‘Muôn vật từ duyên sinh
Cũng từ duyên mà diệt
Bậc Giác Ngộ tối thượng
Đã từng thuyết như vậy’”.
1. India, before the time of the Buddha, was called Jambudīpa. It was divided into many kingdoms, large and small, some of which were ruled by kings and some of which were ruled jointly by several royal tribes.
Trước thời Đức Phật, Ấn Độ còn có tên gọi là Jambudīpa, được phân chia thành nhiều vương quốc lớn nhỏ khác nhau, một số do các vị vua cai trị và một số là do các vương hầu cai trị.
2. One of these many small kingdoms was called Kapilavatthu, which was located on the north bank of the Rapti River, on the rim of the Himalaya. The ruler of this kingdom was King Suddhodana of the Sākya Clan. His family name was Gautama, and his queen was called Māyā.
Đất nước Kapilavatthu là một trong những tiểu vương quốc thuộc Ấn Độ, nằm ở bờ phía Bắc sông Rapti, bao quanh dãy Himalaya. Người cai trị vương quốc này là vua Suddhodana, họ Gautama thuộc bộ tộc Sakya, hoàng hậu là Māyā.
3. After they were married, King Suddhodana and Queen Māyā lived very happily together. After many years the queen became pregnant. She asked the King to permit her to return to her home city of Devadarsita to give birth to their child. King Suddhodana readily consented and ordered the troop of royal attendants to prepare for the trip and to clean up and beautify the roads the queen would travel on.
Sau khi kết hôn, vua Suddhodana và hoàng hậu Māyā sống với nhau rất hạnh phúc. Nhiều năm trôi qua, hoàng hậu đã mang thai. Bà xin đức vua cho phép trở về quê ngoại ở Devadaha để hạ sinh. Đức vua chấp thuận nguyện vọng này của hoàng hậu và ra lệnh cho cận vệ hoàng gia chuẩn bị hộ tống cho chuyến đi. Những con đường mà hoàng hậu sẽ đi qua đều được quét dọn sạch sẽ và trang hoàng đẹp đẽ.
4. At the junction of Kapilavatthu and the city of Devadarsita was a place called Lumbini Park. Every summer, people of the two cities flocked to this park to rest or to play under the Sāla trees. They enjoyed the beautiful flowers blooming all over the tree-branches and the melodious twittering of birds and the humming of the ever-busy honeybees.
Tại giao lộ giữa Kapilavatthu và Devadarsita có một khu vườn tên là Lumbini. Mỗi khi hè về, nhân dân hai nước tập trung ở khu vườn này để nghỉ ngơi và vui chơi dưới tán cây Sāla. Họ thích thú với những bông hoa xinh đẹp nở rộ trên các cành cây, hòa cùng tiếng chim hót du dương và tiếng vo ve của những chú ong mật đang bận rộn.
5. The time Queen Māyā arrived at Lumbini Park was on the fifteenth of June, the fullmoon- day, on Friday (according to the reckoning of the Thai tradition). This date is now according to the solar calender the fullmoon-day of May of every year. As the time was going towards noon the weather was very hot, so she ordered the troops to stop so that she could rest for a while in the shade of the trees. But before long, while walking around under the Sāla trees enjoying the beautiful scenery, she felt her birth pangs and thereafter gave birth to a Prince amidst the songs of birds and humming of bees.
Thời gian hoàng hậu Māyā đến vườn Lumbini vào thứ 6 ngày trăng tròn tháng 6 (theo phỏng đoán của truyền thống Thái Lan). Ngày này theo lịch hiện nay nhằm ngày trăng tròn tháng 5 mỗi năm. Gặp đúng vào lúc giữa trưa thời tiết rất nóng, bà ra lệnh cho đoàn tùy tùng dừng lại nghỉ ngơi dưới những gốc cây. Nhưng chẳng bao lâu, trong khi dạo chơi dưới những tán cây Sāla để thưởng ngoạn phong cảnh, bà trở dạ và sau đó hạ sinh Thái tử trong tiếng chim hót và tiếng ong vo ve.
6. Queen Māyā gave birth to the Prince in the Lumbini Park and the palace maids in her attendance were very busy in looking carefully after the queen and the Prince. The palace maids also requested the queen and the Prince to return to Kapilavatthu. King Suddhodana was very happy at the sight of the newborn Prince. He ordered additional care for the queen and the Prince.
Hoàng hậu Māyā hạ sinh Thái tử ở vườn Lumbini, các cung nữ đều tất bật chăm sóc chu đáo và hộ tống họ trở về hoàng cung ngay sau đó. Đức vua Suddhodana rất hạnh phúc khi nhìn thấy đứa con trai bé bỏng của mình chào đời, ngài ra lệnh thêm nhiều thị nữ hầu cận chăm sóc chu đáo cho hoàng hậu và Thái tử.
7. On the mountains outside Kapilavatthu, lived many hermit sages. Among them was Āsita, an old sage who commanded great respect from the people and King Suddhodana. When Āsita learned that the King was the proud father of a new Prince, he rushed to the palace at Kapilavatthu in order to read the physiognomy of the Prince.
Trong số những vị ẩn sĩ sống trên những ngọn núi bên ngoài Kapilavatthu có ông Āsita, là một nhà hiền triết trưởng thượng, tinh thông, được người dân và đức vua tôn kính. Hay tin Thái tử vừa chào đời, đức vua đã được làm cha, ngài Āsita đã nhanh chóng đến cung điện ở Kapilavatthu để xem tướng cho Thái tử.
8. When the old sage arrived at the palace, King Suddhodana, to show reverence to Āsita and expecting blessing from him, ordered that the Prince be brought out. Āsita looked attentively and discovered that the Prince, indeed, had a look of great virtue in his countenance. He was very excited, and a smile of joy appeared on his face; but almost as quickly a tear dropped from his eyes.
Khi nhà hiền triết trưởng thượng đến cung điện, đức vua bày tỏ sự tôn kính với Āsita, rồi ra lệnh đưa Thái tử ra đỉnh lễ và xin tiên nhân ban phúc lành. Āsita chăm chú quan sát và nhận thấy Thái tử có đầy đủ những đức tướng phi phàm của một bậc vĩ nhân, ông vui mừng nở một nụ cười hoan hỷ, nhưng liền sau đó lại rơi nước mắt.
9. King Suddhodana was puzzled. He asked Āsita why he wept. Āsita replied: “The Prince has the look of the Great Man. Someday he will attain enlightenment, perfected in both wisdom and virtue, and become the Teacher and Master of men and devas. I wept because of my age. By the time the Prince attains enlightenment and becomes the savior of the world, I shall not be around”. After saying this, he knelt down to pay worship to the Prince. Unconsciously, King Suddhodana followed him, also kneeling down to the Prince.
Đức vua bối rối, hỏi tại sao tiên nhân Āsita lại khóc. Āsita trả lời:“Thái tử đầy đủ tướng đại trượng phu, một ngày nào đó, Thái tử sẽ đạt được giác ngộ viên mãn về trí tuệ và phạm hạnh, trở thành bậc thầy của loài người và chư thiên. Tôi khóc vì tuổi mình đã cao, đợi đến khi Thái tử đạt được giác ngộ và trở thành vị Phật, tôi sẽ không còn có mặt trên đời này nữa”. Sau khi nói xong, ông quỳ xuống đỉnh lễ Thái tử, đức vua cũng vô thức đỉnh lễ theo.
10. Five days after the Prince's birth, King Suddhodana gathered many scholars in the palace hall in order to decide on the name of the Prince. After conferring with each other, the scholars selected “Siddhattha”, which means “Realization of all aims”, as the new Prince's name.
Năm ngày sau khi Thái tử chào đời, đức vua đã mời nhiều nhà thông thái vào cung để bàn luận và làm lễ đặt tên cho Thái tử. Sau khi thống nhất, họ đã quyết định chọn tên “Siddhattha” có nghĩa là “thành tựu tất cả những điều mong muốn” để đặt tên cho Thái tử.
11. During the day of the naming ceremony, the scholars had a chance to view closely the virtuous look on the Prince's face. They unanimously predicted: “If the Prince succeeds his father and becomes king, he will become a Chakravarti; but if, instead, he leaves home to pursue spiritual wisdom, he will become a Buddha”. But one young scholar, named Kau inya, firmly testified: “When Prince Siddhattha grows up, he will abandon the throne in pursuit of supreme wisdom, and he will attain perfect enlightenment and become the first supreme teacher of the world”.
Trong suốt thời gian làm lễ đặt tên, các nhà thông thái đã có cơ hội chiêm ngưỡng đức tướng trên khuôn mặt Thái tử. Họ đều tiên đoán rằng: “Nếu như Thái tử nối nghiệp vua cha, thì sẽ trở thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng nếu xuất gia tu đạo thì sẽ trở thành bậc có đầy đủ trí tuệ, là một vị Phật Chính Đẳng Giác”. Nhưng trong đó có một nhà thông thái trẻ tên là Kau inya đã kiên quyết rằng: “Khi Thái tử Siddhattha trưởng thành, Ngài nhất định sẽ từ bỏ ngai vàng để xuất gia, tìm cầu tuệ giác, chứng đắc đại giác, trở thành bậc thầy tối thượng đầu tiên của thế gian”.
12. The people and scholars of the country all wished for the Prince to become a Chakravarti when he grew up. King Suddhodana wished for this too. He certainly did not want his son to leave home and become a teacher, for he expected the Prince, when the time came, to have a family like other human beings, raise children, and succeed him in ruling the country.
Tất cả thần dân và các nhà thông thái đều hy vọng Thái tử sau khi trưởng thành sẽ trở thành bậc Chuyển Luân Thánh Vương. Đối với đức vua thì lại càng hy vọng hơn nữa, ông hoàn toàn không muốn con trai mình xuất gia tu đạo làm thầy của thế nhân, chỉ mong sao Thái tử sẽ như những người bình thường khác, lấy vợ sinh con và kế nghiệp vương vị.
13. Two days after the Prince was named, Queen Māyā died of some illness. Everybody was grief-stricken at this turn of events, but the saddest person was, of course, her husband King Suddhodana, for Queen Māyā was a woman of the highest caste and also the most virtuous of the ladies of the court.
Hai ngày sau khi làm lễ đặt tên cho Thái tử, hoàng hậu Māyā lâm bệnh nặng và qua đời. Mọi người vô cùng đau xót trước sự ra đi của bà nhưng người đau buồn nhất chính là đức vua Suddhodana, bởi hoàng hậu là người phụ nữ thuộc dòng dõi cao quý và đức hạnh nhất trong số những phi tần của vua.
14. After Queen Māyā passed away, King Suddhodana entrusted another concubine with the task of taking care of the baby Prince, Mahāprajāpatī, Prince Siddhattha's aunt. She took care of the Prince and brought him up with as much devotion as she would have shown to her own son. Thus Prince Siddhattha never really knew his own mother.
Sau khi hoàng hậu Māyā qua đời, quốc vương Suddhodana đã nạp dì của Thái tử là Mahāprajāpatī làm phi tần để tiện chăm sóc nuôi nấng Ngài. Bà tận tâm chăm lo cho Thái tử như nuôi dưỡng chính con trai của mình. Vì thế, Thái tử đã xem bà như mẹ ruột của mình.
15. Under the careful of his aunt Mahāprajāpatī, the Prince gradually grew up. He was very handsome and healthy, a perfect darling to everyone. When he was eight years old, the King began to invite all kinds of masters to the palace to educate him in the skills of reading, composition, mathematics, archery and other arts.
Nhờ được di mẫu Mahāprajāpatī chăm sóc tận tình, Thái tử lớn lên theo năm tháng, trở thành một chàng trai có tướng mạo phi phàm, thân thể cường tráng và là một người đức trí vẹn toàn được mọi người yêu mến. Khi Thái tử lên tám tuổi, vua đã cho mời những vị thầy tài giỏi vào cung để dạy Ngài về những kỹ năng đọc, sáng tác, toán học, bắn cung và các môn nghệ thuật khác.
16. Since every one of his teachers was an expert in his field, Prince Siddhattha completed allhis studies with ease and thoroughness. When speed of progress and level of accomplishment were considered, his superiority over all the other princes was apparent. People, including his teachers, father, and aunt, were really surprised to see that Prince Siddhattha really had no difficulty at all in learning anything. Once any skill or knowledge was demonstrated or expounded, he immediately understood, remembered, and never forgot it.
Bởi các vị thầy hướng dẫn đều là chuyên gia trong lĩnh vực của mình nên Thái tử hoàn toàn lĩnh hội tất cả những kiến thức một cách dễ dàng và tường tận. So với các hoàng tử đồng học khác, Thái tử Siddhattha đã thể hiện sự vượt trội về tốc độ và thành tựu một cách hoàn hảo. Vì vậy mọi người, bao gồm cả các vị thầy, vua cha và di mẫu hết sức kinh ngạc và thán phục khi thấy Thái tử không gặp bất cứ khó khăn gì trong việc học tập. Đối với bất kỳ kỹ năng hay kiến thức nào, chỉ cần được hướng dẫn một lần, Thái tử đều tiếp thu một cách nhanh nhạy và nhớ mãi không quên.
17. Even though Prince Siddhattha was such a clever pupil and, at the same time the crown Prince, the heir to the throne, he never neglected to treat his teachers with manners and all respect. For the Prince believed that only through the instruction from teachers could men acquire knowledge of very great value. Besides, the nature of the Prince was such that he treated everyone with equal geniality and politeness.
Là một học trò thông minh và là vị Thái tử thừa kế ngai vàng, nhưng Siddhattha không bao giờ lơ là xao nhãng việc hiếu kính với các vị thầy của mình, chàng luôn một lòng cung kính và cư xử đúng mực. Vì Thái tử tin rằng phải có sự hướng dẫn của thầy giáo thì mới có thể lĩnh hội những kiến thức có giá trị cao nhất. Bên cạnh đó, bản tính của Thái tử là luôn đối xử với mọi người một cách bình đẳng và lễ phép.
18. Prince Siddhattha's accomplishment in physical skill was no less than his virtue in conduct and deportment. Besides being genial and polite, the Prince was also very courageous. He never feared or hesitated when competing with other boys in various skills. During that time, all males of the royal tribe were educated to become gallant knights. The Prince, since his early youth, had been trained to be a kind and brave knight, and he was also able to drive a chariot very skillfully.
Những kỹ năng võ nghệ của Thái tử không hề thua kém so với sự hoàn hảo của Ngài trong lĩnh vực học thuật và phẩm hạnh. Ngoài đức tính rộng lượng và tử tế, Thái tử còn rất can đảm, chàng không bao giờ sợ hãi hay do dự mỗi khi so tài với các hoàng tử khác. Trong khoảng thời gian đó, các vương tử trong hoàng tộc đều được đào luyện để trở thành những chiến binh dũng mãnh. Ngay từ khi còn nhỏ, Thái tử Siddhattha đã được đào tạo đặc biệt để trở thành một chiến binh nhân từ, dũng mãnh và kỹ năng cưỡi ngựa cũng hết sức thành thạo.
19. There was a chariot race, which the Prince had won against the toughest rival in the country. Although a competition of this sort required that the participants struggle very hard for victory, yet the Prince treated his horse gently. The horse, in return, also exerted its full strength and with all its mighty helped the Prince to become the victor. For the horse, too, felt that the Prince should be only a winner, not a loser.
Trong một cuộc đua ngựa, Thái tử đã chiến thắng những đối thủ mạnh nhất trong nước. Mặc dù một cuộc thi đấu như thế này đòi hỏi những người tham gia phải cố gắng hết sức mới có thể giành được chiến thắng, nhưng không vì thế mà Thái tử đối xử mạnh bạo với con ngựa của mình. Chính vì vậy mà nó cũng cố gắng phát huy hết sức mạnh để giúp Thái tử về đích đầu tiên. Đến cả con ngựa cũng cảm thấy rằng Thái tử nên trở thành người chiến thắng chứ không phải là người thua cuộc.
20. The Prince was gentle not only to his own horse, but he was kind also to all other animals. Being a crown Prince, Siddhattha had never encountered suffering and misery in his life. But his sympathetic nature made him aware that all creatures, whether people or animals, equally desire happiness and detest suffering and pain.
Không chỉ cư xử tốt với con ngựa của mình mà Thái tử còn yêu thương tất cả các loài động vật khác. Là một vị Thái tử, Siddhattha chưa từng phải trải qua những sự đau khổ hay điều bất hạnh trong cuộc sống. Nhưng chính lòng nhân ái hiện hữu trong Thái tử đã khiến chàng nhận thức được rằng tất cả muôn loài, dù đó là con người hay động vật, thì tất cả đều mong muốn hạnh phúc, bình đẳng và chán ghét sự thống khổ.
21. At the age of eight, the Prince began to show, in his conduct, a particularly merciful nature. In any place and on whatever occasion, he avoided doing anything harmful to any creature; on the contrary, he tried to succor any suffering creature. For example, one day the Prince saw one of his attendants beating a snake with a rod. He immediately stopped the attendant, exhorting him not to beat it.
Khi lên tám tuổi, phẩm hạnh cao quý của Thái tử dần dần thể hiện rõ qua cách ứng xử. Ở bất kỳ nơi đâu hay gặp bất cứ hoàn cảnh nào, Thái tử đều cố gắng giúp đỡ tất cả loài sinh vật bị tổn thương và tránh làm tổn hại đến chúng. Ví như vào một ngày nọ, Thái tử nhìn thấy người hầu cận của mình dùng gậy đánh một con rắn. Ngay lập tức, chàng nhanh chóng ngăn lại và khuyên nhủ anh ta đừng có làm hại con rắn.
22. One day, Prince Siddhattha was playing with his companions in the palace garden. Many of his young companions were also playing there. Among them was prince Devadatta, a cousin of Prince Siddhattha, whose personal character was entirely different from the Prince's.
Một hôm, Thái tử Siddhattha đang chơi cùng chúng bạn đồng trang lứa tại ngự hoa viên. Trong số những người bạn đó có vương tử Devadatta, em họ của Thái tử Siddhattha, là người có tính cách hoàn toàn trái ngược với Ngài.
23. Prince Siddhattha was genial and polite, and his heart was full of mercy and benevolence. He never oppressed others, but often helped the oppressed. prince Devadatta was cruel and jealous and fond of killing. This day Devadatta was carrying his bow and arrows, shooting the flying swans for fun. One swan was shot in the wing and fell to the ground. It was badly wounded and appeared to be in much pain.
Thái tử Siddhattha là người tốt bụng, tử tế, trái tim của chàng luôn tràn đầy lòng khoan dung và nhân từ. Chàng không bao giờ đàn áp người khác mà thường giúp đỡ những người bị áp bức. Trái lại, tính tình của vương tử Devadatta thì độc ác, ghen tị và thích sự giết chóc. Vào một ngày kia, Devadatta mang theo cung tên để bắn hạ những con thiên nga đang bay lượn trên bầu trời nhằm thỏa mãn thú vui của mình. Thật không may, một con thiên nga bị trúng phải mũi tên vào cánh, nó lảo đảo rồi rơi xuống, nằm co quắp trên đất đau đớn vô cùng.
24. Siddhattha quickly ran up to the swan, which he picked up; removing the arrow from its wing, he wrapped the wound with cool leaves to stop the blood and softly patted its body. Devadatta angrily stepped over to him, intending to snatch the swan, at the same time yelling at Siddhattha, demanding that he return the bird to him.
Siddhattha vội vàng chạy đến bên con thiên nga, nhẹ nhàng nâng nó lên, cẩn thận gỡ mũi tên ra khỏi cánh, sau đó dùng những chiếc lá mát đắp lên vết thương để cầm máu và vuốt ve con vật tội nghiệp. Thấy vậy, Devadatta tức giận bước đến muốn giành lấy con thiên nga, đồng thời chửi mắng Siddhattha và yêu cầu chàng trả lại con chim cho mình.
25. Under no conditions would Prince Siddhattha return the wounded bird to him. He said: “If the bird had died, it would probably belong to the shooter; but as long as it is still alive, it naturally belongs to the saver”. But prince Devadatta insisted: “I shot the bird down, so it belongs to me!” Finally Prince Siddhattha suggested: “Let the scholars of the country settle this argument at a conference”. Prince Devadatta agreed to this.
Thái tử Siddhattha sẽ không trả lại con chim cho vương tử với bất kỳ điều kiện nào. Chàng nói: “Nếu như con chim chết rồi, Ta sẽ trao nó cho người đi săn. Còn nếu như vẫn còn sống, thì đương nhiên nó phải thuộc về người đã cứu sống nó”. Nhưng vương tử Devadatta kiên quyết: “Ta đã bắn rơi con chim đó, thì nó nhất định phải thuộc về ta!” Cuối cùng, Thái tử đề nghị: “Hãy mở một hội nghị mời các nhà thông thái trong nước đến để giải quyết cuộc tranh luận này”. Vương tử Devadatta ngay lập tức đồng ý.
26. On the day when the scholars were to gather and confer on various matters, there was plenty of dispute about the problem of the swan. They all had different opinions. Some said the bird should belong to Prince Siddhattha because he had saved its life. Some, on the contrary, believed that prince Devadatta should have the bird because he had brought it down. Everyone seemed to have his own reason for choosing one point of view or another.
Vào ngày diễn ra thảo luận, các nhà thông thái đã đến đông đủ và cùng nhau hội ý xoay quanh vấn đề con chim thiên nga. Tất cả trong số họ đều có ý kiến riêng của mình. Một vài vị tin rằng con chim thuộc về Thái tử Siddhattha bởi vì chính Ngài đã cứu mạng cũng như mang lại sự sống cho nó. Trái lại, một vài người nói vương tử Devadatta nên có được con chim bởi vì chính vương tử đã bắn nó rơi xuống. Mọi người dường như đều có lý do riêng của mình để đưa ra những quan điểm khác nhau.
27. Finally, a young scholar stood up, loudly proclaiming, “All living creatures belong to those who save or guard their lives, not to those who damage their lives. In fact, this wounded bird shall belong to its saviour, that is, to Prince Siddhattha”.
Cuối cùng, một nhà thông thái trẻ đứng dậy, dõng dạc tuyên bố: “Tất cả những sinh vật tồn tại trên thế gian này đều sẽ thuộc về những người nuôi dưỡng và bảo vệ chúng, chứ không thuộc về những ai tàn hoại, hủy diệt chúng. Thực ra, con chim bị thương sẽ thuộc về người mang lại sự sống cho nó, và không ai khác, đó chính là vị Thái tử nhân từ - Siddhattha”.
28. The conferring scholars all accepted the statement made by their young colleague, unanimously deciding that the bird belonged to Prince Siddhattha, for he was the one who had saved its life. So Prince Siddhattha carefully nursed the swan until its wound had completely healed. Then he set the bird free to fly back to the forest to live a free and pleasant life among its own kind. From that day, prince Devadatta began to hate Prince Siddhattha and intended secretly to plot against him.
Nhà thông thái trẻ bày tỏ quan điểm xong, thì tất cả mọi người trong hội nghị đều nhất trí tán thành rằng con chim sẽ thuộc về Thái tử Siddhattha vì Ngài đã cứu mạng nó. Do đó, Thái tử cẩn thận chăm sóc con thiên nga cho đến khi vết thương của nó hoàn toàn hồi phục. Sau đó, chàng thả con chim tự do bay lượn trên bầu trời, trở về với núi rừng để có thể sống cuộc đời tự tại và thoải mái với đồng loại của nó. Kể từ ngày đó, vương tử Devadatta bắt đầu sinh lòng thù ghét Thái tử Siddhattha và nuôi dưỡng ý định mưu hại chàng.
29. Every one of these Indian people knew that everything they needed came from the soil, and, therefore, they considered the tilling of the soil and the producing of food as their most important work, labor which would benefit the country as well as themselves. Hence, a yearly practice was observed in which the king and his ministers all went to the fields in person to take part in a tilling and plowing ceremony at seedsowing time in order to set an example for the people, showing them that plowing the soil and growing crops was not demeaning work, but, was on the contrary, a very glorious work that one could do.
