triển của con mình, biết được chương trình này phù hợp với các mức độ nào mà bé đã đạt tới, chứ không phải để bạn “kiểm tra” con trẻ! Quá trình phát triển bình thường luôn có những thay đổi khác nhau không chỉ do môi trường mà còn vì gen di truyền và sự tác động qua lại giữa các mảng phát triển khác nhau. Ví dụ, những trẻ có khả năng vận động linh hoạt từ rất sớm rất có thể chậm học nói hơn và cũng có thể chậm hơn trong những hoạt động chơi nhất định. Con bạn cũng như mọi đứa trẻ khác đều có lộ trình phát triển độc đáo của riêng mình.

ĐỪNG NGHĨ ĐẾN CHUYỆN “KIỂM TRA” CON BẠN!

Giữa việc quan sát, ghi nhận và kiểm tra có sự khác biệt rõ rệt. Việc kiểm tra có thể khiến bạn mong muốn dạy con mình, đối lập hoàn toàn với việc tạo ra những điều kiện cho bé phát triển hết tiềm năng của mình.

Nguyên tắc chung trong bất kỳ mảng phát triển nào mà chúng ta đang thảo luận là hoàn toàn không cần phải lo lắng trừ khi bạn nhận ra con mình đang bị tụt lại phía sau:

✔ hơn hai tháng trong năm đầu tiên

✔ ba tháng trong năm thứ hai

✔ bốn tháng trong năm thứ ba

✔ sáu tháng trong năm thứ tư

Tôi sẽ cung cấp các thông tin chi tiết trong phần Lý do cần lo lắng trong mỗi chương. Tuy nhiên, nếu bạn thực sự lo lắng về bất kỳ mảng phát triển nào của con mình, hãy đưa trẻ đến khám và xin tư vấn từ các bác sĩ, bác sĩ chuyên khoa trị liệu ngôn ngữ hay các bác sĩ gia đình bởi vì bạn sẽ không thể nào tận hưởng trọn vẹn những giây phút bên cạnh con nếu trong bạn luôn thường trực nỗi lo về bé.

NỘI DUNG CUỐN SÁCH

Cuốn sách này được phân thành các phần dựa theo các nhóm tuổi, cụ thể là, bốn nhóm tuổi trong năm đầu tiên, ba nhóm tuổi trong năm thứ hai, hai nhóm tuổi trong năm thứ ba và một nhóm tuổi trong năm thứ tư. Con bạn sẽ được gọi chung là “trẻ” hoặc “bé” trong các chương.

Trong mỗi phần sẽ có những nội dung sau:

✔ Mô tả chi tiết về sự phát triển khả năng giao tiếp, lời nói và ngôn ngữ trong giai đoạn đó

✔ Các đặc điểm phát triển chung

✔ Sự phát triển khả năng lắng nghe và chú ý

✔ Hoạt động chơi trong từng giai đoạn cùng với các gợi ý chọn sách và đồ chơi phù hợp

Chương trình Trẻ học nói được mô tả cụ thể dành cho mỗi nhóm tuổi, bao gồm những nội dung sau:

✔ Cách thức tạo ra môi trường phù hợp nhất cho sự phát triển của trẻ

✔ Nói chuyện với con bạn ở mức độ nào và nói về cái gì

✔ Những điều nên làm ngoài nửa tiếng đều đặn mỗi ngày

Chương trình cũng được minh họa bằng những nghiên cứu trường hợp điển hình và các câu hỏi phụ huynh thường đặt ra sẽ được trả lời trong phần Phụ lục 2.

Bạn sẽ nhận thấy một vài chủ đề xuất hiện xuyên suốt trong chương trình, và một số hoạt động gợi ý sẽ xuất hiện trong vài giai đoạn, đôi khi sẽ có thay đổi một chút, hoặc là vì các lý do khác.

Bạn có thể bắt đầu cuốn sách này khi con bạn sắp hoặc đã qua thời kỳ sơ sinh. Nếu bé đã từng trải qua bất kỳ nguyên nhân nào khiến bé chậm phát triển ngôn ngữ như vấn đề với tai hay ốm đau kéo dài, có thể bạn sẽ nhận thấy mức độ phát triển ngôn ngữ của bé chậm hơn so với lứa tuổi. Nếu đúng như vậy, hãy đọc phần miêu tả về chương trình tương ứng với khả năng hiểu của bé và bắt đầu từ đó. Tôi hi vọng rằng bạn sẽ sớm thấy được sự tiến bộ của bé, nhưng đừng ngần ngại đến gặp các chuyên gia tư vấn nếu bạn thực sự lo lắng.

Nếu con bạn bị ảnh hưởng bởi bất cứ vấn đề nào có liên quan đến tình trạng chậm phát triển ngôn ngữ, như chứng khó học hay rối loạn phổ tự kỷ, tôi cho rằng có lẽ phần lớn các bạn đã được tư vấn điều trị chuyên khoa. Vì thế, tôi tin rằng Chương trình Trẻ học nói sẽ hỗ trợ các phương pháp trị liệu đang được áp dụng cho con bạn rất nhiều, vậy nên hãy trao đổi với bác sĩ của con về chương trình này. Trong khi chờ đợi việc điều trị, chương trình này sẽ mang đến nhiều lợi ích và chắc chắn không hề gây hại cho quá trình điều trị của con bạn.