Mỗi người dân Ấn Độ ý thức được rằng, mọi thứ họ cần đều đến từ đất. Do đó, công việc quan trọng nhất của họ chính là chú trọng đến việc làm đất, sản xuất thực phẩm và họ luôn duy trì nhận thức rằng lao động mang lại lợi ích cho đất nước cũng như chính bản thân họ. Đây được xem là nguồn gốc ra đời lễ hội Hạ Điền được tổ chức hàng năm, tức là đức vua và các quan đại thần đều đích thân đi đến những thửa ruộng, làm công việc cày ruộng vào thời điểm gieo hạt giống như một người nông dân để làm gương cho dân chúng. Truyền thống này nhằm chỉ cho họ thấy rằng làm đất và gieo trồng không phải là những việc làm tầm thường mà trái lại, đó là một công việc hết sức vinh quang mà ai cũng có thể làm được.
30. In Kapilavatthu, the end of summer marked the season for the farmers to start tilling. King Suddhodana and his officials customarily led the Royal Tiller Festival outside the city. Every year this was a big ceremony. The people of the city all came out to see the King plowing the land and to enjoy the very colorful feast. On this day also, Prince Siddhattha accompanied King Suddhodana to the ceremony.
Tại thành Kapilavatthu vào cuối hè, để đánh dấu vụ mùa khi người nông dân chuẩn bị bắt tay vào trồng trọt, theo thường lệ sẽ có đức vua Suddhodana và các quan đại thần rời khỏi cung điện để tham gia vào lễ Hạ Điền bên ngoài thành phố. Đây là một lễ hội lớn hàng năm, mọi người trong thành sẽ nô nức kéo tới xem đức vua cày xới đất và thưởng thức bữa tiệc đầy sắc màu. Hôm đó, Thái tử Siddhattha cũng có mặt trong đoàn tháp tùng cùng với vua cha tham gia lễ hội.
31. The King began the ceremony in the field. He raised a gold, beautifully decorated plow and began to plow the land. A group of officials followed him, plowing the land with silver- decorated plows. Finally, there came the farmers, two in a row, using their own plows. The stiff brown mud was loosened and was then ready for seeding.
Đức vua bắt đầu buổi lễ trên cánh đồng, ông cầm chiếc cày bằng vàng được trang trí thật đẹp và bắt đầu xới luống đất đầu tiên. Một số quan đại thần theo sau, xới những luống tiếp theo với những chiếc cày được trang trí bằng bạc. Cuối cùng là đến những người nông dân sử dụng những cái cày sắt của họ, hai người một hàng. Lớp bùn cứng màu nâu đã được xới lên và sẵn sàng cho việc gieo hạt.
32. At lunchtime, the attendants of Prince Siddhattha all went to enjoy the feast, leaving the Prince alone. So Prince Siddhattha walked by himself to the shade of a thriving Jambu tree, sat down, quietly calmed his mind by expelling all its wrong thoughts, and began to contemplate: “The King, the officials, and the farmers are here to hold the Royal Tiller ceremony, and now they are happily feasting”.
Vào giờ ăn trưa, những người hầu của Thái tử đều vui vẻ cùng nhau đi thưởng thức bữa tiệc. Khi chỉ còn lại một mình, Thái tử tự mình đi bộ đến dưới bóng cây Jambu to lớn râm mát, chàng ngồi xuống, lắng dịu những tạp niệm đang hiện hữu trong tâm và bắt đầu suy ngẫm: “Vua cha, các quan đại thần cùng với những người nông dân đều tham gia lễ Hạ Điền và bây giờ họ đang tiệc tùng vui vẻ”.
33. But those oxen did not seem to be happy at all. They had to exert a force greater than their physical strengthto pull the plows and to break the hard earth. They toiled so much that they could not stop panting. Obviously they were not happy. While the people here were enjoying themselves today, they all had to do hard work. And if, occasionally, they were to do something not quite up to their master's expectations, harsh threats and merciless whips would fall on them.
Nhưng những con bò dường như không hạnh phúc chút nào. Nó phải dồn hết sức lực của mình để kéo những cái cày nặng trịch và phá vỡ những mảng đất khô cứng. Trong khi mọi người đang vui vẻ yến tiệc thì đàn bò phải làm việc cật lực đến nỗi không có thời gian nghỉ thở. Có thể thấy, chúng không hề vui sướng chút nào. Đôi khi vì làm việc chưa đúng ý chủ, chúng sẽ phải chịu đựng lời đe dọa cọc cằn và những trận đòn roi tàn nhẫn.
34. The Prince also noticed the activities of various other creatures around him. He saw a lizard, which was crawling out from a crevice in the earth, catching and eating working ants with its tongue. Shortly afterwards, a snake approached, killed the lizard by biting through its head, and swallowed it. Just at this moment, the Prince was astonished to see a hawk suddenly descend from the sky, seize the snake, tear it apart and eat it.
Thái tử cũng quan sát những hoạt động của các loài sinh vật khác xung quanh. Chàng nhìn thấy một con tắc kè đang bò ra từ những kẽ hở trên mặt đất, nó đang dùng lưỡi bắt ăn những con kiến bò quanh đấy. Ngay sau đó, một con rắn tiến lại gần cắn vào đầu con tắc kè rồi nuốt chửng. Đúng vào lúc này, Thái tử vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy một con diều hâu từ trên bầu trời lao xuống quắp lấy con rắn, xé xác và ăn thịt.
35. Siddhattha again went into deeper thought and began to question himself thus: “If things are like that, then is it not the case that, that which is said to be beautiful in life, will also certainly hide ugliness behind its back? At last the Prince came to realize that although he was very happy now there was however a kind of most great suffering, that was always covering mankind and all beings. At the time Prince Siddhattha was still young he was able to have such profound thoughts and to attain to the state of non- differentiation regarding all things and enter into the First Dhyana.
Thái tử lặng lẽ trầm ngâm suy nghĩ và bắt đầu tự vấn bản thân: “Nếu mọi thứ đều diễn ra đúng như vậy, thì chẳng phải những điều được cho là đẹp đẽ ở đời cũng tiềm ẩn những mặt trái xấu xa của nó sao? Cuối cùng Thái tử nhận ra rằng, mặc dù hiện tại chàng đang rất hạnh phúc, nhưng đằng sau đó vẫn tồn tại một nỗi thống khổ to lớn đang bao trùm lên nhân loại và chúng hữu tình. Ngay từ thuở thiếu thời, Siddhattha đã có những tư duy sâu sắc như vậy, và đạt được tâm bình đẳng đối với tất cả mọi loài và nhập vào tầng thiền thứ nhất.
36. When the Royal Tiller ceremony and the feast were over, the attendants began to think of the Prince. They rushed back to him and found the Prince sitting motionless under the Jambu tree like a stone statue. They awakened him and told him that the king was looking for him for it was time to go home. On the way, Prince Siddhattha was filled with compassion for all creatures, because every single creature, in the course of keeping itself alive, has to struggle constantly against pain and suffering.
Sau khi lễ Hạ Điền và bữa yến tiệc kết thúc, mọi người tham dự bắt đầu nhớ đến Thái tử. Họ nhìn xung quanh không thấy Thái tử đâu, liền vội vàng nháo nhác hô nhau đi tìm thì thấy chàng ngồi bất động dưới gốc cây Jambu như một bức tượng. Họ đánh thức Thái tử và thưa rằng đức vua đang tìm kiếm chàng để chuẩn bị trở về hoàng cung. Trên đường đi, Thái tử Siddhattha lòng tràn đầy trắc ẩn với mọi loài sinh vật trên thế gian này, bởi vì mỗi loài sinh vật đều đang chật vật duy trì sự sống, đều đang ngày đêm vật lộn với những đau đớn và thống khổ của riêng mình.
37. Knowing that the Prince had thought of seeking ultimate truth troubled King Suddhodana. He feared that if such thoughts were not eliminated, the Prince probably would soon leave him and abandon the country, and then there would be no one to inherit the throne. He felt that the only way to change the Prince's mind was to double the joy and pleasure available to him in the royal palace. To achieve this end, his first plan was to construct three splendid new palaces.
Biết Thái tử có tư tưởng tìm kiếm sự thật tối thượng, đức vua Suddhodana vô cùng lo lắng. Vua sợ rằng nếu những suy nghĩ như vậy không được loại bỏ thì Thái tử sẽ sớm rời xa mình, từ bỏ đất nước và sẽ không còn ai thừa kế ngai vàng. Đức vua cảm thấy cách duy nhất để thay đổi những suy nghĩ trong tâm của Thái tử là tăng gấp đôi niềm vui và hoan lạc trong hoàng cung. Để đạt được mục đích đó, vua đã thực hiện kế hoạch đầu tiên là cho xây dựng ba cung điện mới lộng lẫy.
38. The first palace was built of fragrant wood. Inside, the air was warm, and everything was designed for maximum comfort. This was the Prince's winter palace. The second was the Prince's summer palace, which was built of polished marble. The third palace, built of brick, had a green-tiled roof. This was the Prince's lodge in the the monsoon season. King Suddhodana also ordered that a beautiful garden be built around the three palaces, which was to have many ponds containing lotus plants of various color. Thus the Prince could take a walk or a horseback ride or do whatever he enjoyed most.
Cung điện đầu tiên được xây dựng bằng gỗ chiên đàn thơm, bên trong tỏa ra bầu không khí ấm áp và mọi thứ được thiết kế một cách tiện nghi nhất. Đó là cung điện mùa đông dành cho Thái tử. Cung điện thứ hai là cung điện mùa hè, được xây dựng với loại đá cẩm thạch láng bóng tạo không khí mát mẻ. Cung điện thứ ba được xây bằng gạch, lợp ngói xanh. Các cung điện được thiết kế riêng dành cho Thái tử nghỉ ngơi phù hợp với các mùa trong năm. Vua Suddhodana cũng ra lệnh trong mỗi cung điện phải có khu vườn xinh đẹp bao quanh, với nhiều hồ sen đủ màu sắc. Vì vậy, Thái tử có thể đi dạo hoặc cưỡi ngựa hay làm bất cứ điều gì chàng thích.
39. The years went by very quickly, and Prince Siddhattha had now become a young man. All the material pleasures the King had bestowed on him turned out to be valueless to the contemplative Prince. The King had thought that his actions would make the Prince happy but everything proved to be in vain.
Năm tháng trôi qua rất nhanh, bây giờ Thái tử Siddhattha đã trở thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Thế nhưng tất cả những thú vui vật chất mà vua cha ban tặng hóa ra đều vô nghĩa đối với chàng. Đức vua tưởng rằng những nỗ lực bấy lâu của mình có thể khiến Thái tử hạnh phúc, nhưng dường như không phải thế.
40. He then summoned his ministers to a meeting, asking them if there were any other means to prevent the Prince from abandoning his position as potential leader of the country to become a religious teacher, as the old sage Āsita had predicted.
The officials offered their opinion: “The best way to hold the Prince is to seek out the most beautiful girl in the land and have the Prince get married to her. Once the Prince has experienced the sweetness of married life, he will choose nothing else. Then he will follow your intention and take over the throne in the future”.
Sau đó, đức vua triệu tập các quần thần đến một hội nghị, hỏi họ liệu có cách nào khác để ngăn chặn ý định từ bỏ vị trí lãnh đạo tiềm năng của đất nước để trở thành một bậc thầy tôn giáo của Thái tử, như tiên nhân Āsita đã tiên tri.
Các quan đại thần đưa ra ý kiến: “Cách tốt nhất để níu giữ Thái tử là tìm kiếm một cô gái xinh đẹp nhất ở trong vùng để kết hôn cùng Thái tử. Một khi nếm được hương vị ngọt ngào của tình yêu và cuộc sống hôn nhân, Thái tử sẽ quên đi ý định xuất gia kia. Và tương lai, Thái tử sẽ thuận theo tâm nguyện của đức vua mà tiếp nhận ngai vàng”.
41. The King considered the suggestion offered by the ministers as alright. Then he ordered that the selection of the most beautiful girl in the country to take place. On the particular day decreed for the selection, all candidates had to come to the city of Kapilavatthu. Each of them was required to walk in front of the Prince and would receive a present from him. The King also ordered a group of highly intelligent officials to be stationed in the place where the beautiful girls were to pass before the Prince. Their duty was to observe carefully which girl the Prince liked best.
Nhà vua xét thấy kế sách của các quan đại thần có lý, liền đó ra lệnh cho người mau chóng tuyển chọn những cô gái xinh đẹp nhất trong nước để tham gia ứng cử. Vào ngày được chỉ định cho buổi tuyển chọn, tất cả các cô gái sẽ trở về thành phố Kapilavatthu. Mỗi người sẽ đi đến trước mặt Thái tử và nhận được một món quà từ chàng. Nhà vua cũng yêu cầu những quan đại thần giỏi nhất đứng ở nơi mà các cô gái đi qua, nhiệm vụ của họ là quan sát kỹ lưỡng xem Thái tử thích cô gái nào nhất.
42. On the day of the beauty contest, candidates from all over the country passed, one after another, in front of the Prince. They were all very beautiful. Each of them received a present directly from the hand of the Prince. The girls were all very happy and felt honored to accept a present from the Prince. However, when they returned to their groups, they all began to fear that they might not be pretty enough.
Vào ngày diễn ra cuộc thi sắc đẹp, những cô gái trên khắp mọi miền đất nước lần lượt đến trình diện trước mặt Thái tử. Họ đều là những cô gái vô cùng xinh đẹp, mỹ miều. Mỗi người đều trực tiếp nhận được một món quà từ tay Thái tử. Những cô gái cảm thấy thật sự hạnh phúc và vinh dự khi được đón nhận diễm phúc này. Tuy nhiên, khi trở lại chỗ ngồi của mình thì họ lại bắt đầu e sợ rằng họ không đủ xinh đẹp.
43. For they felt that, Prince Siddhattha was unlike other young men, he had not paid attention to their beauty at all. Indeed, the Prince had handed a present to each of the girls, but his mind, all the time, appeared to be centered on some other thing, which was much more important than the smiling appearances and beautiful and voluptuous bodily movements of the girls. And that was why some of girls said that when the Prince had handed them presents, they felt that he was not an ordinary human being at all, but, on the contrary, that he was a celestial being.
Vì họ cảm nhận được rằng Thái tử Siddhattha không giống như những người đàn ông khác, chàng không hề để ý đến vẻ ngoài diễm lệ của họ. Quả thật, khi Thái tử trao quà cho các cô gái thì tâm trí chàng lại đang tập trung nghĩ về những thứ khác còn quan trọng hơn sự xuất hiện với dáng điệu yêu kiều xinh đẹp, với những đường cong cơ thể tuyệt mỹ gợi cảm của các cô gái. Và đó là lý do tại sao một số cô nói rằng khi được Thái tử trao quà thì họ cảm thấy Thái tử không phải là một người bình thường như bao chàng trai khác, mà trái lại, khí chất nơi Ngài toát lên như một vị thần.
44. The line of girls had almost come to an end, and the presents were all given away. The Prince still sat calmly, thinking about other things. Everyone thought that the last contestant had come before the Prince and received her present, but suddenly a beautiful girl entered hastily, for she had arrived late.
Các cô gái lần lượt tiến lên và những món quà cũng từ từ vơi dần, nhưng Thái tử vẫn ngồi trầm ngâm suy nghĩ việc khác. Ai cũng tưởng rằng người cuối cùng đã đến nhận quà từ Thái tử, nhưng bất ngờ một cô gái xinh đẹp vội vàng đi đến, vì nàng đến trễ.
45. When this girl entered, the observers noticed that the Prince was somewhat astonished. Like the other girls had done, she also walked before the Prince, bashfully with bowed head. But after she had passed by, she looked back smilingly and asked: “Any present for me?” The Prince replied: “I am really sorry, but all the presents are gone. However, you may have this!” And he took from his neck an exquisite golden chain and wound it about the girl’s arm.
Khi cô gái này bước vào, mọi người quan sát và nhận ra rằng Thái tử hơi ngạc nhiên. Giống như những cô gái đến trước, nàng ấy bước đến trước mặt Thái tử, cúi đầu e lệ, nhưng sau khi đi ngang qua, nàng ấy mỉm cười quay lại và nhẹ nhàng hỏi rằng: “Chàng có quà cho em không?”
Thái tử liền đáp: “Ta thật sự xin lỗi vì những món quà đã hết, tuy nhiên em vẫn có thể nhận được quà!”
Và Thái tử cẩn trọng tháo chiếc vòng cổ bằng vàng được thiết kế tinh xảo của mình đeo vào cánh tay cho cô gái.
46. The officials who were ordered by the King to observe were very happy to see this. They discovered that the girl who had entered last was Yasodharā, the daughter of King Suppabuddha. They reported this the King Suddhodana, who, sent his minister to visit King Suppabuddha, proposing that Princess Yasodharā marry Prince Siddhattha.
Nhận mệnh lệnh từ nhà vua, các quan đại thần quan sát kỹ càng từng cử chỉ, hành động của Thái tử và họ cảm thấy rất vui khi nhìn thấy điều đó. Họ điều tra và biết được rằng cô gái bước vào cuối cùng đó chính là công chúa Yasodharā , con gái của vua Suppabuddha. Họ trình với vua Suddhodana, nhà vua đã cử các quan đại thần đến thăm hỏi và ngỏ ý muốn vua Suppabuddha đồng ý gả công chúa Yasodharā cho Thái tử Siddhattha.
47. The people at the foot of the Himalaya were sturdy and brave. Thus, according to the custom of the Sākya Clan, when a young prince was about to marry, he had to demonstrate to the public that he was a clever man, and as well versed in horseback riding, archery, and fencing as the other brave young men were. Respecting this custom, Prince Siddhattha openly invited all the clever and brave youths of the country to a contest of skill at Kapilavatthu.
Những người sống dưới chân núi Himalaya rất cường tráng và dũng cảm. Theo phong tục của bộ tộc Sakya, khi một thái tử trẻ chuẩn bị kết hôn, người đó sẽ phải chứng tỏ với quần chúng nhân dân rằng mình là một người thông minh, rất giỏi trong việc cưỡi ngựa, bắn cung và đấu kiếm như những người thanh niên dũng mãnh khác. Thể theo phong tục kế thừa này, Thái tử Siddhattha đã công khai mời tất cả những thanh niên thông minh và dũng mãnh của đất nước cùng tham gia thi tài tại Kapilavatthu.
48. Every one of these youths was an expert horseman, archer, and fencer. Each young man, in turn, demonstrated his skills in front of the King, his officials and the people. Prince Siddhattha also participated in the contest, riding his white horse Kaṇṭhaka, and he turned out to be the most skillful of all the youths. In archery, Prince Siddhattha shot farther than his cousin prince Devadatta, who was regarded by all as the best archer in the country.
Mỗi người trong số những chàng trai này đều là những kỵ sĩ, cung thủ và kiếm sĩ. Lần lượt, các chàng trai thể hiện tài năng của mình trước nhà vua, quần thần và nhân dân. Thái tử Siddhattha cũng tham gia cuộc thi, Ngài cưỡi con bạch mã Kaṇṭhaka của mình và cuối cùng đã trở thành người tài giỏi nhất trong số tất cả các chàng trai tham gia dự thi. Trong tất cả những người bắn cung, Thái tử đã bắn xa hơn người em họ của mình là vương tử Devadatta, người được cho là bắn cung giỏi nhất trong nước.
49. As a fencer, Prince Siddhattha was able to cut down a tree with one stroke. After he had struck the tree, the tree remained standing, so that witnesses thought the Prince had missed. But when the wind began to blow, the tree toppled slowly down, for the Prince had sliced through the tree with no trace; the blade of the sword had passed through the tree as if it had cut through cream. In the fencing contest, the Prince was also the victor with honor. Before that, his stepbrother, prince Nanda, was generally recognized as the top fencer.
Là một kiếm sĩ, Thái tử Siddhattha có thể đốn hạ một cái cây chỉ bằng một nhát kiếm. Sau khi đánh vào thân cây, cây vẫn còn đứng yên, đến nỗi những người xem tưởng rằng chàng đã đánh trượt. Nhưng khi một cơn gió vừa thổi qua, cây từ từ đổ xuống, mới biết nhát cắt ngang thân cây của Thái tử không để lại một chút dấu vết, lưỡi gươm đã đi ngang thân cây như thể nó cắt qua lớp kem. Trong cuộc thi đấu kiếm, Thái tử cũng là người chiến thắng một cách ngoạn mục và đáng nể. Trong khi trước đó, vương tử Nanda, anh em cùng cha khác mẹ của Thái tử đã được công nhận là một kiếm sĩ hàng đầu.
50. Next came the horseracing contest. Prince Siddhattha’s white horse Kaṇṭhaka ran so fast that the other racers were left far behind. So the other contestants complained: “The Prince wins so easily just because he has the fastest horse. Anyone riding Kaṇṭhaka would win first place. On the contrary, if someone were to race that rarely mounted queer black horse, then whoever the rider might be would surely be the loser”.
Kế đến là cuộc thi cưỡi ngựa, Thái tử cưỡi con ngựa trắng Kaṇṭhaka chạy rất nhanh và bỏ xa những kỵ sĩ khác phía sau. Vì vậy tất cả họ tỏ ra bất mãn, và nói rằng: “Thái tử chiến thắng dễ dàng như vậy bởi vì Thái tử có con ngựa chạy nhanh nhất. Bất cứ ai cưỡi được ngựa Kaṇṭhaka, thì đều có thể về đích đầu tiên. Ngược lại, nếu ai đó tham gia cuộc thi mà cưỡi con ngựa đen hoang dã chưa được thuần phục, thì chắc chắn sẽ là người thua cuộc”.
51. So they exchanged their horses, everyone trying, in turn, to mount that fierce haughty black horse, but it threw everyone to the ground. It was now prince Aniruddha’s turn to try, and being the best rider in the country, he mounted the black horse with only a slight effort, and then he whipped it hard to force it to run around the yard.
Vì vậy, họ đổi con ngựa của mình, lần lượt mọi người cố gắng cưỡi lên con ngựa đen hung dữ đó, nhưng nó đã hất văng tất cả xuống đất. Khi đó, hoàng tử Aniruddha là người cưỡi ngựa giỏi nhất nước, đã thử sức cưỡi lên con ngựa đen với thái độ đầy ngạo nghễ và dùng roi quất mạnh thúc nó chạy quanh sân.
52. However, prince Aniruddha stayed in place for only a moment, for unexpectedly the fierce, untamed horse reared, turned its head, and caught the prince’s leg in its mouth and threw him from its back to the ground. If the yardguards had hesitated in going to help him or remained behind the horse without beating it, the wild animal would unquestionably have killed prince Aniruddha.
Tuy nhiên, khi hoàng tử Aniruddha vừa đứng yên tại chỗ không lâu thì con ngựa chưa được thuần hóa bỗng trở nên dữ tợn, nó bất ngờ quay đầu lại phía sau ngoạm vào chân hoàng tử và giật mạnh chàng từ trên lưng nó văng xuống đất. Nếu lúc đó, những người cảnh vệ không kịp thời ứng cứu, hoặc không nhanh chóng ngăn cản con ngựa thì hoàng tử Aniruddha đã bị con vật hoang dã này giết chết.
53. Now it was Prince Siddhattha’s turn to mount. Everybody felt that if even prince Aniruddha, the best rider in the country, had been thrown and almost killed, Prince Siddhattha could probably do no better. But Prince Siddhattha approached the horse lightly, and put one hand on its neck while rubbing its nose with his other hand, at the same time softly murmuring a few words and then tapping the horse on the sides of its body.
Lúc này, đến lượt Thái tử Siddhattha cưỡi ngựa. Mọi người e ngại rằng ngay cả hoàng tử Aniruddha, người cưỡi ngựa giỏi nhất kinh thành còn bị ném xuống đất và xém chút nữa thì mất mạng, thì có lẽ Thái tử Siddhattha cũng khó mà có thể làm tốt hơn. Nhưng Thái tử Siddhattha vẫn tự tin lại gần con ngựa, nhẹ nhàng đặt một tay lên cổ, còn tay kia xoa mũi, đồng thời thì thầm một vài câu vào tai nó một cách dịu dàng và sau đó vỗ nhẹ vào hai bên mông con ngựa.
54. Everybody was quite surprised that the fierce black horse had really calmed down, gently letting the Prince ride him, obediently moving foreward or backward as the Prince directed. The people who were gathered there clearly saw that the horse was acting completely according to the Prince’s will. It was the first time that any person had ever dared to come close to this proud horse and tame it without a whip.
Mọi người vô cùng ngạc nhiên khi thấy con ngựa đen hung dữ đã thực sự bình tĩnh trở lại, đứng yên cho Thái tử cưỡi, ngoan ngoãn tiến lên hoặc lùi về sau theo chỉ dẫn của Thái tử. Mọi người tập trung ở đó thấy một cách rõ ràng rằng con ngựa đang hành động hoàn toàn theo ý muốn của Thái tử. Đó là lần đầu tiên có người dám đương đầu với con ngựa kiêu hãnh này và đã thuần hóa nó mà không cần dùng roi vọt.
55. Finally everyone agreed that Prince Siddhattha was the best rider in the country and most qualified to be Princess Yasodharā husband. And King Suppabuddha was also very pleased to give the hand of his beloved daughter to the young, courageous Prince Siddhattha in marriage.
Cuối cùng, tất cả mọi người đều công nhận Thái tử Siddhattha là kỵ sĩ tài giỏi nhất kinh thành và đủ điều kiện để làm chồng của công chúa Yasodharā. Vào ngày cưới, vua Suppabuddha cũng rất hài lòng gả cô công chúa mà ngài yêu quý nhất cho chàng Thái tử trẻ anh tài xuất chúng.
56. The wedding of Princess Yasodharā to Prince Siddhattha was an event in which the whole country rejoiced. The young couple lived in a palace that King Suddhodana had specially built for them, one which contained all kinds of splendid accommodations designed for the sole purpose of giving them comfort, satisfaction and pleasure. Now King Suddhodana began to feel relaxed, feeling assured that the Prince would no longer think about leaving home.
Đám cưới của công chúa Yasodharā và Thái tử Siddhattha là một sự kiện hân hoan của cả đất nước. Cặp vợ chồng trẻ sống trong lâu đài do vua Suddhodana đã đặc biệt xây dựng cho họ, với nhiều căn phòng tráng lệ được thiết kế với đủ tiện nghi mang lại cảm giác thoải mái, mãn nguyện và hỷ lạc. Bấy giờ, vua Suddhodana mới bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm, và tin chắc rằng Thái tử sẽ không còn nghĩ đến chuyện xuất gia nữa.
57. In order to prevent the Prince from thinking of leaving home or of other things, King Suddhodana ordered that no one should ever mention in front of the Prince anything having to do with misery or unhappiness, such as old age, sickness, death, etc. The attendants of the Prince were ordered to constantly provide songs, dances, and music and never to appear tired before him.
Để ngăn cản Thái tử không nghĩ đến chuyện từ bỏ cung vàng điện ngọc, vua Suddhodana hạ lệnh tất cả mọi người trước mặt Thái tử tuyệt đối không được phép nhắc đến bất cứ vấn đề gì liên quan đến nỗi khổ niềm đau như già, bệnh, chết, v.v. Vua lệnh cho người hầu cận của Thái tử liên tục dâng lên những bài hát, điệu nhảy, những bản nhạc và tuyệt đối không được phép tỏ ra mệt mỏi trước mặt Thái tử.
58. In addition to this, the King ordered the construction of high walls all around the palace and gardens where the Prince lived. Only young and beautiful girls were allowed to enter into the gardens and palace from beyond the walls. Should someone within the walls accidentally fall and injure themself, the person had to be taken out immediately and could not return before complete recovery. The gates of the garden were closely guarded to prevent the Prince from going outside for any reason, except with the King's permission.
Ngoài ra, đức vua còn cho xây dựng những bức tường thành cao ở xung quanh cung điện và khu vườn nơi Thái tử ở. Chỉ những cô gái trẻ đẹp mới được phép đi vào đó. Nếu có ai ở bên trong bốn bức tường bất chợt ngã xuống và bị thương thì phải đưa ra ngoài ngay lập tức cho đến khi bình phục hoàn toàn mới quay trở lại. Những cánh cổng nơi khu vườn được canh gác nghiêm ngặt để ngăn Thái tử ra ngoài với bất kỳ lý do gì, trừ khi được đức vua chấp thuận.
59. Although King Suddhodana had a selected group of attendants for the Prince and tried in every way to keep his son from experiencing anything unpleasant in his life, the Prince was not as happy as his father had hoped. The Prince eagerly desired to see other joyful things of the world, things that were beyond the palace walls. The Prince also wanted to know what the life of the people, other than that of the sons of kings and their high officials, was like. Time and time again the Prince pleaded with his father, informing him that he would never be happy unless he could see the outside world.
Mặc dù đức vua Suddhodana đã tuyển chọn nhóm hầu cận cho Thái tử và cố gắng mọi cách để giữ cho chàng tránh mọi sự trải nghiệm không thoải mái trong cuộc sống, song Thái tử vẫn không thật sự hạnh phúc như vua cha mong đợi. Chàng tha thiết muốn biết niềm vui khác ở thế giới bên ngoài những bức tường thành, cũng như muốn biết cuộc sống của người dân so với các vương tôn công tử và quan đại thần diễn ra như thế nào. Hết lần này đến lần khác Thái tử cầu xin vua cha, và tâu với đức vua rằng chàng sẽ chẳng bao giờ có được hạnh phúc trừ khi được nhìn thấy thế giới bên ngoài.
60. Unable to refuse the persistent demand of the Prince to travel outside the palace, King Suddhodana finally consented. He ordered that, on the day of the Prince's outing, every house must be cleaned, painted and decorated with flags and flowers. Along the way no one was allowed to be seen working, and blind, sick old men and leprous persons had to stay home until the carriage of the Prince had passed.
Không thể từ chối lời thỉnh cầu khẩn thiết của Thái tử, cuối cùng vua Suddhodana đã chấp nhận để chàng vi hành ra ngoài hoàng cung. Vua hạ lệnh vào ngày Thái tử vi hành, nhà nhà phải lau chùi, sửa soạn và trang trí cờ hoa. Dọc theo con đường không một ai được phép để Thái tử nhìn thấy các sự việc như người mù, người già yếu và những người bệnh cùi phải ở trong nhà cho đến lúc xe ngựa của Thái tử đi qua.
61. Everything was ready. Prince Siddhattha, in a splendid carriage, came out of the palace and toured around the city. Everywhere he saw crowds of people with smiling faces enthusiastically welcoming him. On seeing the Prince, some people shouted: “Long live the Prince!”, while others approached his carriage and spread flowers on the road. The carriage thus continued moving on along the flower-covered path.
Mọi thứ đã sẵn sàng, trên một cỗ xe ngựa lộng lẫy, Thái tử Siddhattha rời khỏi cung điện và du ngoạn xung quanh kinh thành. Đâu đâu Ngài cũng đều thấy mọi người với diện mạo phấn khởi đang hân hoan chào đón mình. Vừa nhìn thấy Ngài, nhiều người còn tung hô: “Thái tử vạn tuế!”, trong khi những người khác tung hoa dọc theo hai bên đường khi xe đi qua. Cỗ xe cứ thế tiếp tục di chuyển trên con đường trải đầy những bông hoa.
62.All at once, a white-haired old man, clad in dirty rags and tatters, limped out of his house and reached the road before anyone could stop him. His haggard face was full of wrinkles and freckles, his eyes dull and dim, and only one tooth remained in his dry and withered mouth. His back was severely hunched and he had to rely on canes to move his body. Wailing and begging along the road, he would certainly have starved to death if he had failed to get food for even one day.
Bất chợt một ông lão tóc trắng phau, quần áo rách rưới bẩn thỉu, từ trong nhà khập khiễng bước ra ngoài đường, không ai kịp cản ông lại. Khuôn mặt tiều tụy của ông đầy những nếp nhăn cùng tàn nhang, đôi mắt u buồn, mờ đục, trong khuôn miệng nứt nẻ nhăn nheo chỉ còn lại một chiếc răng duy nhất, lưng bị gù nên ông phải chống gậy thì mới đi được. Ông già rên rỉ xin ăn dọc đường, và chắc hẳn sẽ chết đói nếu như hôm nay không xin được thức ăn.
63. People were very much upset by the daring appearance of this old man since this was the Prince's first excursion, and the king had issued an order prohibiting the presence of all old and sick persons. They rushed to stop this old man from advancing further, intending to drive him home, but it was already too late. The Prince had already seen him!
Vì đây là chuyến du ngoạn đầu tiên của Thái tử nên dân chúng rất khó chịu trước sự xuất hiện đường đột của ông lão. Hơn nữa, vì đức vua đã ban lệnh cấm xuất hiện đối với tất cả những người già, người bệnh, nên họ vội ngăn lại và định đưa ông lão về nhà nhưng đã quá muộn. Thái tử đã nhìn thấy ông lão.
64. Prince Siddhattha was quite surprised at the sight of the old man. He did not know what the creature was. So he asked his driver Channa: “Channa! What is that? A person? If he is a person, why is his back so curved and not as straight as other people's? Why does he shake? And the hair, why is it white? What happened to his eyes? Where are his teeth? Are some people born this way? Channa! Tell me what all this means!”
Thái tử Siddhattha rất kinh ngạc khi nhìn thấy bộ dạng già nua ấy, thậm chí còn không biết sinh vật này là gì. Vì vậy Thái tử đã hỏi người đánh xe Channa: “Channa! Đó là gì vậy? Là một con người phải không? Nếu ông ta là con người, tại sao lưng của ông ấy còng mà không thẳng giống như những người khác? Tại sao ông ấy run rẩy? Và tóc, tại sao có màu trắng? Đôi mắt của ông ấy bị sao vậy? Răng ông ấy đâu hết rồi? Một số người sinh ra đã như vậy hay sao? Channa ơi! Hãy nói cho Ta biết tất cả điều này nghĩa là gì!”
65. Channa replied: “This is an old man! He was not born this way. When he came into the world, he was like everybody else. At first, he was also a strong and dignified youth, having dense black hair and bright eyes. After having lived for a long time, he has changed into this shape. Don't let it bother you, Prince, for it is only the business of this old person”.
“What does it mean, Channa?” The Prince continued. “Do you mean that it is very ordinary? Do you say that everyone will look like this after having lived for a long time, or is it not necessarily so? I have not seen this condition before!”
Channa replied: “When one has lived a long time, he will be like this. It cannot be avoided!”
Channa thưa: “Dạ, đây là một ông lão! Khi sinh ra trên đời ông lão cũng như bao người khác, không hề giống như hình ảnh tiều tụy hiện tại. Lúc đầu, ông cũng là một thanh niên trai tráng khỏe mạnh, có mái tóc xanh rậm và đôi mắt sáng, sau khi sống một cuộc đời dài, hình dạng ông lão đã biến đổi thành ra thế này ạ. Thái tử, Ngài đừng vì điều này mà phiền muộn, đây chỉ là chuyện của ông lão này”.
Thái tử lại nói: “Channa ơi! Điều đó có nghĩa là gì? Như vậy mà là bình thường hay sao? Ngươi cho rằng ai rồi cũng sẽ trông giống như thế này sau khi sống một cuộc đời dài sao, hay là không nhất thiết phải như vậy? Ta chưa từng thấy tình trạng này bao giờ!”
Channa đáp: “Thưa Thái tử! Sau một cuộc đời dài thì ai cũng sẽ trở nên như vậy, không ai có thể tránh khỏi điều đó ạ!”
66. “Channa! Do you really mean that everybody will be like this some day, even you and I? My father? My wife? Is it possible that all of us will some day have no teeth, have white hair and be hunchbacked, moving around with canes and shaking like this old man?” “Indeed so!” answered Channa. “When one lives long enough, he will be like this man, for no one can avoid getting old!”
“Channa ơi! Có thật ngươi cho rằng mọi người rồi sẽ giống như thế này vào một ngày nào đó, kể cả Ta và ngươi? Cha mẹ của Ta? Vợ của Ta? Phải chăng rồi có một ngày tất cả chúng ta sẽ không còn răng, tóc bạc trắng, lưng còng và đi phải chống gậy và run rẩy giống như ông lão này hay sao?”
Channa trả lời: “Đúng vậy ạ! Khi tuổi cao, chúng ta đều sẽ giống như ông lão này, không một ai có thể tránh khỏi sự già nua!”
67. Prince Siddhattha immediately told Channa to drive him back to the palace, for he was no longer in the mood to continue his journey around the city. He only wanted to be alone so that he could contemplate deeply the dreadful problem that he had just encountered. Soon he became aware that although he was the Prince, the successor to the throne, he and the people dear to himself would, nevertheless, lose everything some day in the future. All his joys and pleasures would turn into nothing, for there would be no way to avoid getting old, and, in this matter, no one is an exception, whatever his condition-rich, poor, powerful, or mean.
Thái tử Siddhattha liền bảo Channa đánh xe quay về lại cung điện, vì Ngài không còn tâm trạng để tiếp tục chuyến du ngoạn xung quanh kinh thành nữa. Chàng chỉ muốn một mình để có thể trầm tư sâu lắng về chuyện tồi tệ mà mình vừa gặp phải. Ngay lúc này đây, Ngài ý thức rằng, mặc dù là Thái tử người kế thừa vương vị, nhưng chính mình và người thân yêu rồi cũng sẽ mất đi mọi thứ vào một ngày nào đó trong tương lai. Tất cả niềm vui và hạnh phúc sẽ tan biến như hư không, bởi sẽ chẳng có cách nào thoát khỏi cái già. Và nó chẳng chừa một ai, dù là người giàu sang hay kẻ nghèo đói, dù là người uy quyền hay dân thường cũng vậy.
68. That night, Prince Siddhattha could not sleep. He was very disturbed when he thought that someday he and his wife would become old like that old man he seen during the day. He then began to have grave doubts, thinking: “Has there ever been anyone in the world who has tried to find a way to avoid or transcend the cruel process of aging? If I, putting aside everything else, concentrate solely on this problem, can I not find a way to benefit myself and all other people?”
Tối hôm đó, Thái tử Siddhattha không thể ngủ được. Chàng bất an khi nghĩ rằng một ngày nào đó chàng và vợ sẽ già đi như ông lão mà mình đã nhìn thấy hôm nay. Sau đó chàng bắt đầu trầm tư suy nghĩ: “Trên thế gian này đã có người nào tìm thấy con đường tránh khỏi hay vượt thoát sự già nua tàn khốc này chưa? Nếu Ta buông bỏ mọi thứ, chỉ chuyên tâm vào vấn đề này, liệu Ta có thể tìm thấy một con đường mang đến lợi ích cho bản thân và tất cả mọi người hay không?”
69. Someone related the incident that had happened during the excursion to the King. The King was very sad, and again he ordered that a search be undertaken for interesting things to distract and amuse the Prince. But, as had happened before, all was in vain. The young Prince was not only indifferent to these things, but even once again asked his father's permission to go out, this time alone and unannounced, in order to see all the things of every day life.
Vài người đã thuật lại chuyện xảy ra lúc du ngoạn cho đức vua nghe, ông đã rất buồn, và một lần nữa hạ lệnh tiến hành tìm kiếm những thú vui làm cho Thái tử sớm quên đi câu chuyện u ám mà vui vẻ trở lại. Tuy nhiên, như đã xảy ra trước đó, mọi thứ đều vô ích. Vị Thái tử trẻ không chỉ thờ ơ với mọi thứ, hơn thế còn xin phép vua cha ra ngoài lần nữa, lần này chỉ đi một mình và không báo trước, để được nhìn thấy mọi thứ trong cuộc sống thường nhật.
70. Naturally the King did not want to give his permission, for he was still more afraid that this time the Prince would see many ordinary people, who have to sweat and toil all their days, not sons of kings and rich men; and he also feared that what the old sage had predicted might, indeed, come true. But love and compassion for his son finally forced him to permit the Prince to go as he had requested. But he still hoped that those unpleasant things might not be seen by the Prince.
Đương nhiên đức vua không muốn chấp thuận, vì ông lại càng thêm lo sợ rằng lần này Thái tử sẽ nhìn thấy người dân thường mồ hôi nhễ nhại, vất vả suốt cả ngày, không giống như những vương tôn công tử và những bậc quyền quý. Đức vua vô cùng lo sợ rằng lời tiên đoán của nhà hiền triết năm xưa trở thành hiện thực. Nhưng vì yêu thương và lòng từ ái với con, cuối cùng ông đã cho phép Thái tử xuất thành theo lời thỉnh cầu của chàng. Nhưng vua cha vẫn hy vọng rằng Thái tử sẽ không nhìn thấy những điều bất như ý như vậy nữa.
71. This time Prince Siddhattha went out on foot. He was disguised as a youth of a noble family and was followed only by Channa, who also dressed differently in order not to be recognized. So the Prince, for the first time, saw the activities of an ordinary day in the capital. Many people were doing all kinds of different kinds of work. Blacksmiths pounded iron pieces with steel hammers to make plows, sickles, and oxen cart wheels, etc.
Lần này Thái tử Siddhattha đi bộ ra ngoài, Ngài cải trang thành một cậu thanh niên gia đình quyền quý và chỉ có Channa theo cùng. Channa cũng cải trang khác đi để mọi người không nhận ra. Vì thế Thái tử lần đầu được chứng kiến cảnh sinh hoạt đời thường tại kinh đô. Nhiều người làm nhiều nghề khác nhau, người thợ rèn dùng chiếc búa thép rèn miếng thép làm thành những cái cày, cái liềm và những bánh xe bò, v.v.
72. Along the streets there were shops of rich merchants, craftsmen were making all kinds of adornments for women; dye shops were full of cloth of various colors; bakeries sold cakes to people waiting to buy them. At that time Prince Siddhattha felt happy and was very glad to see the conditions of these industriously working people.
Dọc đường có dãy cửa hàng của những thương gia giàu có, những người thợ thủ công đang chế tác đồ trang sức phụ nữ, những cửa hàng thuốc nhuộm vải với đủ loại màu sắc, hay mọi người đang chờ mua những chiếc bánh sắp ra lò. Ngay lúc này, Thái tử Siddhattha cảm thấy rất hạnh phúc và phấn khởi khi nhìn thấy cuộc sống bình dị của những người lao động cần cù này.
73. But soon bad and ugly things began happening again. While the Prince was strolling along, he suddenly heard a moan on the roadside, which sounded as if someone was calling for help. The Prince approached the area, looked at the place where the moan was coming from, and found a man lying on the earth. His body was twisting incessantly, both his face and body were discolored with a nauseating purple hue, his eyes rolled back and forth in his head, and everytime he struggled to rise he fell heavily to the ground again, never making it to his feet.
Nhưng chẳng bao lâu sau, những điều tồi tệ lại bắt đầu diễn ra trong lúc Thái tử đang tản bộ, bất chợt chàng nghe thấy tiếng rên rỉ bên lề đường, một người nào đó đang kêu cứu. Thái tử bước lại gần, nhìn vào nơi phát ra tiếng rên và thấy một người đàn ông nằm trên mặt đất. Cơ thể ông ta quằn quại không ngừng, khuôn mặt và toàn thân đều biến sắc tím tái đến buồn nôn, đôi mắt trợn ngược lên, mỗi khi cố gắng đứng dậy thì lại ngã xuống đất, đôi chân của ông ta không thể đứng vững được.
74. Since Prince Siddhattha was so very merciful, he quickly approached the man and held him up, placing his head upon his own knee causing him to feel gradually comfortable and then asked what caused the pain and why he could not stand up. The man tried to say something, but he did not even have the strength to speak. Channa hastily approached, and the Prince asked: “Channa, tell me why this man is in this other condition! Look how he is breathing! Why does he not answer me?”
Vì Thái tử Siddhattha đầy lòng nhân từ, chàng nhanh chóng đến gần giúp người đàn ông đứng dậy, nâng đầu ông ấy đặt lên đầu gối mình cho đến khi ông ấy cảm thấy dễ chịu, và sau đó hỏi nguyên nhân đau đớn cũng như tại sao ông ấy không thể đứng lên được. Người đàn ông cố gắng nói một vài điều gì đó, nhưng ông ấy thậm chí không còn sức để nói.
Channa vội đến và Thái tử hỏi: “Channa ơi! Hãy nói cho Ta tại sao người đàn ông này lại lâm vào tình trạng như vậy? Nhìn cách ông ta đang thở này! Tại sao lại không trả lời Ta?”
75. Channa shouted in horror: “Don't touch this man! He is a sick person! Poison flows in his veins, and toxic poisons are burning inside him, making it difficult for him to breathe so that finally he will stop breathing”. The Prince asked: “Will other people be like this? Could I, too, become like this?”
Channa answered: “If one comes into close contact with him, one may very possibly become like him. My Prince, please lay him down and don't touch him, for the poison of the disease in his body may be passed on to you, and then you may well become sick like him!”
Channa hét lên trong nỗi kinh hoàng: “Không được chạm đến người đàn ông này! Ông ta là người bệnh! Mầm bệnh đang ăn sâu vào bên trong cơ thể khiến cho ông Ta khó thở và cuối cùng ngừng thở”.
Thái tử hỏi: “Người khác rồi cũng sẽ giống như vậy sao? Ta rồi cũng giống như vậy sao?”
Channa trả lời: “Rất có thể vài người sẽ bị như vậy nếu họ tiếp xúc gần ông ta. Thái tử, xin hãy đặt ông ta xuống và đừng chạm vào người ông ta, vì mầm bệnh trên đó có thể sẽ lây cho Ngài, và sau đó Ngài cũng có thể sẽ bị bệnh giống như vậy”.
76. “Channa! Apart from this illness are there still more serious illnesses?”
“Yes, there are many, and they are all in the same way painful”. “Are there no people who can help? Can't mankind conquer the sickness when it attacks? That's too frightful!” “It is very common, and no one knows on what day he will fall sick, for one can fall sick anytime and anyplace”. “Is it true, Channa? Anybody may fall ill, including my whole clan and even me?” “Yes, even I may fall sick also”.
“Channa ơi! Ngoài bệnh này ra thì còn có căn bệnh nghiêm trọng nào khác không?”
“Vâng! Có rất nhiều, và bệnh nào cũng gây đau đớn như nhau”.
“Không có ai giúp đỡ họ sao? Chẳng lẽ loài người không có cách gì để chiến thắng bệnh tật hay sao? Điều này quá đáng sợ!”
“Bệnh tật là lẽ thường, và không ai biết vào lúc nào họ sẽ mắc phải, bởi vì ai cũng có thể đổ bệnh vào bất cứ lúc nào và bất kể nơi nào”. Channa đáp.
“Đó đều là sự thật hay sao Channa? Ai rồi cũng có thể bị bệnh, bao gồm cả dòng tộc của Ta và bản thân Ta phải không?”
“Vâng! Ngay cả hạ thần cũng sẽ bị bệnh!”
77. “If it is like this, then the existence of man in the world is only to be feared since nobody knows whether he might not, when he goes this evening to sleep be transformed on the following morning into a sick man like that one. Channa, is that so?” “Yes, it is so. No one in the world knows when he may become sick, suffer, and end by dying!” “Death? What does it mean? It's very strange, Chandaha. What is death?” “Please, Prince, just look over there!”
“Nếu thế thì sự hiện diện của con người giữa thế gian này thật đáng sợ, vì không một ai biết được cái chết sẽ đến vào lúc nào. Buổi tối đi ngủ, sáng hôm sau đã có thể trở thành người bệnh giống như ông già kia. Channa, có phải như vậy không?”
“Vâng, đúng vậy! Không một ai trên thế gian này biết lúc nào mình bệnh, khổ và chết!”
“Chết ư? Điều đó có nghĩa là gì? Khó hiểu quá Channa ơi! Chết là gì?”
“Thái tử, xin mời Ngài hãy nhìn qua phía bên kia!”
78. The Prince looked where Channa directed him, and he saw a group of people marching along lamenting. Four men in front carried a stiff, immobile person on a board, a person with shrunken cheeks and gaping mouth, speechless and ugly. Although the four men rocked the board they were carrying quite sharply and clumsily, the person lying on top did not say a word. The Prince watched the group moving along and began to wonder why they all wept and why the person on the board did not caution the carriers to proceed more carefully.