Một người bạn của tôi có một bé trai tên là Bennie. Bé mắc hội chứng Down. Khi cậu bé được 4 tuổi, cô ấy hỏi tôi liệu chương trình này có ích với bé hay không. Tôi đã trả lời với sự chắc chắn rằng điều đó là hiển nhiên. Tôi đã giải thích với cô ấy rằng điều quan trọng nhất lúc này không phải là áp dụng phần chương trình tương ứng với tuổi thật của bé, mà hãy quan sát bé trong vài ngày để xem khả năng hiểu của bé đến đâu và bắt đầu từ đó. Mẹ cậu bé làm theo lời khuyên và nhận ra mức phù hợp nhất với con mình là ngưỡng hai tuổi, vì bé có thể hiểu một vài tên người và đồ vật, cùng với một vài cụm từ ngắn. Hai mẹ con bé Bennie đã có những giây phút tuyệt vời bên nhau, và bé Bennie đã có tiến bộ khá lớn trong khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ trong khoảng thời gian sáu tháng. Những vấn đề bẩm sinh có thể sẽ hạn chế cậu bé, khiến bé không thể tiếp tục tiến bộ ở tốc độ đó, nhưng người mẹ giờ đây tự tin rằng cậu bé có thể phát huy tối đa tiềm năng của mình.

KHẢ NĂNG LẮNG NGHE VÀ CHÚ Ý

Có lẽ bạn đang tự hỏi tại sao khả năng lắng nghe lại được đưa vào trong chương trình này. Chúng ta đang sống trong một xã hội ngày càng ồn ào, và người lớn thường không để ý đến năng lực hiện có là “sàng lọc” âm thanh xung quanh, tập trung vào điều mình muốn lắng nghe và duy trì sự tập trung đó trong khoảng thời gian mong muốn. (Hãy thử dừng lại một chút và lắng nghe mọi âm thanh mà bạn đã bỏ qua). Giống như khả năng kiểm soát và duy trì sự chú ý, khả năng này phát triển theo các giai đoạn và thực tế cho thấy ngày càng có nhiều trẻ không thể lĩnh hội kỹ năng này. Nhiều trẻ thậm chí còn gặp vấn đề lớn với khả năng lắng nghe cho dù có thính lực hoàn toàn bình thường. Vì thế, ngày càng có nhiều các chuyên gia điều trị và giáo viên cho rằng nguyên nhân cơ bản khiến trẻ gặp khó khăn trong học tập và phát triển ngôn ngữ là do trẻ không có khả năng lắng nghe. Tôi thực sự quan tâm đến điều này, đặc biệt là khi một người bạn của tôi có con trai 11 tuổi bắt đầu nhập học trường cấp 2 cho tôi biết trong bài diễn văn chào mừng, chính hiệu trưởng nhà trường nói với phụ huynh rằng ông chắc chắn mọi trẻ hiện nay đang có chung một vấn đề, đó là vấn đề với khả năng lắng nghe.

Trẻ cần người lớn giúp trẻ phát triển năng lực lắng nghe có chọn lọc từ rất nhiều âm thanh xung quanh và duy trì tập trung lắng nghe trọng bao lâu tùy ý. Chương trình này sẽ giải thích cách thực hiện điều đó.

Sự phát triển khả năng chú ý được đưa vào trong sách này với lý do tương tự. Nhiều người cho rằng trẻ em (và cả người lớn) tập trung chú ý hay không là do lựa chọn. Trên thực tế, khả năng tập trung chú ý và duy trì sự tập trung đó, cũng như khả năng chuyển đổi trọng tâm chú ý khi được yêu cầu, đặc biệt là trong môi trường có nhiều yếu tố gây sao nhãng, phát triển trong những giai đoạn cụ thể trong thời thơ ấu33.

Tuy nhiên, với rất nhiều trẻ em ở độ tuổi đi học, sự phát triển này vẫn chưa bắt đầu. Giáo viên phàn nàn ngày càng nhiều rằng những trẻ như vậy không thể duy trì sự tập trung ổn định với các hoạt động trong lớp, đặc biệt là trong môi trường náo nhiệt và ồn ào của lớp học.

Nếu đúng như vậy thì hiển nhiên việc học sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong các giai đoạn đầu của quá trình học ngôn ngữ, đặc biệt là giai đoạn bắt đầu kết nối từ với nghĩa của từ, một điều tối quan trọng là cả trẻ em và người lớn đều cần phải có khả năng chia sẻ trọng tâm chú ý. Hơn nữa, việc kiểm soát sự chú ý từ lâu đã được coi là yếu tố trung tâm trong việc thực hiện các hoạt động trí tuệ ở người trưởng thành. Minh chứng cho thấy khả năng hạn chế sự chú ý tới các kích thích gây nhiễu hoặc không phù hợp có mối quan hệ chặt chẽ với trí thông minh của người trưởng thành. Việc cố gắng “ép” trẻ tập trung chỉ khiến cho tình hình thêm tồi tệ. Thay vào đó, trẻ cần được hỗ trợ để có thể tiến bộ qua các giai đoạn bình thường.