Thái tử nhìn theo hướng Channa chỉ tay, bỗng thấy một nhóm người đang cùng nhau vừa đi diễu vừa than khóc. Phía trước là bốn người đàn ông khiêng một người cứng đờ, nằm bất động trên một tấm ván, hai má hóp lại, miệng thì há hốc câm lặng và xấu xí. Mặc dù bốn người đàn ông vụng về làm cho tấm ván rung lắc khá mạnh, nhưng người nằm trên tấm ván vẫn không hề nói một lời. Thái tử nhìn đoàn người đang đi diễu phía sau những người khiêng ván và bắt đầu tự hỏi tại sao tất cả bọn họ đều than khóc? Cũng như tại sao người trên tấm ván không nhắc những người khiêng ván đi đứng cẩn trọng hơn?
79. After moving on a little further, the group halted. They placed the person they were bearing on top of a pile of wood and started a fire. The Prince was shocked, and his hair stood on end. Yet the person continued sleeping quietly even as the fire began to lick his head and feet. The Prince asked in a trembling voice: “Channa, why does that man stay asleep and let them burn him?” “That man is dead. He has feet, but can no longer walk; he has ears, but can no longer hear; he is not conscious of anything. He has absolutely no feeling for heat, cold, fire, or snow. He is already dead!”
Đi thêm một đoạn nữa thì đoàn người dừng lại. Họ đặt thi hài trên một đống củi khô và bắt đầu châm lửa. Thái tử chấn động và thấy sởn gai ốc. Người trên ván vẫn nằm bất động, ngay cả khi ngọn lửa đã bắt đầu bén vào đầu và bàn chân của ông ta.
Thái tử run rẩy hỏi: “Channa ơi! Tại sao người đó nằm yên và để mọi người thiêu ông ta?”
“Người đàn ông đó đã chết. Ông ấy có đôi chân nhưng không còn đi được nữa, có đôi tai nhưng không thể nghe và không còn ý thức được gì nữa. Ông ấy hoàn toàn không còn cảm giác để nhận biết lửa nóng hay tuyết lạnh. Ông ấy đã chết rồi!”
80. “Dead? Channa! This is death? Shall I, the son of the King, also die like that man? My father, Yasodharā and all the people I know, will they also someday be that man on the pile of wood?” “Anybody who is alive will someday die. There is no way to avoid it. No one can live forever. Men cannot stop the coming of death”. The Prince remained silently and said no more, he felt the fearfulness of death imprisoning everybody, without there being a way to escape death.
“Chết? Channa ơi! Đây là chết sao? Ta, con trai của đức vua cũng sẽ chết như người đàn ông này hay sao? Vào một ngày nào đó phụ vương của Ta, Yasodharā và tất cả những người Ta từng quen biết cũng sẽ như người đàn ông trên giàn hỏa kia sao?”
“Bất kỳ ai đang sống đều sẽ chết vào một ngày nào đó. Không có cách nào để né tránh điều này, không ai có thể sống mãi mãi và con người không thể nào ngăn cản cái chết đang đến gần”.
Thái tử im lặng và không nói gì thêm nữa. Ngài cảm nhận được một điều rằng, loài người bị cầm tù trong cảm giác sợ hãi đối với cái chết, và không cách gì thoát ra khỏi đó.
81. Prince Siddhattha quietly returned to the palace, went to his room, sat down alone, and thought deeply about what he had seen. Finally he said to himself: “It is too frightful that everybody in the world must die someday and that no one can prevent this. Ah! There must be some way to avoid it. I shall do all I can to discover the way by which father, Yasodharā, myself and all other people will no longer be controlled by the power of old age, sickness and death. I must do my best to find the way!”
Thái tử Siddhattha im lặng quay về cung điện, đi vào phòng, ngồi một mình, và suy ngẫm về những gì chàng đã chứng kiến.
Cuối cùng chàng trầm ngâm suy tư: “Thật đáng sợ khi mọi người trên thế giới đều phải chết và không một ai có thể tránh khỏi điều này. À! Phải có cách nào đó để tránh khỏi, Ta sẽ làm tất cả để tìm ra con đường tốt nhất cho cha Ta, cho Yasodharā, cho chính Ta và tất cả mọi người không còn bị sức mạnh của già, bệnh, chết chi phối!”
82. Sometime later, while the Prince was riding in the garden, he saw a monk in a yellow robe. The Prince watched the monk attentively, perceiving that his mind was full of peace and happiness. So the Prince asked Channa: “What is the life of this sort of person like?” Channa replied: “This is a person who cultivates the way, a person who has left his family and given up his desire in order to seek the way of deliverance from worldly suffering”. The Prince was very pleased to hear the name Samaṇa spoken.
Sau đó một thời gian, khi đang cưỡi ngựa trong vườn, Thái tử nhìn thấy một vị tu sĩ khoác bộ y phục màu vàng, chàng nhìn vị tu sĩ một cách chăm chú, cảm thấy tâm của vị này thật an nhiên và tràn đầy hỷ lạc.
Thấy lạ, Thái tử quay sang hỏi Channa: “Đời sống của người này ra sao?”
Channa trả lời: “Đây là người tu đạo, là người đã lìa xa gia đình và từ bỏ tất cả dục lạc cá nhân để tìm cầu con đường giải thoát khổ đau giữa thế gian”.
Thái tử tràn đầy hân hoan khi nghe đến danh từ Sa môn (Samaṇa).
83. During that whole day, the Prince sat quietly but happily in the garden, his mind captured by the idea of becoming a Samaṇa. Just then someone told the Prince that his wife had given birth to a lovely boy, but instead of expressing his joy, the Prince was a bit flustered, and he said absentmindedly: “This ring has hemmed me in! This ring has hemmed me in!” It was because the Prince spoke in this manner just at this time that the newborn baby was named Rāhula, which means a ring or a circle.
Suốt cả ngày hôm đó, Thái tử ngồi trong vườn, yên lặng và hân hoan, ý nguyện trở thành một vị Sa môn đang xâm chiếm tâm trí chàng. Ngay sau đó, có người tới thưa rằng vợ chàng đã hạ sinh một cậu con trai kháu khỉnh, nhưng thay vì tỏ ra vui mừng, Thái tử lại hơi bối rối, và Ngài bất giác nói: “Sợi dây này trói chặt Ta! Nó ràng buộc Ta!” Chính bởi câu nói nói này của Thái tử mà đứa trẻ vừa chào đời đã được đặt tên là Rāhula, nghĩa là ràng buộc hoặc sự trói buộc.
84. Since the day of Rāhula's birth, those who lived with Prince Siddhattha all clearly observed that the Prince had changed entirely. He was more solemn than before and more contemplative. King Suddhodana was very worried, indeed, about his son's condition; and so he tried with his last effort to reawaken his interest by searching the whole country for the most intelligent and beautiful dancing girls. He lodged them permanently in the Prince's palace, ordering them to sing beautiful songs and to perform pleasing dances, which, he hoped, would arouse the Prince's pleasure and interest in the things of this world.
Từ lúc Rāhula chào đời, tất cả những ai sống bên cạnh Thái tử Siddhattha đều nhìn thấy chàng hoàn toàn thay đổi. Chàng càng lúc trở nên nghiêm nghị và trầm tư hơn trước. Vua Suddhodana thực sự rất lo lắng về tình trạng của con trai mình, cũng vì thế mà đức vua cố gắng bằng mọi cách tìm kiếm những vũ nữ thông minh xinh đẹp nhất trong kinh thành để khơi lại cảm hứng đời sống thế tục trong Thái tử. Ông cho phép họ ở lại chỗ của Thái tử và yêu cầu họ hát những bài hát thật hay và biểu diễn những điệu múa thật quyến rũ mê hồn. Vua cha hy vọng điều này sẽ làm cho Thái tử thích thú và để tâm hơn đối với mọi dục lạc thế gian.
85. At first the Prince watched and listened to the dances and songs provided for him in order not to disappoint his father. But, in reality, these enchanting songs and dances attracted only a few inattentive glances from the Prince, for his mind was concentrated on other things. The Prince was thinking of one problem only; that is, how to liberate himself and all other people completely from the fearfulness of aging, sickness and death. Finally the Prince became tired and fell asleep, and so the dancing girls had a chance to rest until the Prince had awakened and then they performed again.
Ban đầu Thái tử cũng nghe hát và xem những điệu nhảy mà các cô gái biểu diễn để khỏi làm vua cha thất vọng. Nhưng thực ra những bài hát và điệu nhảy đó chỉ thu hút được vài cái nhìn của Thái tử, vì tâm tư của Ngài còn đang thao thức về điều trăn trở khác. Thái tử chỉ suy nghĩ về một vấn đề duy nhất: Đó là làm sao để chính mình và tất cả mọi người thoát khỏi hoàn toàn những điều đáng sợ như tuổi già, bệnh tật và chết chóc. Cuối cùng, Thái tử mệt quá ngủ thiếp đi, những vũ nữ đã tranh thủ thời gian đó để nghỉ ngơi, đợi khi Thái tử tỉnh dậy họ lại tiếp tục biểu diễn.
86. The Prince awakened after a little while, finding that the dancing girls had all fallen asleep because of fatigue. While sleeping, they exhibited all kinds of ugly attributes, being entirely unaware of the impression that they were making. Some slept like pigs; some opened their mouths, dripping saliva which damaged the make-up on their faces; some ground their teeth loudly like angry ghosts. They all appeared to be quite ugly and disgusting. The Prince was very surprised to see how the girls he liked so much could be transformed in this manner.
Lúc sau Thái tử choàng tỉnh dậy, nhìn thấy các vũ nữ đang ngủ vùi sau dáng vẻ đầy mỏi mệt. Trong khi ngủ, tất cả những điểm không đẹp của họ bị lộ ra, cũng như không thể nào tưởng tượng nổi mình đã để lại ấn tượng gì nơi Thái tử. Một vài người lăn ra ngủ như những con lợn; có người há hốc miệng, nước dãi chảy thành dòng trên gương mặt nhợt nhạt son phấn; một số người nghiến răng kèn kẹt như những con quỷ đang giận dữ. Tất cả đều trông xấu xí và gớm ghiếc. Thái tử quá đỗi kinh ngạc khi thấy những cô gái dễ thương mà chàng yêu mến bỗng dưng thành ra thế này.
87. This picture of the sleeping girls, once regarded as pretty and lovely by the Prince, now appeared to be terribly ugly. It was, indeed, the most nauseating thing that had ever happened to the Prince. Therefore, the Prince became determined to shake off all that disturbed his mind and to go out to search for real happiness and to become free from all pain and suffering. Prince Siddhattha rose silently, careful to avoid waking the girls, quietly left the room, and ordered Channa to get his horse Ka haka ready.
Những cô gái này mọi khi xinh đẹp kiêu sa là thế, vậy mà khi ngủ say họ bỗng nhiên trở nên xấu xí vô cùng. Đây là trải nghiệm ghê tởm nhất trong đời chàng cho tới lúc này. Vì vậy, Thái tử quyết tâm từ bỏ tất cả những gì có thể cản trở không cho chàng ra đi tìm kiếm hạnh phúc chân thật và thoát khỏi tất cả mọi trói buộc đau khổ. Thái tử Siddhattha lặng lẽ đứng lên, cẩn thận từng bước rời khỏi phòng để không làm đánh thức những cô gái, rồi bảo Channa chuẩn bị con ngựa Ka haka cho mình.
88. While Channa was getting the horse, Prince Siddhattha felt that he should see his newborn son before he left. So he went to the room of Princess Yasodharā, where he found the Princess, holding the baby in her arms, sound asleep. The Prince thought: “If I move her hand, she will certainly wake up; if she wakes up, she will stop me from going. But I must go immediately, and I shall come back to see my son and his mother after I find the ultimate truth”.
Trong lúc Channa đang chuẩn bị ngựa, Thái tử Siddhattha cảm thấy mình nên nhìn đứa con trai vừa mới chào đời trước khi rời đi. Vì vậy chàng đến phòng của công chúa Yasodharā, nhìn thấy nàng đang ôm đứa con trai trong lòng say giấc nồng. Thái tử nghĩ rằng: “Nếu Ta nắm lấy tay nàng thì nàng chắc chắn sẽ tỉnh giấc và sẽ ngăn không cho Ta rời khỏi nơi đây. Vậy Ta phải lập tức lên đường và sẽ quay lại gặp mẹ con nàng sau khi đã tìm ra sự thật tối thắng”.
89. In the silence of the night, Prince Siddhattha left the palace without waking anyone. He left the city riding his very understanding horse Kaṇṭhaka. Only Channa followed him, and no one hindered them. After riding for a little while, the Prince stopped his horse and turned around, taking a final look at the city of Kapilavatthu in the pure, bright moonlight; but his will to go on was unshaken!
Trong đêm tối tĩnh lặng, Thái tử Siddhattha rời bỏ hoàng cung. Chàng cưỡi con ngựa Kaṇṭhaka yêu quý, dần tiến ra khỏi chốn đô thành, chỉ có Channa theo sau chứ không hề có ai ngăn cản chàng. Đi được một đoạn, Thái tử dừng ngựa và ngoảnh lại nhìn thành phố Kapilavatthu dưới ánh trăng sáng vằng vặc, nhưng ước nguyện của chàng chẳng hề lay chuyển.
90. Prince Siddhattha, riding his horse Kaṇṭhaka, arrived at the banks of the Anoma River by dawn. The Prince dismounted, stood at the riverside, took off the precious dress he was wearing and handed it to Channa, resolutely ordering him to take it and Kaṇṭhaka back to Kapilavatthu and tell the King what had happened. At this time, Prince Siddhattha Gautama of the Sākya Clan was twenty-nine years old. He left his country and family to become a Samaṇa in order to conquer all the pain and suffering of mankind.
Thái tử Siddhattha cưỡi con ngựa Kaṇṭhaka đến bên bờ sông Anoma khi mặt trời vừa ló rạng. Chàng cởi bỏ bộ y phục quý đang mặc trao cho Channa, kiên quyết bảo Channa cùng con ngựa Kaṇṭhaka quay lại kinh thành Kapilavatthu và tâu lại mọi việc với phụ vương. Lúc này, Thái tử Siddhattha Gautama của dòng tộc Sakya đã 29 tuổi. Ngài từ bỏ đất nước và gia đình, trở thành một vị Sa môn với niềm khát khao nhiếp phục được hoàn toàn những nỗi khổ niềm đau của nhân loại.
91. After Channa left him to go back to Kapilavatthu with the dress and Ka haka, Siddhattha stayed for seven days in the mango grove of Anupiya, near the bank of the Anoma River; then he journeyed southward and came to Rājagaha the capital of the country of Magadha, the king of which was named Bimbisāra. In the morning, he bathed in a stream near the city; then, like all Sama as, he entered the city to beg for food. The people of Rājagaha, noticing the distinguished appearance of Siddhattha, offered him their best food.
Sau khi Channa đem bộ y phục cùng với con ngựa Kaṇṭhaka trở lại kinh thành Kapilavatthu, Thái tử Siddhattha ở lại vườn xoài của Anupiya bên dòng sông Anoma bảy ngày. Sau đó, Ngài đi về phía Nam và đến thành Rājagaha thủ đô nước Magadha, nơi trị vì của vua Bimbisāra. Vào sớm mai, giống như các Sa môn khác, Ngài tắm rửa tại con suối ở bìa rừng, rồi thong thả đi vào thành Rājagaha khất thực. Người dân ở đây đặc biệt chú ý đến dung nghi đạo mạo của Siddhattha, và đem những món ăn ngon nhất cúng dường Ngài.
92. Having obtained his meal for the day, Siddhattha left Rājagaha, heading toward Pandava Hill, where he ate his food. Since the day that Siddhattha had first begged for food in the city, the news had spread that a Samaṇa of distinguished appearance and of incomparably grave and noble demeanour had arrived. This news also reached the palace. King Bimbisāra, knowing of the presence of such a Samaṇa, sent his son to check out the situation. He discovered that this Samaṇa was the Prince of Kapilatthu to check out the situation. He discovered that this Samaṇa was the Prince of Kapilatthu, the successor to the throne, who had given up everything and become a Bhikkhu in search of the means to liberate all mankind from the imprisonment by of old age, sickness, and death.
Khất thực vừa đủ thức ăn trong một ngày, Siddhattha rời khỏi kinh thành Rājagaha đi về hướng đồi Pandava dùng bữa. Kể từ lần đầu tiên Ngài đi khất thực ở kinh thành, người dân đã lan truyền với nhau rằng có một vị Sa môn dung mạo tôn quý và phong thái trang nghiêm không ai sánh bằng đã đến đây. Tin tức về vị Sa môn này cũng truyền đến cung điện vua Bimbisāra, ông đã lệnh cho một vị hoàng tử đi xem rõ thực hư ra sao. Hoàng tử biết được vị Sa môn này chính là Thái tử kế thừa vương quốc Kapilavatthu, người đã từ bỏ tất cả mọi thứ và trở thành một vị khất sĩ để tìm ra phương pháp giúp cho hết thảy nhân loại thoát khỏi ngục tù của sự già nua, bệnh tật và cái chết.
93. Having this knowledge, King Bimbisāra went to Pandava Hill and invited Siddhattha to stay in his capital city, where it would be very convenient for the King to offer him food and all the necessities of life. But Siddhattha graciously declined the invitation, saying: “I cannot remain in one place before realizing my goal and aspiration”. So King Bimbisāra made an agreement with Siddhattha to the effect that when his aspiration of perfect enlightenment was realized, he would come first to the city of Rājagaha to instruct and enlighten King Bimbisāra and his people.
Sau khi đã tìm hiểu ngọn ngành, vua Bimbisāra đi đến đồi Pandava và thỉnh mời Siddhattha ở lại kinh thành của ông, nơi đây sẽ rất thuận tiện cho vua cúng dường thức ăn và những vật dụng cần thiết cho Ngài. Nhưng Siddhattha nhã nhặn chối từ lời thỉnh cầu, và nói rằng: “Tôi không thể ở lại nơi này trước khi chưa tìm ra con đường giải thoát như chí nguyện của mình”. Tuy nhiên, Siddhattha đã ước hẹn với vua Bimbisāra rằng khi đại nguyện giác ngộ hoàn toàn thành tựu, Ngài sẽ đến thành Rājagaha để hóa độ cũng như soi sáng cho vua Bimbisāra và các thần dân của vương quốc.
94. One day Siddhattha left Rājagaha to go to the foot of the mountain where many hermits and sages dwelt. On the way, he saw dust falling down from the mountain amıdst the pounding sound of animal hoofs. Going closer, he found a large flock of sheep and goats moving along like a bank of clouds. They were being helplessly driven toward the city. At the rear of the flock, a little lamb was straggling, limping along painfully, its leg wounded and bleeding. Siddhattha noticed the little lamb and its mother walking in front of it constantly looking back in deep concern for her offspring. His heart was filled with pity.
Ngày nọ, Siddhattha rời thành Rājagaha đến dưới chân núi, nơi những vị ẩn sĩ và những bậc hiền nhân đang cư trú. Trên đường đi, Ngài thấy bụi bay xuống mịt mù từ trên núi, tiếng chân thú rừng nện thình thịch trên nền đất. Khi đến gần, Ngài thấy một đàn lớn cừu và dê đang chạy, y như một đám mây khổng lồ. Những con thú này đang bị người ta lùa về phía kinh thành. Ở phía cuối đàn, một con cừu nhỏ bước đi loạng choạng, chân bị thương và rớm máu. Siddhattha để ý đến chú cừu nhỏ và thấy mẹ của nó đang đi phía trước, thỉnh thoảng lại ngoái nhìn cừu con phía sau đầy lo lắng. Điều đó đã khiến trái tim Ngài tràn ngập lòng thương xót.
95. So Siddhattha took the little lamb with the wounded leg up into his arms, gently fondling it while walking along behind the flock. When he saw the shepherds, he asked: “Where are you driving this herd to? They should normally be driven back in the evening! Why do you drive them back at noontime?” The shepherds replied: “The King is holding a big sacrifice today, and we have been ordered to bring one hundred sheep and goats each to the city at noontime”. Siddhattha said: “I'll go with you”. He carried the little lamb in his arms all the way to the city.
Vì vậy trong lúc đi theo đàn cừu, Thái tử Siddhattha bế con cừu non bị thương ở chân trong vòng tay, nhẹ nhàng vuốt ve nó.
Khi nhìn thấy những người chăn cừu, Ngài hỏi: “Các ông định đưa chúng đi đâu vậy? Thường thì vào ban đêm mới dắt chúng về! Tại sao mới buổi trưa các ông đã dắt chúng về rồi?”
Người chăn cừu đáp: “Hôm nay đức vua tổ chức một buổi cúng tế lớn, và chúng tôi được lệnh đem cừu và dê mỗi loại 100 con vào kinh thành đúng giữa trưa”.
Siddhattha bảo: “Tôi sẽ đi cùng các ông”.
Vậy rồi, Ngài bế chú cừu non trên tay trong suốt quãng đường đến kinh thành.
96. Walking behind the flock of sheep, Siddhattha reached the city; then he went toward the palace, where the sacrifice was being held. The King and a group of priests of the fir e-wor shipping cult were chanting hymns, while a big fire was burning on the altar. They were about to kill the flock of sheep as a sacrifice, but when the leader of the fire-worshippers raised his sword to sever the head of the first sheep, Siddhattha quickly moved up and stopped him.
Siddhattha đi bộ phía sau đàn cừu đến kinh thành, sau đó đi thẳng tới cung điện nơi đang chuẩn bị tổ chức buổi tế lễ. Nhà vua và nhóm thầy tư tế tôn thờ thần lửa đang tụng đọc Thánh điển, trong khi lửa lớn rực cháy trên bàn, họ chuẩn bị khai đao giết đàn cừu để làm vật hiến tế. Khi chủ tế chuẩn bị giơ kiếm định chặt đầu con cừu đầu tiên, thì Thái tử Siddhattha nhanh chóng tiến tới ngăn ông ta lại.
97. In a grave and solemn manner, Siddhattha stopped the action of the leader of the fire-worshippers and persuaded the participants to discontinue the ceremony. He said to King Bimbisāra: “Your Majesty! Don't let this worshippers destroy the lives of these poor animals”. Then he pointed out to the worshippers themselves: “Life is inconceivably precious. Those who want to destroy it should realize that once it is destroyed it can never be recovered”. Siddhattha also spoke to people who were standing as witnesses to this event: “All living creatures cling to life just like human beings. Why should people exert brutal force upon these friendly animals? The suffering of birth, old age, sickness and death will naturally take away their beloved lives”.
Một cách từ tốn và cẩn trọng, Siddhatta thuyết phục người đứng đầu nhóm tín đồ thờ thần lửa để ông này ra lệnh ngừng giết hại những con thú, đồng thời thuyết phục những người đang hành lễ dừng buổi lễ lại.
Ngài nói với vua Bimbisāra: “Bệ hạ! Đừng để những người chủ tế phá hủy sự sống của những con vật đáng thương này”.
Sau đó, Ngài nhẹ nhàng thuyết phục những vị chủ tế: “Sự sống rất đáng quý, những ai muốn phá hủy nó xin hãy hiểu rằng sự sống đã mất đi thì không bao giờ có thể lấy lại được”.
Siddhattha cũng nói với những người đang tham dự buổi lễ này: “Cũng giống như loài người, mọi sinh vật đều ham sống sợ chết. Tại sao con người lại nhẫn tâm dùng vũ lực tàn bạo đối với những con vật dễ thương như vậy? Rồi sau này những nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết sẽ đeo bám những người thân của họ”.
98. Siddhattha continued: “If human beings expect mercy, they ought to show mercy, for, according to the law of cause and effect, those who kill will, in turn, be killed. In short, if we expect happiness in the future, we must do no harm to any kind of creature whatsoever. For whoever sows the seeds of sorrow and agony will undoubtedly reap the same fruits”.