Chương trình Trẻ học nói sẽ giúp bạn xác định con mình đang ở giai đoạn nào và làm thế nào để hỗ trợ bé phát triển qua giai đoạn tiếp theo.

HOẠT ĐỘNG CHƠI

Hoạt động chơi cũng có vị trí quan trọng trong chương trình này. Chúng ta vẫn thường nói vui chơi là “công việc của trẻ em”, vì đó là cách trẻ tìm hiểu về thế giới, phát triển các mối quan hệ xã hội và thể hiện bản thân. Sự phát triển ngôn ngữ và việc vui chơi có mối quan hệ chặt chẽ vì các trò chơi chính là phương tiện tuyệt vời nhất để người lớn mang ngôn ngữ đến với trẻ. Trẻ có thể khám phá đồ vật và các loại vật liệu, khám phá những ý tưởng mới trong khi người lớn cung cấp cho trẻ các từ vựng đi kèm với các hoạt động. Ví dụ, trò thả đồ vật từ một chiếc ghế cao sẽ vui hơn nhiều nếu mỗi lần như thế, người lớn nói “rơi mất rồi” và kèm theo đó một nụ cười!

Việc người lớn và trẻ chơi cùng nhau trong giai đoạn đầu đời có ý nghĩa rất quan trọng vì nó mang đến cho cả hai những trải nghiệm cùng nhau, tạo nền tảng cho những kỷ niệm chung trong tương lai, những điều sẽ trở thành những chủ đề quan trọng trong các cuộc trò chuyện sau này. Ở những giai đoạn sau, hoạt động chơi giả vờ chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ ngôn ngữ, việc nâng cao tính phức tạp và đa dạng của yếu tố này sẽ kéo theo sự phát triển tương tự của yếu tố kia. Càng chơi nhiều, ngôn ngữ sẽ cho phép trẻ nhập vai thực hiện càng nhiều các hoạt động thường ngày, từ đó giúp trẻ hiểu hơn về “cách thức thế giới vận hành”. Khi trẻ lớn hơn, ngôn ngữ có thể được sử dụng để giải quyết vấn đề và phát triển óc tưởng tượng sáng tạo.

Các hoạt động sáng tạo cũng là công cụ tuyệt vời để học ngôn ngữ, và đáp lại, ngôn ngữ sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động vui chơi. Ví dụ, khi chơi với nước, bạn có thể giới thiệu với trẻ nhiều từ hay như “tí tách”, “lộp độp” và “ào ào”!

Khả năng chơi của trẻ là một mảng phát triển diễn ra trong những giai đoạn cụ thể (tuy đôi chỗ có sự trùng lặp). Chương trình này sẽ giúp bạn xác định giai đoạn phát triển của con bạn và chỉ ra cách cung cấp đầu vào ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chơi, đồng thời giúp tạo ra nhiều hoạt động vui chơi đa dạng hơn, hứng thú hơn trong từng giai đoạn.

KẾT LUẬN

Cuốn sách này sẽ chỉ cho bạn cách phát huy tối đa tiềm năng của bé theo những cách thường rất đơn giản. Bạn không cần phải dành thật nhiều thời gian: Chỉ cần 30 phút mỗi ngày cũng có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Và trên hết, bạn sẽ nhận thấy rằng chương trình này không hề áp lực hay căng thẳng mà còn mang đến niềm vui cho bạn và con. Bạn sẽ cảm thấy mãn nguyện khi biết rằng mình đã giúp trẻ có được những điều có ý nghĩa lâu bền đối với cuộc đời trẻ, giúp trẻ phát triển thông qua việc tận dụng tối đa khoảng thời gian chơi cùng nhau này.

Kinh nghiệm nhiều năm làm việc trong lĩnh vực ngôn ngữ trẻ em cho phép tôi tin rằng không có món quà nào ở giai đoạn đầu đời tuyệt vời bằng năng lực giao tiếp mà bạn đã trao cho con mình. Cuốn sách này sẽ dạy bạn cách phát huy tối đa năng lực này của bé, trao cho bé những kỹ năng giao tiếp tốt nhất có thể.

Cuốn sách này không chỉ dành cho các bậc phụ huynh mà còn hướng đến ông bà và các thành viên khác trong đại gia đình. Nó cũng dành cho giáo viên mầm non, điều dưỡng viên mầm non và những người trông trẻ, và trên thực tế là bất kì ai quan tâm đến trẻ nhỏ.

Khi bạn làm theo chương trình này, tôi hi vọng bạn sẽ quan tâm đến ngôn ngữ của con trẻ và hơn hết, tôi hi vọng bạn và con sẽ có khoảng thời gian vui vẻ bên nhau, đồng thời vẫn giúp con phát huy tiềm năng tối đa của mình.

Sally Ward

Tháng 9 năm 1999