Siddhattha nói tiếp: “Nếu loài người mong nhận được yêu thương và hạnh phúc, thì họ cần trải rộng lòng yêu thương. Vì theo quy luật nhân quả, những ai sát hại rồi sẽ bị quả báo do việc sát hại. Nói tóm lại, nếu chúng ta mong cầu hạnh phúc ở tương lai, thì chúng ta không nên làm tổn hại đến bất kỳ một sinh mạng nào. Vì những ai gieo hạt giống khổ đau đến cho người sẽ gặt lại những quả khổ tương tự”.
99. The manner in which Siddhattha spoke to the King, the fire-worshippers and the people of Rājagaha was peaceful and elegant and full of compassion yet, at the same forcefully and determined. He completely changed the intention and belief of the King and the fire- worshippers. So King Bimbisāra again asked Siddhattha to stay in his country to teach the people to be merciful and to protect animals. Siddhattha was deeply grateful to the King for his offer, but since he had not yet attained his goal of complete enlightenment, he once again gracefully declined the invitation and departed.
Thái tử Siddhattha nói với nhà vua, những người chủ tế và dân chúng thành Rājagaha với phong thái ôn hòa, tao nhã và giàu lòng từ ái, nhưng cũng đầy uy lực và quyết đoán. Ngài đã thay đổi hoàn toàn ý định và niềm tin của vua và các vị chủ tế theo đạo thờ lửa. Vua Bimbisāra một lần nữa đề nghị Siddhattha ở lại đất nước của ông để chỉ dạy cho các thần dân, khiến họ trở nên từ bi và bảo vệ động vật. Thái tử rất cảm kích trước lời đề nghị của nhà vua, nhưng vì chưa đạt được mục đích giác ngộ tối thượng nên một lần nữa Ngài khéo léo từ chối và rời đi.
100. Leaving Rājagaha, Siddhattha journeyed on toward the place where Āḷāra Kālāma the sage, lived. Āḷāra Kālāma was one of the best known scholars of that time, who had founded many institutes for learning of all kinds. Siddhattha stayed with Āḷāra Kālāma and studied very diligently under him. Soon his knowledge and capability could be favorably compared to his teacher's, and he became recognized as a prominent and virtuous disciple of the old sage, a situation which made Āḷāra Kālāma very happy.
Rời khỏi kinh thành Rājagaha, Siddhattha du hành đến nơi cư ngụ của nhà hiền triết Āḷāra Kālāma. Āḷāra Kālāma, một trong những nhà hiền triết bậc nhất thời bấy giờ, đã thành lập rất nhiều đoàn thể tu học trên mọi phương diện. Siddhattha ở lại với Āḷāra Kālāma và tinh tấn tu học với vị thầy này. Chẳng bao lâu, tri thức cũng như năng lực của Siddhattha đã sánh ngang với thầy của mình. Và Ngài được công nhận là đệ tử xuất chúng, có phẩm hạnh tốt nhất trong số các môn đệ của thầy, điều này khiến Āḷāra Kālāma vô cùng hoan hỷ.
101. One day Āḷāra Kālāma said to Siddhattha: “Now you know everything that I know and are able to teach as well as I can. What I know you know equally well. There is little difference between us. Stay here and help me teach the students!”
Siddhattha asked: “Don't you have anything else to teach me, Master? Can't you tell me how to escape from old age, sickness and death?” Āḷāra Kālāma made no reply, for he had taught Siddhattha all that he knew.
Một ngày nọ, Āḷāra Kālāma nói với Siddhattha: “Hiện tại, những gì ta biết thì con cũng đã biết và có thể truyền đạo giống như ta. Những gì ta đạt được thì con cũng đã nắm bắt rõ ràng. Giờ đây, giữa con và ta không có gì khác biệt cả. Hãy ở lại đây giúp ta dạy các đệ tử!”
Siddhattha thưa: “Thưa thầy! Thầy không còn gì để dạy con nữa sao? Thầy không thể nói cho con cách thoát khỏi già, bệnh và chết ư?” Āḷāra Kālāma không trả lời được, vì ông đã dạy tất cả những điều mà mình biết cho Siddhattha rồi.
102. What the sage Āḷāra Kālāma had taught Siddhattha consisted mainly of the knowledge of meditation, the way to make the mind very tranquil in order to eliminate all consciousness about existence in any realm (Ākimcanyāyatana), and then how to remain in the joy of samādhi. But this kind of knowledge was neither thorough nor ultimate. It failed to satisfy Siddhattha, for it did not provide an answer to the problems of life and death, old age and sickness that had constantly occupied his mind. For this reason Siddhattha finally departed again to seek someone who might have higher knowledge than Āḷāra Kālāma and who would be able to teach him more.
Nhà hiền triết Āḷāra Kālāma dạy cho Siddhattha về thiền định, con đường làm cho tâm an tịnh để dập tắt mọi tư tưởng hiện hữu ở tầng trời Vô Sở Hữu Xứ và cách duy trì hỷ lạc trong định. Nhưng chỗ thấy biết này vốn chưa phải là cảnh giới rốt ráo sau cùng. Điều này không thỏa mãn được ý nguyện trong lòng Thái tử Siddhattha, vì nó vẫn chưa thể giải quyết được già, bệnh, chết - ba vấn đề vốn ám ảnh tâm trí của Ngài. Nên một lần nữa, Ngài quyết định ra đi tìm người có thấy biết cao hơn Āḷāra Kālāma và có thể dạy Ngài nhiều hơn thế.
103. Later, Siddhattha learned that an old sage named Uddaka Rāmaputta had profound learning and a highly virtuous character. So he approached Udraka Rāmaputra, became his pupil, and studied and practiced devotedly until his knowledge and capability were equal to his master’s. Uddaka Rāmaputta also became very fond of Siddhattha, admiring his intelligence and talent, and urged him to stay and help him teach his disciples.
Sau đó, Siddhattha nghe nói về nhà hiền triết Uddaka Rāmaputta, một nhân vật có học vấn uyên thâm và đạo hạnh cao vời. Vì thế, Ngài đi tìm thầy Uddaka Rāmaputta, trở thành đệ tử của vị ấy, nghiêm túc học tập và thực hành cho đến khi sự hiểu biết và năng lực của Ngài sánh ngang với thầy mình. Uddaka Rāmaputta cũng rất mến mộ Siddhattha, ông đã ca tụng trí tuệ, tài năng của Ngài và mời Ngài ở lại để cùng ông dẫn dắt các đệ tử.
104. But Siddhattha was not completely satisfied with Uddaka Rāmaputta's teaching. What he taught was, indeed, higher than Āḷāra Kālāma's teaching had been. Practising with Uddaka Rāmaputra enabled one to silence ones mind so that he could be completely detached from all things, ideas and feeling. In such a mental state one could hardly say that one existed nor could one say that one did not exist (Naivasamjñā-Nāsaṃñāyatana). Even so, one still could not clearly understand the ever-present problem of life and death. Therefore, Siddhattha left Uddaka Rāmaputra's place also, and now he decided to stop visiting and learning here and there, around and about, but to search for the ultimate truth by means of his own wisdom and effort instead.
Quả thật, những gì vị ấy dạy cao hơn so với Āḷāra Kālāma, nhưng Siddhattha thấy vẫn chưa thỏa mãn được tâm nguyện ban đầu. Thực hành với Uddaka Rāmaputta có thể giúp người ta an tịnh tâm để hoàn toàn viễn ly mọi tài vật, ý tưởng và cảm giác. Trong trạng thái tâm như vậy, hành giả thật khó có thể nói rằng có hay không có sự tồn tại, cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (Naivasamjñā-Nāsaṃñāyatana). Dù vậy, vẫn chưa có một ai thấu rõ về sự sống và cái chết, hai vấn đề muôn thuở giữa thế giới nhân sinh. Sau đó, Siddhattha lại từ biệt Uddaka Rāmaputta và quyết định dừng việc ngao du khắp nơi tìm thầy học đạo, thay vào đó, Ngài sẽ tìm cầu chân lý tối thượng bằng trí tuệ và nỗ lực của chính mình.
105. In that era, just as in modern times, there were many Samaṇa of various cults in India who renounced their families to practice asceticism. They believed that, by starving themselves or tormenting their physical bodies, they would be reborn in the heavenly states amid eternal pleasure, and that the more they suffered during the present life, the more pleasure they would be rewarded with in the future. So they practiced hardship by indulging in all kinds of tough and strenuous acts.
Từ xưa đến nay, tại Ấn Độ có rất nhiều nhà tu hành theo các giáo phái khác nhau đã từ bỏ gia đình để thực hành khổ hạnh. Họ tin rằng, bằng cách nhịn đói và tự hành xác thì sẽ được tái sinh ở cõi trời hỷ lạc miên viễn, ở hiện tại càng chịu khổ bao nhiêu thì trong tương lai càng được sung sướng bấy nhiêu. Vì vậy, họ đã nỗ lực khổ luyện bằng nhiều phương pháp thực hành khó khăn và vất vả.
106. Some of them gradually reduced their daily food intake till they were eating almost nothing at all and became only skin and bones. Some stood silently on one foot. Some raised one of their hands, pointing to the sky until poor blood circulation finally dried and crippled their arms. Some clasped both hands tightly together and never loosened them, so that the fingernails completely penetrated the palms and grew through to the back of the hands. Some of them slept on boards pierced and fully covered with sharp nails.
Một vài người trong số họ giảm dần lượng thức ăn hàng ngày cho đến khi họ hầu như không ăn bất cứ thứ gì và chỉ còn da bọc xương. Có người đứng yên trên một chân, hay dơ một tay lên trời cho đến khi máu không tuần hoàn được cuối cùng cánh tay trở nên khô cứng, tàn tật. Cũng có người sẽ đan chặt hai tay vào nhau và không bao giờ nới lỏng để móng tay ăn sâu vào lòng bàn tay và mọc xuyên qua mu bàn tay. Và thậm chí, một số người trong số họ còn ngủ trên tấm ván đóng đầy đinh sắc nhọn.
107. Siddhattha did try, in various ways, to become an ascetic. He thought that if he increased his hardship to a certain degree, he would most certainly become enlightened. So when he came to Uruvilvā on his way to Magadha and found there a nice quiet place with level ground and lush trees, cool water flowing in a nearby stream, and a Senāni Village not far away where he could to go for alms, he decided to remain at that place to practice austere asceticism, using many special techniques.
Để trở thành một nhà tu khổ hạnh, Siddhattha đã cố gắng thử thực hành mọi cách khác nhau. Ngài nghĩ rằng nếu tăng độ khó đến một mức độ nhất định thì chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ. Vì vậy, trên đường đi đến thành Magadha, khi đi qua rừng Uruvilvā, Ngài đã tìm thấy một nơi yên tĩnh xinh đẹp, mặt đất bằng phẳng, cây cối xanh tươi, bên một dòng suối mát lành, cách đó không xa là ngôi làng Senāni, nơi Ngài có thể đi khất thực mỗi ngày. Vậy là Thái tử quyết định dừng chân tại đó, và vận dụng những phương pháp đặc biệt để thực hành khổ hạnh một cách miên mật.
108. At that time there were also five other persons- Ajñāta Koañña, Bhadrika, Bāspa, Mahānāma and Assaji-who had become Sama as and followed Siddhattha to Uruvilvā. They believed that Siddhattha would finally attain enlightenment by practising asceticism with such complete devotion, and that when he became enlightened he would naturally teach them, as his disciples, what he had attained.
Vào lúc đó, có năm vị tên là Ajñāta Koañña, Bhadrika, Bāspa, Mahānāma, Assaji cũng đã trở thành Sa môn và theo Siddhattha đến Uruvilvā. Họ tin rằng, với sự thực tập khổ hạnh tha thiết tận tâm như vậy, cuối cùng Siddhattha cũng sẽ thành tựu giác ngộ. Và đương nhiên, Ngài sẽ dạy cho đệ tử của mình những gì mà mình đã đạt được.
109. Siddhattha practiced a wide variety of special forms of asceticism and then began to reduce his diet until finally he arrived at the point where he was eating nothing at all. He became so thin that his whole bony frame was clearly visible, yet this hard practice did not discourage him one bit. One day, while he was meditating alone, he fainted because of exhaustion. At that time a shepherd boy just happened to pass by. He immediately surmised that Siddhattha was about to die because he had fasted too much, for the people of that place all knew that this holy man had eaten nothing for many days.
Siddhattha thực hành nhiều phương thức khổ hạnh đặc biệt và bắt đầu giảm dần thức ăn của mình cho đến lúc Ngài không ăn bất cứ thứ gì nữa. Ngài trở nên gầy gò tới mức người ta có thể thấy rõ toàn bộ khung xương trên thân Ngài. Tuy nhiên, sự thực hành khổ hạnh đầy quyết liệt này không hề khiến cho Ngài nhụt đi ý chí. Một hôm khi đang ngồi thiền, Ngài đã ngất đi và gục xuống do kiệt sức. Lúc đó, một cậu bé chăn cừu tình cờ đi ngang qua và đoán rằng Siddhattha sắp chết vì nhịn ăn quá lâu. Người dân nơi đây vốn đều biết vị Thánh nhân này đã không ăn gì từ nhiều ngày rồi.
110. So he ran back to his flock, pulled out a mother goat and returned to the place where Siddhattha had fainted, and he helped Siddhattha recover consciousness by feeding him goat's milk. Now Siddhattha felt better and began to think and reason: “How did he faint and revive, why was he better now?” Finally he concluded that without the goat's milk from the shepherd boy he would have died before ever attaining enlightenment.
Thế rồi, cậu bé đi tới chỗ đàn dê của mình dắt một con dê mẹ đến bên chỗ Siddhattha đang ngất xỉu, và cho Ngài uống từng ngụm sữa dê để cho Ngài tỉnh lại. Lúc này, khi đã cảm thấy khỏe dần lên, Ngài bắt đầu suy nghĩ và lập luận: “Ta ngất đi và tỉnh lại như thế nào? Tại sao bây giờ Ta khỏe hơn?” Cuối cùng Ngài kết luận rằng nếu như không có sữa dê từ cậu bé chăn cừu thì Ta sẽ chết trước khi đạt được giác ngộ.
111. The shepherd boy received Siddhattha's blessing and returned to his flock with great joy for having had the opportunity to help revive the holy man he so revered. Siddhattha continued to sit and meditate under the tree, and at dusk he heard a group of girls singing on their way to the city: “With the strings too loose, the lute does not sound. Tighten the strings too much, they will break apart. Not too loose, not too tight, the lute sounds so nice!”
Cậu bé chăn dê nhận được lời chúc tốt lành của Siddhattha và trở lại đàn dê của mình, lòng tràn đầy hoan hỷ vì có cơ hội cứu sống một bậc Thánh nhân tôn kính. Thái tử Siddhattha tiếp tục ngồi thiền định dưới gốc cây. Vào lúc chạng vạng tối, Ngài đã nghe một nhóm các cô gái hát trên đường đi vào thành: “Dây đàn quá chùng, sẽ không phát ra âm thanh; còn nếu quá căng, dây đàn sẽ đứt. Dây đàn không quá chùng cũng không quá căng, tiếng đàn cất lên sẽ thật tuyệt vời!”
112. Siddhattha was deeply moved by the girls' song. He had tightened his string of life too much! Should he die before attaining enlightenment, all the hardships he had gone through would be meaningless.
Tormenting one's physical body was certainly not the right way to seek the ultimate truth! Thus he decided to stop practising asceticism and only to continue his mental diligence in his search for ultimate enlightenment. From that time on, Siddhattha regularly went for alms and ate every morning.
Siddhattha vô cùng xúc động khi nghe lời hát từ các cô gái. Thái tử đã ép bản thân sống quá khắc nghiệt, nếu Ngài chết trước khi đạt được giác ngộ giải thoát thì tất cả những khó khăn mà Ngài đã vượt qua sẽ trở nên vô nghĩa. Chắc chắn rằng khổ hạnh ép xác không phải là con đường đúng đắn để tìm ra chân lý tối thượng. Bởi vậy, Ngài quyết định chấm dứt việc tu khổ hạnh và tiếp tục thực hành quán sát tâm để tìm ra con đường giác ngộ tối thượng. Kể từ đó, Siddhattha thường xuyên đi khất thực và thụ trai vào mỗi buổi sáng.
113. Now Siddhattha's health was completely restored, and his complexion became as glowing as gold, the same complexion he had when he lived in the royal palace before. Although Siddhattha was quite clear now that attempting enlightenment by practising strict asceticism was just as impossible as twining sand to make a rope, the five Sama a who had followed him felt quite otherwise. They still firmly believed that practising strict asceticism was the only way to enlightenment. When Siddhattha gave up asceticism and returned to normal eating habits, they thought he had become a glutton, so they left him alone and went to Migadāya (now Sarnath) near Varanasi (now Benares).
Bấy giờ, sức khỏe của Siddhattha đã hoàn toàn hồi phục, đồng thời màu da của Ngài ngày càng trở nên tươi sáng tựa vàng ròng, giống như màu da trước kia khi Ngài còn sống trong hoàng cung. Mặc dù Siddhattha đã hiểu rõ rằng việc nỗ lực để giác ngộ bằng thực hành khổ hạnh ép xác là điều không thể, cũng giống như việc lấy cát bện lại thành một sợi dây thừng, nhưng năm vị Sa môn khổ hạnh đồng tu hoàn toàn nghĩ khác. Họ kiên quyết tin rằng tu tập khổ hạnh ép xác mới là con đường duy nhất đưa đến giác ngộ. Khi Siddhattha từ bỏ việc khổ hạnh và ăn uống bình thường trở lại, họ nghĩ rằng Ngài là một người tham tiếc dục lạc, nên đã bỏ Ngài ở lại một mình và đi đến Migadāya (bây giờ là Sarnath) gần Varanasi (bây giờ là Benares).
114. One morning a girl named Sujāta, who lived in the village cooked a pot of delicious rice porridge milk and brought it over as an offering to Siddhattha. After presenting the offering, the noble girl said: “I wish you success in your aspiration as I have succeeded in my aspiration!”
Siddhattha ate the porridge she offered him and felt it was very beneficial in improving both his physical and mental stamina.
Sujāta had made a wish that a child be borne to her and then she offered food to Siddhattha to show her gratitude.
Vào buổi sáng thanh quang nọ, có cô gái tên Sujāta sống trong làng đã nấu một nồi cháo sữa ngon và mang đến dâng cúng Siddhattha. Sau khi bày biện thức ăn cúng dường, người thiếu nữ đức hạnh thưa rằng: “Con kính mong Ngài sẽ thành tựu được nguyện vọng của Ngài như con đã thành tựu nguyện vọng của con”.
Siddhattha thụ dụng cháo sữa và nhận thấy bát cháo đã cải thiện đáng kể cả thể chất lẫn tinh thần của Ngài.
Sujāta mong ước sinh được một em bé và sau đó cô ấy đã dâng phẩm thực lên cúng dường Siddhattha để bày tỏ lòng biết ơn.
115. That same day, Siddhattha went for a bath in the Neranjara River; then he sat down under a Sāla tree by the riverbank and concentrated himself in meditation, hoping to attain enlightenment in the silence of the night when no one might be passing by. At dusk Siddhattha left the Sāla tree and walked to a large Bodhi tree, which he had chosen previously as the place for his meditation. On the way he met a straw-peddler named Sotthiya and accepted from him an offering of a bunch of straw. So he made a seat with the straw and sat down under the large Bodhi tree, facing east.
Cũng trong ngày hôm đó, sau khi tắm gội bên dòng sông Neranjara, Siddhattha đến ngồi dưới gốc cây Sāla ngay cạnh dòng sông và tập trung thiền định, với hy vọng đạt được giác ngộ trong đêm thanh vắng không một bóng người. Trời chạng vạng tối, Siddhattha rời khỏi cây Sāla và đi đến một cây Bồ đề to lớn, nơi mà trước đây Ngài đã chọn làm nơi thiền định. Trên đường đi, Thái tử đã gặp một người bán cỏ tên Sotthiya và cậu ấy đã cúng dường lên Ngài một bó cỏ. Ngài trải cỏ làm chỗ tọa thiền và ngồi xuống dưới gốc cây Bồ đề cổ thụ, mặt quay về hướng Đông.
116. Having sat down under the Bodhi tree, Siddhattha made a vow to himself: “Even if my blood dries up and my muscles shrink leaving skin and bones only, I will not leave this seat until I finally and absolutely achieve the goal of finding, for myself and all mankind, a way of deliverance from the suffering of the turning round life and death”. In short, Siddhattha sat under the Bodhi tree and vowed that he would not quit the spot until he had attained enlightenment.
Sau khi ngồi xuống dưới gốc Bồ đề, Siddhattha phát nguyện rằng: “Dù cho máu này có khô cạn, thịt này co rút lại chỉ còn da bọc xương, Ta quyết không rời khỏi chỗ này cho đến khi đạt được mục đích tối thượng là tìm ra con đường giải thoát khỏi luân hồi khổ đau cho bản thân và tất cả nhân loại”. Tóm lại, Siddhattha đã ngồi dưới gốc cây Bồ đề và phát lời thệ rằng Ngài sẽ không rời đi cho đến khi đạt được giác ngộ giải thoát.
117. From that time on, Siddhattha concentrated his will and aroused his mind to ward will off the disturbances coming from nature and to cast away the memory of the illusory joys of the past. He completly detached himself from all worldly thoughts and devoted his whole mind to the search for the ultimate truth. In his searching and reflection he asked: “How does all suffering arise? How can one detach himself from suffering?” Since Siddhattha was still a young man, only thirty-five years old, images of the pleasures provided for him by his father when he lived in the palace still appeared, at times, in his mind.
Kể từ lúc đó, Siddhattha tập trung tư tưởng và khơi dậy tâm trí của mình để tránh khỏi sự nhiễu loạn từ bên ngoài, và đồng thời loại bỏ dần những ký ức vui vẻ của quá khứ thường hiện lên trong tâm tưởng. Ngài đã hoàn toàn từ bỏ những vọng niệm thế gian và dành toàn bộ tâm trí để tìm kiếm chân lý tối thượng. Trong khi tìm kiếm và suy nghiệm, Ngài tự hỏi: “Làm thế nào mà những khổ đau sinh khởi? Làm sao một người có thể tách bản thân ra khỏi đau khổ?” Vì Siddhattha vẫn còn là một thanh niên, Ngài chỉ mới 35 tuổi nên những hình ảnh xa hoa, hạnh phúc trong hoàng cung được vua cha ban cho trước kia thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong tâm trí Ngài.
118. These phantoms distracted Siddhattha's mind, enticing him to linger on the pleasures of the past and even arousing his desire to return to the royal palace and to enjoy the sensual life of former days. But because of his resolute vow, Siddhattha resisted these temptations with forceful mental effort. Finally he succeeded in completely dispersing all the illusory thoughts that were disturbing him. His mind became calm and tranquil like pond water on a breezeless day. He was in deep samādhi.
Những vọng tưởng này làm điên đảo tâm trí Siddhattha, lôi kéo Ngài phóng tâm theo những thú vui của quá khứ, thậm chí còn khơi dậy ham muốn trở lại hoàng cung để tận hưởng đời sống dục lạc trước kia. Nhưng vì lời thề kiên quyết của mình, Siddhattha đã đối trị những ý niệm thôi thúc này bằng nỗ lực mạnh mẽ trong tâm. Cuối cùng, Thái tử cũng thành tựu trong việc dẹp tan hoàn toàn những vọng tưởng đã chi phối mình, tâm Ngài tĩnh lặng như mặt nước hồ thu không một gợn sóng. Ngài nhập sâu vào định.
119. In the tranquillity of samādhi, Siddhattha searched and observed mentally, trying to find the source of his own life. Thus he acquired the power of being aware of all his previous lives. Through further insight, he also acquired the divine vision (Dibbacakkhu), the power to see all things and to know the future rebirths of all beings. He thus came to realize that the unceasing cycle of death and rebirth of all beings is solely a manifestation of one's karma; that is, one's thoughts and deeds. Some people could be born to a better life than they presently enjoyed, encountering all sorts of happiness, because they had done good deeds. Some, on the other hand, could be born to a condition worse than their present ones and suffer very much because they had done bad deeds.
Trong sự tĩnh lặng của thiền định, Siddhattha trầm ngâm và quan sát tâm trí, cố gắng tìm ra cội nguồn sự sống chính mình. Nhờ vậy, Ngài đã thành tựu Túc Mạng Minh (Pubbenivāsanussati), năng lực nhớ lại tất cả các kiếp sống quá khứ của mình. Khi quán chiếu sâu hơn nữa, Ngài đạt được Thiên Nhãn Minh (Dibbacakkhu), năng lực nhìn thấy mọi vật và biết được sự tái sinh trong tương lai của tất cả chúng sinh. Do đó, Ngài nhận ra rằng vòng sinh tử luân hồi bất tận của tất cả chúng sinh chính là sự biểu hiện nghiệp của họ, là những suy nghĩ và hành động của mỗi người. Một số người có thể được sinh ra trong đời sống tốt đẹp hơn những gì đang có ở hiện tại, gặp được nhiều may mắn, do vì họ từng trồng những hạt giống thiện lành. Mặt khác, một số người có thể được sinh ra trong điều kiện thấp kém và đau khổ hơn rất nhiều so với cuộc sống hiện tại chỉ vì những nhân xấu mà họ đã tạo nên.
120. Finally he observed that the ultimate cause of the turning round of birth and death in the vast sea of worldly suffering, that mankind and all other sentient beings are involved in, is ignorance (Mohā) and the attachment to remain in the cycle of death and rebirth, there is only one way to esape; that is, by the complete destruction or elimination of all lustful desires. Siddhattha thus acquired āsavakkhaya, the extinction of outflows. He knew that he had delivered himself from all passions and delusions, that he had discovered the cause of and the method of elimination of all suffering, and that he had attained enlightenment. This was a great event that occurred before dawn on the full moon day of the Visākha month. Siddhattha Gautama of the Sākya Clan, at the age of thirty-five, attained supreme enlightenment and became the Buddha under the Bodhi tree by the bank of the Neranjara River. Since then the world has possessed a shining lamp.
Sau cùng, Ngài quán chiếu nguyên nhân cốt lõi của vòng luân hồi sinh tử trong biển khổ trần gian rộng lớn mà nhân loại và vạn loài hữu tình, chính là vô minh và tham ái. Chỉ có một cách duy nhất để thoát khỏi vòng vây này, đó chính là loại bỏ hoàn toàn hoặc diệt trừ mọi ham muốn dục vọng. Như vậy, Siddhattha đã chứng đạt Lậu Tận Thông (āsavakkhaya), chấm dứt tất cả lậu hoặc, phiền não vi tế. Ngài biết rằng bản thân đã thoát khỏi mọi tham ái và vô minh, đã tìm ra nguyên nhân và phương pháp diệt trừ tất cả khổ đau, đã đạt được giác ngộ giải thoát tối thượng. Đây là sự kiện trọng đại diễn ra rạng sáng ngày trăng tròn của tháng Visākha (tháng 6 âm lịch). Siddhattha Gautama của bộ tộc Sakya, vào năm 35 tuổi, chứng đắc sự giác ngộ tối thượng và trở thành Đức Phật dưới cội cây Bồ đề bên bờ sông Neranjara. Kể từ đó, nhân loại xuất hiện một Bậc Đại Quang Minh.
121. Having attained supreme enlightenment and freed himself from all worldly suffering, the Buddha remained contentedly in the happiness of Nibbāna; that is, the happiness arising from both subduing all passions and liberation from all suffering. Later a Brahmana approached him under the banyan tree, saluted him courteously and asked: “Gautama! To be a true Brahmana and a noble person, what kind of moral character must one have?”
Sau khi chứng đắc giác ngộ tối thượng và giải thoát bản thân khỏi mọi khổ đau của thế gian, Đức Phật an trú trong sự hỷ lạc của Niết Bàn. Niềm hạnh phúc bất tận ấy phát sinh từ việc điều phục mọi tham ái và giải thoát mọi khổ đau. Sau đó, một vị Phạm thiên đến bên Đức Phật dưới cội cây Bồ đề, cúi đầu đỉnh lễ Ngài và thưa: “Thưa Gautama! Để trở thành một vị Phạm thiên chân chính và một bậc Thánh, người ấy cần phải có những phẩm chất đạo đức gì?”
122. The Buddha paid no heed to the rudeness of being called by name instead of by his title “Buddha” or “Bhagavant”, but answered him directly: “A true Brahmana must abandon all evil, give up haughtiness, be prudent and clean, pursue extensive learning and practice pure living. He must differ from ordinary people in his conduct to deserve to be called a Brahmana”. The Brahmana murmured to himself as he left: “This Sama a Gautama really sees through my mind! This Sama a Gautama really sees through my mind!”
Đức Phật không để tâm đến sự khiếm nhã khi bị gọi bằng tên thay vì bằng danh hiệu “Đức Phật” hoặc “Đức Thế Tôn”, Ngài trả lời ngay: “Một Phạm thiên chân chính phải là người đoạn tận tất cả các nghiệp ác, từ bỏ sự kiêu mạn, phải thông tuệ và trong sạch, luôn tìm cầu học hỏi và thực hành lối sống thanh tịnh. Vị ấy phải khác với những người bình thường trong cách hành xử, từ đó mới xứng đáng được gọi là Phạm thiên”.
Phạm thiên tự nhủ thầm khi rời đi: “Sa môn Gautama này thực sự đã nhìn thấu tâm trí ta! Sa môn Gautama này thực sự đã nhìn thấu tâm trí ta!”
123. Many days later, while the Buddha was resting under a pipala tree, two merchants passed by. They found the Buddha sitting extraordinarily calmly and joyously like somebody who had won the biggest battle, pleased with his victory. So they reverently offered the Buddha the exquisite food they had brought with them; and being deeply impressed by the Buddha’s appearance and speech, they requested that the Buddha accept them as disciples. The names of the two merchants were Tapussa and Bhallika. Because both of them took refuge in the Buddha, they became the Buddha’s first two disciples.
Nhiều ngày sau đó, trong lúc Đức Phật nghỉ ngơi dưới gốc cây Bồ đề thì có hai vị thương gia đi ngang qua. Họ thấy Đức Phật đang ngồi tĩnh tọa an trú hạnh phúc lạ thường, giống như một người vừa thắng một trận đại chiến, và lòng đang tràn đầy mãn nguyện với chiến công của mình. Vì cảm kích sâu sắc trước dung mạo cùng lời nói của Đức Phật, họ cung kính dâng cúng Đức Phật những món ăn ngon mà họ mang theo và thỉnh cầu Ngài thâu nhận họ làm đệ tử. Tên của hai vị thương nhân đó là Tapussa và Bhallika. Vì cả hai đều quy y với Đức Phật, nên họ trở thành hai vị đệ tử đầu tiên của Ngài.
124. After a long rest, the Buddha began to plan what he should do for the future. At first he thought: “The Dhamma I have comprehended is difficult and profound, and it can hardly be accepted by most people, whose desire-nature is very strong”. But with great compassion and unsurpassed wisdom, the Buddha then concluded: “Some people have light passion and few vexations; some people have fairly little desire. Such people may be able to accept this Dhamma much as the lotus extends its stalk from the bottom of the pond up into the air to receive sunshine. I, therefore, should not hold secret the radiant truth, but shall make it known everywhere so that all people can benefit from it equally”. Thus he decided to propagate the Dhamma.
Sau nhiều ngày an hưởng pháp vị giải thoát, Đức Phật bắt đầu hoạch định những điều Ngài nên làm trong tương lai. Đầu tiên Ngài nghĩ: “Pháp mà Ta đã thấu đạt rất thâm sâu thực khó mà tiếp nhận, và hầu hết những người có bản chất tham ái mạnh mẽ khó có thể lĩnh hội được”. Nhưng rồi, với lòng từ rộng lớn và trí tuệ siêu việt, Đức Phật đã đi đến kết luận: “Một số người có ít đam mê, sân giận và tham dục đều có thể tiếp nhận giáo pháp này, giống như sen từ đáy hồ mạnh mẽ vươn lên không trung để đón ánh nắng. Do đó, Ta không nên giữ lại bí mật chân lý vi diệu mà cần phải truyền bá đến mọi nơi cho tất cả mọi người đều hưởng được lợi ích như nhau”. Vì vậy, Ngài quyết định hoằng dương chính pháp.
125. After making up his mind thus, the Buddha began to ponder: “Whom shall I convert first? This person must be inclined to the teaching of Dhamma and must be quick in understanding it”. First he thought of his own master Āḷāra Kālāma, who was a wise man of reason and had very light passion. He was definitely the person to accept the Dhamma. But he soon learned that Āḷāra Kālāma had passed away. He then thought of his other master, Uddaka Rāmaputta, but soon found out that he also had died. Finally, the five Samaṇas who had followed him before in the practice of asceticism at Uruvilvā came round to the Buddha’s consciousness. When he learned that they were now at Migadāya, near Varanasi (Benares), he left Uruvilvā at once in order to look for them.
Sau khi quyết định như vậy, Đức Phật bắt đầu suy nghĩ: “Người đầu tiên ta nên hóa độ là ai? Người này phải là người thiên về thuyết giảng giáo pháp và phải thấu đạt một cách nhanh chóng”. Người đầu tiên Ngài nghĩ đến chính là bậc đạo sư của mình Āḷāra Kālāma, là một nhà thông thái, ít ham muốn. Vị này là người sẽ tiếp nhận được giáo pháp. Nhưng hóa ra bậc thầy Āḷāra Kālāma đã qua đời. Sau đó Đức Phật nghĩ đến vị thầy thứ hai là Uddaka Rāmaputta, nhưng rồi Ngài biết được rằng vị ấy cũng vừa mới từ trần. Cuối cùng, năm vị Sa môn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia tại Uruvilvā đã hiện lên trong tâm thức của Đức Phật. Khi Ngài biết được rằng năm vị Sa môn đang ở tại Migadāya, gần Varanasi (Benares), nên Ngài liền rời khỏi Uruvilvā đi tìm họ.
126. At Migadāya, when the five Sama as saw the Buddha approaching in the distance, they talked among themselves: “Look there! Sama as Gautama is coming straight over. He has abandoned asceticism and become a voracious person. When he arrives, let’s not talk to him nor even greet him nor take his robe and bowl. Let’s only prepare a cushion here. Let him sit down if he likes; otherwise let him stand. Who would bother to greet a man of shaky will like him!”
Tại Migadāya, khi năm vị Sa môn nhìn thấy Đức Phật đang tiến lại gần, họ nói với nhau: “Nhìn kìa! Sa môn Gautama đang đi đến đây. Ông ta đã từ bỏ sự hành trì khổ hạnh và trở thành người ham lợi dưỡng. Khi ông ta đến đây, chúng ta đừng nói chuyện, chào hỏi, hay thậm chí là cầm y bát của ông ta. Hãy chuẩn bị tấm tọa cụ ở đây thôi, nếu ông ta muốn hãy để ông ta ngồi xuống đó, còn không thì hãy kệ cho ông ta đứng. Có ai lại muốn đón chào một người mà ý chí không vững chãi như ông ta chứ!”
127. But when the five Sama as looked at the Buddha as he approached nearer to them, they found that he was not the sort of person they had thought him to be. They began to be aware that the Buddha was incomparable noble and serious and brilliant in the light of his halo; they had never seen such a one before. They were so astonished, indeed, that they unconsciously forgot what they had just been saying. Some of them quickly ran over and bowed, respectfully taking his robe and bowl from the Buddha’s hands, while others prepared the cushion on the seat and rushed to get water to serve him.
Nhưng khi Đức Phật tiến đến thật gần, năm vị Sa môn lại nhìn Ngài bằng một ánh mắt khác. Họ bắt đầu nhận ra rằng Đức Phật là một bậc Thánh mà không ai sánh bằng, Ngài hiện lên thật nghiêm trang rực rỡ trong ánh sáng hào quang tỏa chiếu. Và từ trước đến nay, họ chưa từng thấy một người nào như vậy. Vì quá đỗi kinh ngạc, họ liền quên mất những gì họ vừa bàn với nhau. Vài người trong số họ nhanh chóng chạy đến xá chào, cẩn trọng đỡ y bát từ tay Phật, trong khi đó những người khác trải sàn tòa và lấy nước rửa chân cho Ngài.
128. After sitting down on the cushion they had prepared, the Buddha began to speak: “Sama as! I have attained the truth of Nibbāna of the unborn and undying, and I want to expound and introduce it to you. If you learn it and practice it according to my direction, you will soon be enlightened, not in the future, but in the present life or even in the present moment. I tell you nothing but the truth that you must transcend birth and death by yourselves!”
Sau khi ngồi xuống tấm tọa cụ mà năm vị ấy đã chuẩn bị, Đức Thế Tôn bắt đầu nói: “Này các vị Sa môn! Ta đã chứng đạt chân lý Niết Bàn không sinh không diệt, và Ta muốn thuyết giảng cũng như chỉ bày điều đó cho các ông. Nếu các ông học và tu tập theo sự hướng dẫn của Ta, các ông sẽ sớm giác ngộ, không cần chờ đến kiếp sau mà ngay kiếp sống hiện tại, hoặc thậm chí có thể là ngay bây giờ. Ta không nói với các ông điều gì ngoài sự thật rằng các ông phải tự mình vượt qua sinh tử”.
129. While hearing the Buddha’s words, the five Sama as could not help doubting him; for they had seen him devotedly practising before to pursuit of the ultimate truth, but then he had stopped. Now he came and said he had already attained unborn and undying Nibbāna! So the five Sama as were reluctant to believe what the Buddha was saying, and they raised many questions to the Buddha. At last the Buddha said: “Sama as! Please think. Did I ever tell you all these things before when we stayed together? Did I ever try to convince you that I had found the supreme truth?” The five Sama as admitted that, indeed, the Buddha had never said such things before, so they no longer refused to accept the Buddha’s teachings.
Trong khi nghe những lời của Đức Phật, cả năm vị Sa môn không thể không nghi ngờ về Ngài, vì họ đã tận mắt nhìn thấy Ngài tu tập khổ hạnh miên mật trước đó để tầm cầu chân lý tối thượng, nhưng sau đó lại từ bỏ. Bây giờ Ngài đến và nói rằng mình đã hoàn toàn chứng đạt Niết Bàn không sinh không diệt. Vậy nên, năm vị Sa môn miễn cưỡng tin vào những gì Đức Phật đã nói và họ đưa ra nhiều câu hỏi dành cho Đức Thế Tôn. Cuối cùng, Đức Phật nói: “Này các vị Sa môn! Hãy suy nghĩ kỹ. Trước đây, Ta đã từng nói những điều này với các vị khi chúng ta tu tập cùng nhau chưa? Ta có từng cố gắng thuyết phục các vị rằng Ta đã tìm ra được chân lý tối thượng hay chưa?” Cả năm vị Sa môn đều thừa nhận điều đó, thực ra trước đây Ngài chưa từng nói ra những điều như vậy, vì vậy họ không phủ nhận những giáo lý của Đức Phật nữa.
130. Thus the Buddha’s first sermon was given to the five Sama as at Migadāya. This event was later recorded as the Dhamma-Cakra Pravartana Sutra. During the first sermon, Ko añña comprehended everything thoroughly, and all of his doubts about Dhamma were clarified. Because of this he requested that the Buddha shave his head, and thus Kaundinya became the first Buddhist Bhikkhu. From that time on, the Buddha resided with the five Bhikkhus at Migadāya. When two of the Bhikkhus went out for daily alms, he preached to the other three; when three of the Bhikkhus were out, he preached to the remaining two. By this method of preaching, everyone remained happy and learned the most, for the Buddha was the most skillful teacher in the world. The five Bhikkhus honestly practiced what the Buddha had taught them. Soon they all attained enlightenment and became the first group of arhants in the world. The Buddha taught next the Anattalakkha a Sutta, that is the discourse on the characteristic of no-self.
Như vậy, bài pháp đầu tiên của Đức Thế Tôn đã được thuyết giảng cho năm vị Sa môn tại Migadāya. Sự kiện này về sau được ghi chép lại thành kinh Chuyển Pháp Luân. Trong suốt bài pháp đầu tiên, Ko añña đã lĩnh hội mọi điều một cách thấu đáo và tất cả những hoài nghi của ông về Pháp đều được tháo gỡ. Do đó ông đã thỉnh cầu Đức Phật cho mình được xuất gia, và như vậy Ko añña đã trở thành vị Tỳ kheo đầu tiên trong Tăng đoàn Phật giáo. Từ đó trở đi, Đức Phật trú tại Migadāya cùng với năm vị Tỳ kheo. Khi hai vị Tỳ kheo đi khất thực, Ngài giảng giáo pháp cho ba vị còn lại; khi ba vị Tỳ kheo khác đi khất thực, Ngài lại thuyết giảng cho hai vị kia. Bằng cách thuyết pháp này, mỗi vị đều rất hoan hỷ và lĩnh hội rất nhiều giáo lý, vì Đức Phật là bậc Thầy thiện xảo nhất thế gian. Cả năm vị Tỳ kheo thực hành một cách chân thực những gì mà Như Lai đã dạy cho họ. Vì vậy tất cả đều sớm đạt được giác ngộ và trở thành năm vị A la hán đầu tiên trên thế giới. Kế tiếp, Đức Thế Tôn dạy bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkha a Sutta), đó là bài kinh nói về đặc tính của vô ngã.
131. While the Buddha was in Migadāya, a young man name Yasas, who was the son of the millionaire of Vārā asī, one day suddenly got tired of his family and of his lustful life with many women. He ran away from home secretly and happened to meet the Buddha on his way. Upon hearing the Buddha preach and learning the benefit of the Dhamma practice, he became exultant and requested permission to leave home and practice with the Buddha. On the same day, Yasas’s father, in the search of his son, met the Buddha and asked him about his son. The Buddha instructed him about appropriate points of the Dhamma causing him to understand and he was joyful and allowed his son to leave home and become a monk.
Trong khi Đức Phật ở tại vườn Migadāya, một thanh niên tên Yasas là con trai của triệu phú thành Vārā asī, bỗng nhiên cảm thấy chán ngán cuộc sống xa hoa, nhiều thê thiếp tại gia đình. Sau khi lặng lẽ trốn khỏi nhà, thì tình cờ anh ta gặp Đức Phật trên đường đi. Khi nghe Đức Phật thuyết pháp, anh ta hiểu được lợi ích của việc thực hành giáo pháp, và hoan hỷ xin được xuất gia để tu tập theo lời dạy của Như Lai. Lúc đó, trong khi đi tìm con, cha của Yasas đã gặp Đức Phật và hỏi Ngài về con trai của mình. Đức Phật đã hướng dẫn cho ông ấy những giáo pháp phù hợp khiến ông ta hiểu rõ, từ đó sinh tâm hỷ lạc và đã cho phép con trai xuất gia trở thành một vị Tỳ kheo.
132. After hearing the Buddha preach, the rich man was very happy and he also took refuge in the Buddha Dhamma, and he expressed his wish to be a Buddhist lay follower and follow life after life the Buddha Dhamma. He then invited the Buddha and Yasas to his home the next morning for offering. Later, four of the best friends of Yasas also left home and became Buddhist Bhikkhus, and they, in turn, led fifty young men of noble families to become Buddhist Bhikkhus. Without the need of the Buddha’s supervision, they all learned diligently and practiced strictly; and before long, they had all attained the stage of arhant.
Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, lòng trưởng giả hân hoan và ông cũng phát tâm nương tựa Phật Pháp, ông bày tỏ tâm nguyện trở thành cư sĩ tại gia, đời đời kiếp kiếp hộ trì Phật Pháp. Sau đó, ông thỉnh Đức Phật và Yasas đến nhà mình vào sáng hôm sau để cúng dường. Sau này, bốn người bạn thân của Yasas cũng xuất gia và trở thành những vị Tỳ kheo, họ lần lượt dẫn dắt 50 thanh niên gia đình quý tộc khác cũng trở thành Tỳ kheo. Mặc dù không có sự theo sát của Đức Phật, nhưng tất cả đều tu học và thực hành tinh tấn, nghiêm chỉnh. Chẳng bao lâu sau đó, họ đều chứng đắc quả vị A la hán.
133. When the Buddha had sixty Bhikkhus among his disciples, he held a meeting directing the Bhikkhus to propagate the Dhamma. The Buddha said: “Bhikkhus! I have been released from all the bondages of mankind and devas, and you have been released also. Now you are going to propagate Dhamma in other places to give more people the chance of having the same benefit and happiness. No two of you should go the same way. Be sure to spread the Dhamma to all places far and near so that human life may be purified and brightened. There are people in the world who have light passion and little desire. To such people, missing the opportunity to hear Dhamma means great loss of benefit. These are people who are ready for Dhamma, and they will be able to understand it clearly. I myself will go out to preach at Uruvilvā”.
Khi số lượng các vị đệ tử của Đức Phật lên đến 60 vị, Ngài quyết định cho các Tỳ kheo truyền bá chính pháp.
Đức Phật dạy rằng: “Này các thầy Tỳ kheo! Như Lai đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc của các cõi nhân thiên, các thầy cũng đã được giải thoát. Bây giờ, các thầy hãy đi hoằng pháp ở những nơi khác để cho nhiều người có cơ hội được lợi ích và an lạc như vậy. Đừng đi hai người cùng một con đường. Chắc chắn rằng chính pháp được truyền bá khắp nơi xa gần, làm cho cuộc sống nhân sinh trở nên thanh tịnh và tươi sáng. Thế gian này vẫn hiện hữu những người có ít đam mê và tham muốn, với họ, việc bỏ lỡ nhân duyên nghe pháp đồng nghĩa với việc mất đi lợi ích lớn lao. Đây là những người sẵn sàng tiếp nhận giáo pháp, họ có năng lực liễu ngộ chân lý một cách tường tận. Như Lai sẽ đi thuyết pháp tại Uruvilvā”.
134. After the Buddha had sent out, for the first time, sixty of his arhant disciples preached at various places, he left Migadāya and journeyed toward Magadha in the southeast and finally arrived at Uruvilvā Village. He took up residence at the place of the knot-hair cult, a group of a thousand people, the leaders of whom were the three Kassapa brothers. In order to break through their wrong views completely, the Buddha expounded to their leaders, basic Buddha Dhamma which he had recently realized. After hearing the Buddha’s sermon, they all were full of joy and made a request to leave home to become Buddhist monks. The three Kassapa brothers and the thousand followers all became arhants later.
Sau lần đầu tiên Đức Phật cử 60 đệ tử A la hán của Ngài hoằng pháp ở các nơi khác nhau, Ngài đã rời Migadāya và đi về hướng Đông Nam của Magadha, rồi sau đó đến làng Uruvilvā. Ngài dừng lại trú xứ của giáo phái bện tóc, nhóm này với số lượng 1.000 người, đứng đầu là ba anh em Kassapa. Đức Phật đã giảng giải cho những vị giáo chủ này về giáo lý căn bản mà Ngài đã chứng ngộ để phá bỏ những tà kiến của họ. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, tất cả họ đều tràn đầy hỷ lạc và xin được xuất gia trở thành những vị Tỳ kheo. Ba anh em Kassapa và 1.000 vị đệ tử về sau đều chứng đắc quả vị A la hán.
135. Then the Buddha took his arhant disciples and went to Rājagaha to fulfill his promise to King Bimbisāra to teach and enlighten the people of Magadha. Upon arriving at Rājagaha, Buddha and his disciples resided at the Veṇuvana; and with a fully compassionate heart, he preached in various ways to make King Bimbisāra and his people to comprehend and they expressed their own wish to be the Buddha’s disciples.
Sau đó, Đức Phật cùng các đệ tử A la hán đến Rājagaha để thực hiện lời hứa với vua Bimbisāra là giảng dạy và giáo hóa cho người dân Magadha. Khi đến thành Rājagaha, Đức Phật và các đệ tử của Ngài trú tại Veṇuvana. Với lòng từ bi vô lượng, Ngài đã thuyết giảng bằng nhiều cách khác nhau để giúp cho vua Bimbisāra và dân chúng hiểu được giáo pháp. Ngay sau đó, họ đã hoan hỷ bày tỏ nguyện vọng được trở thành đệ tử tại gia của Đức Phật.
136. King Bimbisāra told the Buddha that when he was a crown Prince, he had had a wish that besides being a king he would also be, someday, the first among all kings to hear the teaching of the Buddha, who had attained the supreme enlightenment. Now all his wishes had been realized, and so he decided to take refuge in the Buddha, the Dhamma and the Sangha and formally become a grhapati (i.e., a Buddhist follower at home). Later he offered to donate Ven vana, a park in a bamboo grove, to the Buddha as a residence for the Bhikkhus. Hence Ven vana became the earliest monastery in Buddhist history.
Khi Đức Phật còn là Thái tử, vua Bimbisāra đã bày tỏ ước nguyện của mình, rằng một ngày nào đó ông sẽ là một trong những vị vua đầu tiên được nghe lời dạy của Ngài. Giờ đây, mọi ước nguyện ấy đã thành tựu, nên đức vua quyết định quy y Phật, Pháp, Tăng và chính thức trở thành một Ưu bà tắc (tức là một Phật tử tại gia). Sau đó, nhà vua phát tâm cúng dường Veṇuvana, một khuôn viên trong rừng tre để Đức Phật dùng làm tịnh thất cho các Tỳ kheo. Do đó, Veṇuvana trở thành tu viện được thành lập sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.
137. One morning, on his way from Ve uvana to Rājagaha to beg for his daily ration of food, the Buddha encountered a wet young man looking as if he had just gotten out of water. The young man stood in the middle of the road and bowed one after the other to the east, south, west and north; then he raised his head and saluted the heaven and at the last knelt down, he saluted the earth. Then he cast grain in all the directions that he had saluted.
Vào buổi sáng nọ, trên đường từ Ve uvana đến Rājagaha để khất thực như thường nhật, Đức Phật đã gặp một thanh niên ướt sũng người, như thể vừa lên khỏi mặt nước. Anh ra đứng giữa đường vái lạy về bốn hướng Đông, Nam, Tây, Bắc; rồi lạy trời, lạy đất. Sau đó ném thóc lúa về những hướng mà anh ta đã vái lạy.
138. The Buddha watched the young man finishing his strange ritual in the thoroughfare and asked him why he did all these things. The young man replied that he observed according to the directions that his father had given to him when he died and that the purpose of performing this ritual every morning was to prevent any evil thing from befalling him from any direction. After hearing his answer, the Buddha said to the young man: “It is very good that you can honestly follow your father’s last instructions! But the real meaning of your father’s instructions and the ritual he wished you to observe is quite other than what you think”.
Sau khi quan sát chàng thanh niên thực hiện nghi lễ kỳ lạ ấy trên đường, Đức Phật đã hỏi tại sao anh ta lại làm như thế. Người thanh niên trả lời rằng trước khi qua đời, cha của anh ta đã bảo phải thực hiện nghi lễ đó để ngăn chặn những điều xấu không xảy đến với mình.
Sau khi nghe câu trả lời của người thanh niên, Đức Phật ôn tồn nói với anh ta: “Con hết lòng thực hiện những lời mà cha mình trăng trối như thế là tốt lắm! Nhưng ý nghĩa thật sự của những lời dạy ấy và nghi lễ mà ông ấy muốn con làm theo lại khác với những gì con nghĩ”.
139. “Your father told you to salute the east and spread grain. What he really meant was that you should respect and support those who have shown kindness or any kind of favor to you- that is, your parents. By saluting the south, you should understand that your father wanted you to be aware that you should respect and treat your teachers well. Saluting the west means loving and protecting your wife and children. Saluting the north means honoring your friends and relatives. By your saluting the heavens above, your father meant that you should pay reverence to Sama as, Brahmannas and Saints”.
“Cha con bảo lạy phương Đông và rải thóc. Nghĩa là muốn con tôn trọng và ủng hộ những người đã ban ơn cho con, đó là cha mẹ của con. Lạy phương Nam nên được hiểu là con phải tôn trọng và đối xử tốt với những người thầy của mình. Lạy phương Tây nghĩa là hết lòng yêu thương, bảo vệ vợ con. Lạy phương Bắc nghĩa là con nên tôn trọng bạn bè và họ hàng của con. Và lạy phương trên có nghĩa là con nên tỏ lòng tôn kính các vị Sa môn, Bà la môn và các bậc Thánh”.
140. “To salute the earth below means treating others kindly, not only people, but also animals and the lowest creatures alike, without discrimination. Your father had all this in mind, so he told you to salute in this manner in order to prevent evil from falling upon you from any direction whatsoever”. The Buddha then expounded to the young man, whose name was Singālaka, what one should do for himself and others in order to bring happiness and a better life to everybody now and in the future. The Buddha also instructed Singālaka not to kill, not to steal, not to commit adultery, not to utter false speech, and not to partake of any intoxicant-that is, he gave him the well-known five precepts.
“Lạy phương dưới có nghĩa là đối xử tử tế với những người khác, không chỉ con người, mà cả động vật và những loài thấp kém nhất, không phân biệt đối xử. Cha của con đã nghĩ đến tất cả những điều này, vì vậy ông ấy đã dạy con lạy theo cách đó để ngăn tai họa đến với con từ mọi hướng”.
Sau đó, Đức Phật đã giảng giải để người thanh niên Singālaka hiểu rằng một người nên làm gì để mang lại hạnh phúc cho mình và mọi người, cũng như đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn trong hiện tại và tương lai sau này. Đức Phật cũng dạy cho Singālaka về năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng chất gây nghiện.
141. Afterwards the Buddha advised him to work and earn his living diligently, to take good care of the wealth he would amass, and at the same time, to avoid being avaricious and to use his wealth properly, not only for his own benefit. The Buddha instructed him to divide his money into four portions: one part should be used to support his family; one part to expand his business; one part to help the poor and the needy people of society; and the remaining part should be saved for any emergency. Singālaka listened reverently to the Buddha’s instruction and later requested the Buddha to accept him as a disciple. For the rest of his life he saluted the six directions in the manner and with the understanding that the Buddha had taught him.
Về sau, Đức Phật khuyên anh ta siêng năng lao động kiếm sống, chăm sóc gìn giữ của cải đã tích luỹ, tránh tham lam, đồng thời chi tiêu hợp lý, không chỉ vì lợi ích riêng của cá nhân mình. Đức Phật dạy anh ta chia tài sản của mình thành bốn phần: một phần nên được sử dụng để nuôi dưỡng gia đình; một phần cho việc mở rộng kinh doanh; một phần giúp đỡ người nghèo, người khó khăn trong xã hội; và phần còn lại nên để dành cho trường hợp khẩn cấp. Singālaka cung kính lắng nghe những lời chỉ dạy của Đức Phật và đã thỉnh cầu Ngài nhận mình làm đệ tử. Trong suốt quãng đời còn lại, anh đã lạy sáu phương đúng nghĩa theo lời dạy của Đức Thế Tôn.
142. During the Buddha’s sojourn in the vicinity of Rājagaha, there was well-known master of one of the heretical schools, whose name was Sanjaya Vairatiputra, living in the area. He had about two hundred pupils, and among them Upatissa and Kolita were the most learned. These two pupils, however, were not satisfied with what their master had taught them, and they hoped to learn that higher and more profound knowledge that leads to no birth and no death. They were best friends, and their education and knowledge were on the same level. So they made an agreement that each would try his best through his intelligence and training to search for the highest knowledge, and that as soon as one had found it, he would immediately inform the other.
Trong thời gian Đức Phật cư trú tại các vùng lân cận của thành Rājagaha, có vị thầy tên Sanjaya Vairatiputra, là một trong những bậc thầy nổi tiếng thuộc những trường phái dị giáo sống gần đó. Ông có khoảng 200 đệ tử, và trong số đó có Upatissa và Kolita là những người uyên bác nhất. Tuy nhiên, hai vị đệ tử này chưa thật sự thỏa mãn với những gì mà thầy họ đã truyền dạy, và họ hy vọng sẽ học được những kiến thức cao siêu và thâm sâu hơn, và nhất là có khả năng đưa đến trạng thái không sinh không diệt. Hai người là đôi bạn chí thân từ hồi còn nhỏ, với trình độ học thức tương đương nhau. Vì vậy, họ đã thỏa thuận rằng mỗi người sẽ cố gắng hết sức bằng trí tuệ và sự tu tập của mình để tìm ra giáo pháp tối thượng, khi ai tìm thấy được con đường giác ngộ trước thì sẽ báo ngay cho người kia.
143. One morning, as Upatissa was walking along the road toward Rājagaha, he saw a Sama a holding out his food bowl. The manner of this Sama a was so elegant, neat, peaceful and serious, even when he was begging for food, that Upatissa was very much astonished. The nearer he approached to the Sama a, the stronger his wonder was and, at the same time, his admiration was ansen, because he saw from his countenance unlimited peace and happiness. Apparently, this Sama a had cut himself away from all fear. Upatissa thought: “This Sama a must have found the ultimate truth that we are pursuing, or he must be, at least, a disciple of the one who has found the ultimate truth. I am anxious to know who his master is and what his master teaches. I must follow him. I must find the truth!”
Một sáng nọ khi đang đi bộ dọc theo con đường về phía Rājagaha thì Upatissa nhìn thấy một vị Sa môn đi khất thực. Upatissa vô cùng ngạc nhiên trước phong thái an lạc, giản dị, từ hòa và nghiêm trang của vị Sa môn, ngay cả khi đang xin thức ăn. Càng đến gần chàng càng ngạc nhiên hơn, cảm giác một niềm kính ngưỡng dâng lên trong trái tim khi chàng được nhìn rõ hơn khuôn mặt của vị Sa môn vẻ bình an và hạnh phúc vô hạn. Rõ ràng, vị Sa môn này đã tự đoạn tận mọi nỗi sợ hãi.
Upatissa nghĩ rằng: “Vị Sa môn này hẳn đã tìm ra chân lý tối thượng mà chúng ta đang tìm kiếm, hoặc chí ít thầy ấy phải là đệ tử của một người đã tìm ra chân lý tối thượng. Ta nóng lòng muốn biết vị đạo sư của thầy ấy là ai và đã chỉ dạy những gì. Ta phải đi theo vị ấy và tìm ra sự thật!”
144. But Upatissa felt that it was improper to question him while he was begging for food, so he followed him at a distance until he finished his daily begging and left the city of Rājagaha. Then he came forward, reverently gave his regards as if he were talking to an old acquaintance, and then asked him: “Venerable Master! Your manner is so peaceful and your look so serene that I would really like to know who your teacher is. Under whose direction did you leave home and take up the pure life? What is the name of your teacher and what did he teach you?”
Nhưng Upatissa cho rằng, đường đột tới thưa hỏi một vị Sa môn khi vị ấy đang đi khất thực là điều hết sức thất lễ, cho nên chàng chỉ lặng lẽ đi theo thầy, cũng như giữ một khoảng cách nhất định cho tới khi thầy kết thúc buổi khất thực hằng ngày rồi rời khỏi thành Rājagaha.
Lúc ấy chàng mới tiến lại gần, cung kính chào hỏi như thể đang nói chuyện với một người đã quen biết. Chàng hỏi: “Thưa Tôn giả! Phong thái của thầy rất ôn hòa và dáng vẻ ấy toát lên một niềm thanh thản bình an kỳ lạ, đến nỗi con thực sự muốn biết ai là bậc Đạo Sư khả kính của thầy, thầy đã rời khỏi gia đình thế tục để sống cuộc đời thanh bạch theo sự hướng dẫn của ai? Tên người thầy của ngài là gì và vị ấy đã dạy ngài những gì?”
145. The Sama a answered smilingly: “Venerable Master! Let me tell you that there is a great Sama a of the Sākya Clan, who gave up his throne and left home to practice the pure living. I left my home also to practice with this great Samaṇa. The Buddha is my teacher, and I practice in accordance with his teaching”. Upatissa thought to himself that perhaps he could learn from the Dhamma no-birth and no-death, which he and his friend Kolita had been pursuing for a long time, from this great Sama a. So he inquired anxiously: “Venerable Master! What is the Buddha teaching? What has your master taught you? I would like to know its meaning very much”.
Vị Sa môn hoan hỷ trả lời: “Thưa hiền giả! Để tôi nói cho anh biết, có vị Sa môn vĩ đại của bộ tộc Sakya, Ngài đã từ bỏ hết ngai vàng, vinh hoa phú quý để xuất gia sống trọn đời thanh tịnh. Tôi đã xuất gia tu tập với vị Sa môn vĩ đại này. Đức Phật là Thầy tôi, và tôi thực hành theo lời dạy của Ngài”.
Upatissa nghĩ rằng chắc hẳn mình có thể sẽ học được từ vị Sa môn vĩ đại này pháp không sinh không diệt, thoát ly sinh tử mà chàng và Kolita đã thao thức tìm cầu bấy lâu.
Thế rồi, Upatissa không chần chừ mà hỏi tiếp: “Thưa Tôn giả! Đức Phật đã dạy những gì? Đức Đạo Sư của thầy đã dạy thầy những gì? Tôi nay rất muốn được biết ý nghĩa của những lời dạy ấy”.
146. The Sama a answered him in a mild tone: “It has not been a very long time since I left home to learn and practice with the Buddha. Therefore, I have not learned very much about the Buddha’s teaching, and thus I am not able to explain it to you fully in detail. But if you would like to know only the general content of his teaching, I could tell you about it in a few sentences”. Upatissa replied hastily: “I should very much like to know; please tell me just the general contents!” The Sama a said: “Fine! Now listen! The Buddha said ‘All things arise from causes and conditions; all things also vanish because of causes and conditions. Our great Buddha often said so’”.
Vị Sa môn khoan thai trả lời: “Tôi chỉ mới xuất gia tu học với Đức Phật. Do đó, tôi chưa học được nhiều về lời dạy của Đức Phật, vì vậy tôi không thể giải thích cho anh đầy đủ chi tiết được. Nhưng nếu anh muốn biết nội dung khái quát những bài giảng của Thầy tôi, tôi có thể nói với anh qua một vài câu kệ ngắn”.
Upatissa vội vàng thưa: “Con rất muốn biết, xin Tôn giả hãy nói cho con biết những nội dung khái quát!”
Vị Sa môn nói rằng: “Lành thay! Bây giờ anh hãy lắng nghe! Đức Phật đã dạy rằng:
‘Muôn vật từ duyên sinh
Cũng từ duyên mà diệt
Bậc Giác Ngộ tối thượng
Đã từng thuyết như vậy’”.
147. As Upatissa heard these words in the shadow of the gate to the city, the radiance of Buddha Dhamma was already lighting up his mind: “All things which had come to pass or were coming to pass would, without any possible exception, go to destruction and extinction; only those things which did not arise or come to pass, thus avoiding death or destruction, were free”. Upatissa said to the Samaṇa, “If you have learned this kind of knowledge from your master, you have certainly already gotten rid of the fear of death, and this goal has not yet been achieved by anyone else”. After having said this, he thanked the Samaṇa profoundly. He then asked him where he might find the Buddha. Then he departed, intending to pass the good news on to Kolita, that he himself had already obtained the Dhamma of non-arising and non-extinction.
Sau khi Upatissa vừa nghe được lời dạy của Đức Phật ở dưới bóng mát của cổng thành, ánh sáng của Phật pháp đã soi chiếu tâm trí chàng: “Tất cả các pháp đã sinh hoặc sẽ sinh, thì sẽ đi đến hoại diệt, không có pháp nào là ngoại lệ. Chỉ những pháp nào không sinh không diệt, thì mới không có chết, không hoại diệt, và hoàn toàn giải thoát”.
Upatissa thưa với Sa môn: “Nếu Tôn giả học được trí tuệ này từ bậc Đạo Sư thì thầy chắc chắn đã thoát khỏi nỗi sợ hãi về cái chết, mà cái đích này chưa từng có ai đạt đến được”.
Sau đó, chàng tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến vị Sa môn. Trước khi rời đi, Upatissa hỏi làm sao để chàng có thể gặp được Đức Phật. Rồi ngay lập tức, chàng quay về tìm Kolita để báo tin tốt lành rằng chàng đã tìm được pháp không sinh không diệt.
148. At that time Upatissa’s face was overflowing with the brilliant radiance of joy just like the face of the Sama a who had told him the truth of neither arising nor passing away. When Kolita saw him approaching, he immediately knew that his friend had acquired the utmost joy, so he asked: “My friend! Just look at this bright splendor on your face! You must have found the truth of neither birth nor death, for which we have been searching for a long time. Have you?” Upatissa answered jubilantly: “Yes! Yes! My friend! I already attained to the Dhamma of no-birth no-death”. Kolita asked eagerly: “How did you do it, my friend? How did you do it?” Upatissa told his friend Kolita about the remarkable Sama a he had met and repeated to him the words he had heard.
Bây giờ, tự nhiên gương mặt Upatissa trở nên sáng ngời giống như gương mặt của vị Sa môn đã nói cho chàng biết sự thật không sinh không diệt.
Thấy bạn đến gần, Kolita biết ngay là bạn của mình đã đạt được hạnh phúc tối thắng nên vui mừng hỏi: “Này bạn của tôi! Nhìn mặt bạn bừng sáng kìa! Chắc hẳn là bạn đã thấy được chân lý không sinh không diệt mà chúng ta đang tìm kiếm bấy lâu nay phải không?”
Upatissa vui vẻ trả lời: “Vâng! Đúng vậy! Bạn tôi! Tôi đã thực sự tìm thấy được pháp không sinh không diệt”.
Kolita hỏi một cách háo hức: “Bạn đã tìm thấy như thế nào, bạn của tôi?”
Upatissa kể với Kolita về vị Sa môn đáng kính mà chàng đã gặp và lặp lại cho bạn mình những gì chàng từng nghe.
149. Instantly, Kolita also awoke and saw the way. He now realized that what is neither created nor annihilated does not exist among the nature of physical things produced by sight, sound, smell, taste, touch and ideas; for that which is neither created nor annihilated cannot be either produced or destroyed. Finally the two of them went to see Buddha and asked him to accept them as Bhikkhu. Later they attained to the Arahant Fruit and became the Buddha’s chief disciples. They were known everywhere for their high wisdom and great supernatural power under more familiar names of Sāriputta and Moggallāna. The Samaṇa who had told them the Dhamma of neither creation nor annihilation was Bhikkhu Assaji, and the verse that was handed down became known as the “Verse of Bhikkhu Assaji”.
Ngay lập tức, Kolita cũng bừng tỉnh ngộ và thấy được con đường. Lúc này, chàng nhận ra rằng những gì không sinh không diệt hoặc không tồn tại trong bản chất của các pháp thế gian thì đều được sinh khởi bởi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; vì cái không sinh không diệt thì không thể sinh hay diệt được. Cuối cùng, hai người đến gặp Đức Phật và cầu xin Ngài cho xuất gia làm Tỳ kheo. Sau đó, họ chứng đắc quả vị A la hán, trở thành hai vị đại đệ tử của Đức Phật, nổi danh là đại trí tuệ và đại thần thông với tên quen thuộc là Sāriputta và Moggallāna. Vị Sa môn đã nói với họ pháp không sinh không diệt là Tỳ kheo Assaji, và bài kệ được lưu truyền gọi là “Bài kệ của Bhikkhu Assaji”.
150. When the Buddha was residing at Rājagaha, a conference was held at Ve uvana for all the disciples on the full moon day of the third month (Thai era) of the year. The meeting was initiated by the simultaneous return of the one thousand two hundred and fifty arhant disciples from their respective Dhamma-propagating missions. Since they had not contacted each other and yet had arrived on the same day to report their accomplishments to the Buddha, it was indeed the most speccal occasion and pleased the Buddha as well as his disciples very much.
Khi Đức Phật trú tại Rājagaha, đại hội Thánh Tăng được tổ chức tại Veṇuvana cho tất cả các đệ tử vào ngày rằm tháng ba hàng năm (Thái Lan). Cuộc gặp mặt diễn ra với sự trở về cùng một lúc của 1.250 vị đệ tử A la hán đang hoằng pháp từ khắp nơi. Không ai bảo ai, tất cả hội tụ về cùng một ngày để trình bày thành tựu tu tập của mình lên Đức Phật, đây thực sự là một duyên lành hiếm có bậc nhất, khiến cho Đức Phật cũng như các đệ tử của Ngài vô cùng hoan hỷ.
151. The Buddha felt that this occasion was a proper time for instruction, so he gathered all his disciples together at Ve uvana and instructed them to practice and preach to follow the same basic principles. The essence of this instruction was: 1) Do not do any evil; 2) Do practice all the wholesome; 3) Purify your mind from defilements.
Đức Phật cảm thấy đây là thời điểm thích hợp để thuyết pháp, vì vậy Ngài đã tập hợp tất cả chúng đệ tử của mình tại Veṇuvana và dạy cho họ thực hành và thuyết giảng những giới luật căn bản. Cốt yếu của lời dạy này là:
1) Không làm bất cứ điều ác gì;
2) Thực hành các việc lành;
3) Thanh lọc tâm trí khỏi phiền não.
152. There are four important things to remember about the occasion of this gathering, these are: 1) All the attending disciples were arhants; 2) All these arhant disciples were Bhikkhu ordained by the Buddha personally; 3) The one thousand two hundred and fifty arhant disciples did not make previous appointments to arrive on the same day; 4) The Buddha’s instruction given on that day became known as the Pā imokkha Instructions. To celebrate these four memorable facts or events, Theravada buddhists have celebrated the “Dhamma-Respecting Festival” every year on the full moon day of the third month ever since that first conference was held.
Có bốn điều quan trọng cần nhớ trong đại hội Thánh Tăng, đó là:
1) Tất cả các đệ tử tham dự đều là A la hán;
2) Tất cả những vị La hán này đều là các đệ tử Tỳ kheo được Đức Phật đích thân độ cho xuất gia;
3) 1.250 vị A la hán không hẹn trước sẽ đến trong cùng một ngày;
4) Lời dạy của Đức Phật được đưa ra vào ngày đó được biết đến như là truyền dạy Pā imokkha.
Để kỷ niệm bốn sự kiện đáng nhớ này, hàng năm các đệ tử Phật giáo Theravāda đều tổ chức “Pháp Hội” vào ngày rằm tháng thứ ba kể từ khi đại hội Thánh Tăng đầu tiên được tổ chức.
153. When King Suddhodana learned that his crown-Prince had attained enlightenment and become Buddha and that he was staying at Rājagaha, he sent a young official named Kālodayin, one of the playmates of Siddhattha’s youth, to invite him to Kapilavatthu. He wished he could see the Buddha once more while he was alive. To honor his father’s wish the Buddha promised to visit him, and so, at the proper time, he and his disciples went to Kapilavatthu.
Khi vua Suddhodana biết rằng Thái tử Siddhattha đã giác ngộ thành Phật và Ngài đang ở tại Rājagaha, ông đã cử một vị quan trẻ tên là Kālodayin, vốn là bạn thời niên thiếu của Siddhattha, tới thỉnh mời Ngài đến thành Kapilavatthu. Vua cha ước mong được gặp Đức Phật một lần nữa lúc ông còn sống. Thể theo nguyện vọng của vua cha, Đức Phật đã hứa sẽ về thăm người, và bởi khi đó cũng là hợp thời nên Ngài cùng với các đệ tử của mình đã trở về thành Kapilavatthu.
154. One evening the Buddha took his disciples to Kapilavatthu. When they arrived there, they stayed at Nigrodha Garden, outside the city, where King Suddhodana had provided residences for them. The next morning, as he did every day, the Buddha led his disciples through the streets of the city to beg for food. People watched them marching along; and someone went to report to the king. King Suddhodana was both surprised and angry to hear that the Prince was begging for food from his own people.
Một buổi tối, Đức Phật cùng các đệ tử của Ngài đến thành Kapilavatthu. Tới nơi, họ ở tại vườn cây Nigrodha bên ngoài thành, nơi mà vua Suddhodana đã chuẩn bị sẵn. Sáng hôm sau như mọi ngày, Đức Phật dẫn chúng đệ tử đi khất thực khắp các nẻo đường trong thành. Thấy Tăng đoàn đang thiền hành khất thực, có người vội đến báo với đức vua. Vua Suddhodana vừa kinh ngạc vừa tức giận khi nghe tin Thái tử lại đi khất thực từ chính người dân của mình.
155. King Suddhodana ordered his driver to rush him to the street where the Buddha was begging. On arriving, he saw the Buddha and his disciples marching along with their bowls already full of food. They were making their way through a crowd who were paying them reverence, and they were just about to turn toward the palace. King Suddhodana was angry and disappointed. The Prince begging for food in his own country! In his own country the crown-Prince was entitle to take anything he wants without asking for the permission at all! So the king, looking at the situation in this way, naturally felt quite vexed.
Ngay lập tức, vua Suddhodana ra lệnh cho người kéo xe mau chóng đi đến con đường nơi Đức Phật đang khất thực. Tới nơi, vua cha nhìn thấy Đức Phật và các đệ tử của Ngài đang thong dong kinh hành, cùng với những chiếc bát đã đầy thức ăn qua đám đông dân chúng đang thành kính đỉnh lễ, và chuẩn bị trở về cung điện. Vua Suddhodana tức giận và thất vọng khi thấy Thái tử khất thực ngay tại đất nước của chính mình. Bởi lẽ, trên đất nước của mình, Thái tử có quyền lấy bất cứ thứ gì mình muốn mà không cần xin phép. Điều này khiến nhà vua cảm thấy vô cùng buồn bực.
156. King Suddhodana went before the Buddha and reproached him in a tone of disappoint me nt and indignation: “My son! Is this the good news that I, your father, am to receive? You have abandoned your father and left the country. You are the son of the king, but has the heir to the throne yet been decided? Oh! My son! Today you have done a most disgraceful thing to your father and the royal family. On what occasion have your ancestors ever done such a thing. On what occasion have we ever accepted food like beggars?”
Vua Suddhodana đến trước Đức Phật, ông nói với giọng đầy thất vọng và phẫn nộ: “Này con trai của ta! Đây có phải là tin tốt mà cha sắp nhận được từ con không? Con đã rời bỏ cha và rời xa vương quốc. Con là con trai vua, là người thừa kế ngai vàng, chẳng phải điều đó đã được quyết định rồi hay sao? Ôi con trai của ta! Hôm nay con đã làm một điều ô nhục nhất đối với cha và hoàng tộc. Tổ tiên của chúng ta chưa từng làm một việc như vậy, không bao giờ nhận lấy thức ăn như một kẻ ăn mày?”
157. The Buddha spoke calmly to his angry, uncomprehending father: “Father! This is done, in reality, in accordance with the customs of my ancestors”. King Suddhodana answered: “Everybody knows that your ancestors were kings and that none of them ever did such shameful things”. The Buddha continued calmly: “Father! It is true, but I am not talking about worldly ancestors”.
Đức Phật điềm tĩnh nói với vua cha đang giận dữ vì chưa hiểu rõ sự thật: “Thưa cha! Thật ra điều này vốn phù hợp với phong tục của tổ tiên con”.
Vua Suddhodana trả lời: “Mọi người đều biết rằng tổ tiên của cha là vua, và không ai trong số họ từng làm những điều đáng xấu hổ như vậy”.
Đức Phật điềm nhiên nói tiếp: “Thưa cha! Đó là sự thật, nhưng con không nói về tổ tiên thế gian”.
158. “Now I am perpetuating the tradition of all the Buddhas of the past. I mean that I am now the Buddha, and in begging I do what all of my ancestors have done. All the past Buddhas did so, and you must understand that begging for food is done for the purpose of converting people. What all the Buddhas practice, I also do”. After ending his speech, the Buddha explained some fundamentals of the Buddha-Dhamma to King Suddhodana to wipe out his father’s anger. Then the King took the food bowl from the Buddha’s hand and asked him and his disciples to accept food in the palace.
“Bây giờ con đang tiếp nối truyền thống của chư Phật quá khứ. Có nghĩa, hiện tại con đã là Phật, và con thực hành việc khất thực, đó chính là những gì mà tất cả chư Phật quá khứ đã làm. Tất cả các vị Phật trong quá khứ đều làm như vậy, và cha cần hiểu rằng việc khất thực được thực hiện với mục đích để cảm hóa nhân sinh. Tất cả những gì mà chư Phật thực hành, con cũng thực hành đúng như vậy”.
Sau khi dứt lời, Đức Phật giải thích một số nguyên tắc căn bản của Phật pháp cho vua Suddhodana nhằm xóa tan cơn giận của vua cha. Sau đó, nhà vua cầm lấy bát thức ăn từ tay Đức Phật và thỉnh Ngài cùng các đệ tử trở về dùng cơm trong cung điện.
159. In the royal palace, after finishing the very exquisite meal that the King had offered him, the Buddha began to preach to him, his relatives, the officials and all the other people there. He explained in detail the supreme truth he had attained and the method for eliminating all suffering. Everyone in the palace was able to understand, and they received the teaching with confidence and reverently put it into practice and became followers of the Buddha forever.
Trong cung điện hoàng gia, sau khi dùng xong bữa ăn thanh đạm mà nhà vua cúng dường, Đức Phật bắt đầu thuyết pháp cho vua cùng hoàng tộc, các quan và tất cả những người có mặt ở đó. Ngài giải thích cặn kẽ về chân lý tối thượng mà Ngài đã đạt được và phương pháp để diệt trừ mọi đau khổ. Mọi người trong hoàng cung đều chăm chú tiếp nhận và lĩnh hội những lời dạy của Ngài với lòng kính tin, thực hành, và trở thành đệ tử của Đức Phật.
160. Later, at the request of King Suddhodana, the Buddha took two senior disciples and went to Lady Yasodharā living quarters to see her individually, for she was quite sad that she was mot able to listen to the Buddha’s sermon. The Buddha very compassionately enumerated the virtuous deeds of her past and then explained the Dhamma to her. At that time, prince Rāhula was seven years old. He was later ordained by the Buddha and became the first sramanera in the Buddhist teaching.
Sau đó, theo yêu cầu của vua Suddhodana, Đức Phật dẫn hai đại đệ tử tới gặp riêng phu nhân Yasodharā, bà rất buồn vì không được nghe bài giảng của Ngài. Đức Phật rất từ bi kể lại những công hạnh trong quá khứ của bà, bên cạnh đó còn giảng giải về giáo pháp cho bà nghe. Khi ấy, hoàng tử Rāhula vừa lên bảy tuổi cũng có mặt ở đấy, cậu bén duyên và được Đức Phật truyền giới rồi trở thành vị Sa di đầu tiên trong giáo đoàn của Ngài.
161. Besides Rāhula, the Buddha also converted his step-brother Nanda and several princes of the Sākya Clan. They and many other young men of Kapilavatthu all left home and followed the Buddha as Bhikkhus. After the Buddha had left Kapilavatthu, six more princes rushed to Anupiya village to request the Buddha that he accept them as Bhikkhus. Their names were Bhadrika, Aniruddha, Bhagu, Kimbila, Ānanda, and Devadatta.
Ngoài Rāhula, Đức Phật cũng quy phục người em trai cùng cha khác mẹ của mình là Nanda và một số hoàng tử của gia tộc Sakya. Họ và nhiều thanh niên khác của vương quốc Kapilavatthu đều xin xuất gia theo Đức Phật để trở thành những vị Tỳ kheo. Sau khi Đức Phật rời khỏi Kapilavatthu thì sáu hoàng tử khác là Bhadrika, Aniruddha, Bhagu, Kimbila, Ānanda, và Devadatta vội vã đến làng Anupiya để thỉnh cầu Đức Phật cho phép họ được xuất gia làm Tỳ kheo.
162. Many years after he left Kapilavatthu, the Buddha went back again with his stepbrother Nanda, his cousin Ānanda, and Sāriputta and Moggallāna. This time he went to visit his father King Suddhodana, who was seriously ill. Overjoyed at seeing the Buddha again, he showed some improvement, and everybody thought that the King might recover; but the improvement in his health did not last for long. Since King Suddhodana was very old, he could no longer resist any onslanght of illness, and two or three days later his condition became serious once again and finally he passed away. His death caused everybody to grieve deeply.
Nhiều năm sau khi rời thành Kapilavatthu, Đức Phật trở lại với người em kế Nanda, em họ Ānanda, cùng hai vị Sāriputta và Moggallāna. Lần này Ngài đến thăm vua cha Suddhodana đang ốm nặng. Quá vui mừng vì được gặp lại Đức Phật, sức khoẻ của vua có chút cải thiện. Ai cũng nghĩ rằng vua Suddhodana có thể hồi phục, song vì tuổi đã cao nên tình trạng sức khỏe của ông duy trì chẳng được bao lâu thì không còn sức chống chọi với bệnh tật hoành hành. Chỉ vài ba ngày sau, tình trạng của vua trở nên nghiêm trọng hơn và cuối cùng băng hà. Sự ra đi của đức vua khiến mọi người trong nước vô cùng thương tiếc.
163. The Buddha’s aunt, Mahāpajāpatī, had nursed and brought up the Buddha as if he were her own son. When her husband, King Suddhodana, passed away, she became very sad and began to feel tired of the worldly life. She preferred a pure kind of life, liked to follow the Buddha, listening to the Buddha-Dhamma and wished she could leave home and join his group of monks in the practice of Dhamma. So she led a group of women who were unwilling to become court ladies, and they followed the Buddha everywhere.
Di mẫu của Đức Phật là bà Mahāpajāpatī, đã chăm sóc và dưỡng nuôi Ngài như con ruột của mình. Khi phu quân bà là vua Suddhodana qua đời, bà vô cùng đau buồn và bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống thế gian. Bà muốn có một cuộc sống thanh tịnh theo chân Đức Phật, được học Phật nghe pháp, và bà ước nguyện có thể xuất gia trong Tăng đoàn của Ngài để thực hành giáo pháp. Vì vậy, bà dẫn theo một nhóm phụ nữ gồm những người không muốn trở thành cung nữ, mà chỉ muốn được đi theo bước chân Đức Thế Tôn tới khắp mọi nơi.
164. Lady Mahāpajāpatī requested the Buddha’s kind- permission to let her leave home and become a nun so that she could follow him closely, learn and practice according to his teaching as other Bhikkhus did. Although she implored him many times that she and the other women be accepted as Bhikkhunls, she was refused by Buddha for three times. She then became so disappointed and felt so deeply hurt that she and the other women all began to weep.
Bà Mahāpajāpatī đã cầu xin Đức Phật cho phép bà được xuất gia và trở thành một Tỳ kheo ni, để bà có thể tu học và thực hành lời Phật dạy như các vị Tỳ kheo khác. Mặc dù bà và những người phụ nữ dòng họ Thích Ca đã ba lần cầu xin được xuất gia làm Tỳ kheo ni, nhưng Đức Phật đều từ chối. Lúc này, họ bắt đầu khóc lóc vì thất vọng và cảm thấy bị tổn thương sâu sắc.
165. When King Suddhodana's cremation was ended, the Buddha left Kapilavatthu and began travelling and preaching from place to place. At one point he came to the country of Vesāli and resided at the Mahāvana Monastery. Lady Mahāpajāpatī and her group of women all shaved their heads, put on Kā āyas (robes for monks or nuns), and journeyed on foot toward Vesāli. They could only walk a short distance each day, so it took them a long time to arrive finally at Mahāvana Monastery, where the Buddha was staying.
Khi lễ hỏa táng vua Suddhodana kết thúc, Đức Phật rời thành Kapilavatthu để đi du hóa khắp nơi. Một dạo, Ngài đi đến Vesāli và trú tại tinh xá Mahāvana. Bà Mahāpajāpatī và nhóm thị nữ đều đã cạo tóc, khoác y Ca sa và đi bộ hướng về Vesāli. Mỗi ngày, đoàn người chỉ có thể đi bộ được một quãng đường ngắn, nên phải rất lâu sau đó họ mới đến được tinh xá Mahāvana, nơi Đức Phật đang cư ngụ.
166. When they arrived, after walking for a long time, their feet were all swollen, and their bodies had become thin and weakened by fatigue. Mahāpajāpatī stood at the entrance to the monastery and could not hold back her tears. Ānanda had just come out of the monastery gate and found the lady weeping sorrowfully. He asked her why she was crying. The lady said: “Venerable Ānanda! The Buddha did not allow me and my women to leave home. I want nothing else. I wish only to leave home and become a nun, and so I am crying!”
Vì phải đi bộ quá lâu trên chặng đường dài, nên khi đến nơi, bàn chân của họ đều sưng phồng và cơ thể mệt mỏi tiều tụy. Bà Mahāpajāpatī đứng trước cổng tinh xá mà không cầm được nước mắt. Lúc đó vừa hay Tôn giả Ānanda bước ra tới cổng, thấy bà đang khóc lóc buồn bã bèn hỏi nguyên do.
Bà trả lời: “Thưa Tôn giả Ānanda! Đức Phật không cho phép con và những người nữ này xuất gia. Chúng con không cần gì cả, mà đơn giản chỉ là mong muốn được xuất gia trở thành một vị khất sĩ”.
167. Ānanda consoled her: “My noble lady! Please wait here for a short while. If this is so, I shall entreat the Buddha to have compassion and to allow women to practice Dhamma as well as the Bhikkhus”. Promising the lady that he would do all that he could to help her, Ānanda then went back into the monastery to see the Buddha. With deep reverence, he requested that the Buddha show his mercy and let women leave home as men were allowed to do so. But the Buddha replied: “Ānanda! No, no! Do not ask me to do this!”
Ānanda an ủi: “Thưa di mẫu! Người hãy ở đây đợi một chút. Chuyện đã vậy, tôi sẽ thỉnh cầu Đức Phật mở lòng từ bi cho phép người nữ được tu tập như các vị Tỳ kheo”.
Sau khi hứa sẽ cố hết sức để giúp bà, Ānanda trở về tinh xá gặp Đức Phật và thỉnh cầu Ngài rủ lòng thương xót chấp thuận cho người nữ được xuất gia như nam giới.
Nhưng Đức Phật trả lời: “Này Ānanda! Không thể, không thể! Chớ thỉnh cầu Ta việc ấy”.
168. Ānanda did not back down, with courage, persisted in his entreaty for the second and even the third time; but even so the Buddha refused his request each time. Ānanda thought to himself: “The Buddha does not consent upon my direct request. Maybe will consent if I plead in a different way”. So he asked: “Buddha! If women quitthe worldly affairs and become nuns and strictly practice a pure life according to an will they be able to follow the order of the Holy path to attain to the tour? Will they be able to attain Nibbāna?” The Buddha replied: “Ānanda! If women quit the worldly affairs, become nuns and practice according to Dhamma, they too can, at their present lifetime, attain the stages of arhant and Nibbāna”.
Ānanda vẫn không nản lòng, quyết chí cầu xin lần thứ hai và thậm chí lần thứ ba. Tuy nhiên, lần nào Đức Phật cũng từ chối yêu cầu của thầy. Ānanda thầm nghĩ: “Đức Phật không đồng ý lời thỉnh cầu trực tiếp của ta. Nếu cầu xin theo một cách khác có lẽ Ngài sẽ đồng ý”.
Thế rồi, thầy lại thưa: “Bạch Thế Tôn! Nếu người nữ lìa bỏ đời sống thế tục để xuất gia tu tập, nghiêm chỉnh thực hành nếp sống phạm hạnh thì họ có thể theo tuần tự của Thánh đạo chứng đắc bốn quả Thánh hay không? Có thể chứng ngộ Niết Bàn hay không?”
Đức Phật trả lời: “Này Ānanda! Nếu người nữ lìa bỏ thế tục, xuất gia tu tập theo giáo pháp thì hiện đời họ cũng có thể đạt được quả vị A la hán, chứng ngộ Niết Bàn”.
169. Ānanda then said: “In that case, I beg the Buddha to consider that, lady MahaPrajāpati has, in former times, done you the greatest favor; for she is your aunt, as well as your foster-mother, and she breast-fed you since your mother passed away as well as teaching you and bringing you up like your mother. Buddha, I beg you, for the sake of this lady, kindly allow women to leave home like men so that they can also practice the Buddha-Dhamma in pursuit of the highest holy fruit that you have expounded to the people of the world”.
Ānanda bèn thưa tiếp: “Nếu vậy, xin Đức Thế Tôn hãy nghĩ lại, di mẫu Mahāpajāpatī trước đây có ân rất lớn với Người. Bà vừa là dì vừa là kế mẫu của Người, khi mẹ Người mất bà đã thay thế nuôi nấng dạy dỗ Người như mẹ ruột. Thế Tôn, con xin Người hãy vì bà ấy mà cho phép người nữ cũng được xuất gia như nam giới, để họ được thực hành Phật pháp và chứng ngộ quả vị tối thượng mà Người đã thuyết giảng cho khắp thế gian”.
170. The Buddha said: “All right, Ānanda! If Lady Mahāpajāpatī is willing to observe the eight ways of showing respect strictly, I shall allow her to leave home!” Then he explained the eight forms of showing respect to Ānanda, and finally he stood up and said: “Ānanda! If lady Mahāpajāpatī willingly observes these eight forms of showing respect all her life, she will be a Bhikkhunls, pure in conduct and complete in virtue!”
Đức Phật nói: “Thôi được, Ānanda! Nếu bà Mahāpajāpatī sẵn sàng tuân thủ nghiêm ngặt ‘Bát kính pháp’ (Tám pháp cung kính), thì Ta sẽ cho phép bà ấy xuất gia!”
Rồi Đức Phật giảng về “Bát kính pháp” cho Ānanda.
Cuối cùng Người đứng lên và nói: “Ānanda! Nếu Mahāpajāpatī bằng lòng kính giữ Bát kính pháp trọn đời, thì bà ấy sẽ là một Tỳ kheo ni thanh tịnh và đầy đủ phạm hạnh.
171. Having obtained the Buddha's permission, Ānanda went out to tell Lady Mahāpajāpatī what the Buddha had said. The lady was very happy, and she said to Ānanda: “Venerable Ānanda! Young girls love to dress up; they shampoo and bathe themselves and then, with both hands, raise beautiful, fragrant flower garlands to place on their heads, carefully adjusting and fixing this decoration. Likewise, I shall observe the eight commandments as if they were a garland of flowers on a young girl's head and make sure that this garland does not fall from my head throughout my life”.
Được Đức Phật cho phép, Ānanda đi ra ngoài thuật lại với bà Mahāpajāpatī những gì Đức Phật đã nói.
Bà vô cùng vui mừng và thưa với thầy Ānanda: “Tôn giả Ānanda! Những thiếu nữ thích ăn diện, họ gội đầu, tắm rửa rồi hai tay nâng những vòng hoa thơm ngát xinh đẹp đặt lên đầu và cẩn thận chăm chút món trang sức ấy. Cũng vậy, chúng con sẽ hết lòng tuân giữ Bát kính pháp như người thiếu nữ giữ vòng hoa trên đầu. Đồng thời chúng con đảm bảo rằng, cả đời này sẽ không để vòng hoa rơi khỏi đầu mình”.
172. Ānanda returned to see the Buddha once again, bowed and then said: “Buddha! Lady Mahāpajāpatī is willing to observe strictly the eight ways of showing respect that you have mentioned, for she has now realized her desire of being able to become a Bhikkhunls!” The Buddha said: “Ānanda, If women join the order the correct doctrine of Dhamma will prevail for a shorter period than the case only men joined; for if a tribe has more women than men, how can they ward off ferocious bandits and resist outside oppression? With women as nuns, the Buddha Dhamma cannot prevail for very long” (According to the Buddha's prediction, if women joined the Sangha, starting with Mahāpajāpatī as the first Bhikkhu ī the time of prevalence of the Dhamma would be shortened by five hundred years).
Một lần nữa, Ānanda trở lại gặp Đức Phật, đỉnh lễ và thưa rằng : “Bạch Thế Tôn! Bà Mahāpajāpatī sẵn sàng tuân thủ nghiêm ngặt Bát kính pháp mà người truyền dạy, vì bà ấy giờ đây chỉ muốn làm một Tỳ kheo ni!”
Đức Phật bảo: “Này Ānanda, nếu người nữ gia nhập Tăng đoàn, thì chính pháp không tồn tại lâu như giáo đoàn chỉ có Tỳ kheo. vì nếu một bộ lạc có nhiều phụ nữ hơn nam giới thì làm sao họ có thể xua đuổi bọn cướp hung dữ và chống lại sự áp bức từ bên ngoài. Người nữ xuất gia thì Phật pháp không thể trụ thế lâu dài” (theo lời tiên đoán của Đức Phật, nếu người nữ gia nhập Tăng đoàn, bắt đầu từ vị Tỳ kheo ni đầu tiên là Mahāpajāpatī, thì thọ mạng của chính pháp tương lai sẽ bị giảm đi 500 năm).
173. Of all the disciples of the Buddha, Ānanda, his cousin, revered the Buddha most. He was, therefore selected to be the Buddha's close attendant. Another of Buddha's cousins had also left home and similarly become a monk when the Buddha was fifty-five years old. But this cousin's actions were all contrary to Ānanda's. Instead of obeying and serving the Buddha, he competed with him on every occasion, was very envious of him, and tried every trick, with the help of evil people among his relatives and friends, disrupt the Sangha. This cousin's name was Devadatta.
Trong tất cả các đệ tử của Đức Phật thì Ānanda, cũng là em họ của Ngài, là người quý kính Đức Phật nhất nên thầy được chọn làm thị giả thân cận bên cạnh Ngài. Ngoài ra, có một người anh em họ khác của Đức Phật tên là Devadatta cũng xuất gia khi Đức Phật được 55 tuổi, nhưng hành động của người anh họ này đều trái ngược với Ānanda. Thay vì vâng lời dạy của Đức Phật thì trong lòng ông ta lại chất đầy sự đố kỵ và ganh đua với Phật, nên đã cấu kết với kẻ xấu, tìm mọi cách để phá hoại Tăng đoàn.
174. Devadatta was a haughty man. He was especially dissatisfied because Sāriputta and Moggallāna, both not of the Sākya Clan, had been chosen to be the Budonas chief disciples and were very much honored by all. So he left the Sangha and went alone to Rājagaha in order to contact Ajātasattu, the crown- prince of King Bimbisāra. At Rājagaha he spoke in a manner that prince Ajātasattu admired and gained respect. So the prince built a splendid monastery near Rājagaha, which was to be use solely as Devadatta's residence, and promised to support him forever.
Là một người kiêu ngạo, Devadatta vô cùng bất mãn khi thấy hai thầy Sāriputta và Moggallāna đều không thuộc gia tộc Sakya nhưng lại được tôn xưng làm đại đệ tử của Đức Phật, được mọi người tôn kính. Do đó, ông ta rời Tăng đoàn một mình đi đến Rājagaha để gặp gỡ thái tử Ajātasattu, con vua Bimbisāra. Cách nói chuyện sắc sảo của ông ta đã khiến Ajātasattu đem lòng ngưỡng mộ, nên thái tử đã xây dựng một tu viện lộng lẫy gần Rājagaha làm nơi ở dành riêng cho Devadatta, và hứa sẽ hộ trì ông ta mãi mãi.
175. Many years later, the Buddha went to Rājagaha again. Devadatta visited him and requested his permission to establish a new Sangha with himself as leader. The Buddha turned down his request, explaining that anything that divides a Sangha would not result in good consequences. But Devadatta persisted in carrying out his own plan regardless of the Buddha's warning, and his plan had the complete support of prince Ajātasattu. However, King Bimbisāra, the prince's father, remained a firm supporter of the Buddha and flatly refused to co-operate in establishing the new Sangha.
Nhiều năm sau, Đức Phật trở lại Rājagaha. Devadatta đến gặp Phật và đề nghị Ngài cho phép ông thành lập một Tăng đoàn mới với tư cách là người lãnh đạo. Đức Phật từ chối yêu cầu của ông, giải thích rằng bất cứ điều gì gây chia rẽ Tăng đoàn sẽ không dẫn đến kết quả tốt. Nhưng Devadatta vẫn kiên trì thực hiện kế hoạch của riêng mình, bất chấp lời cảnh báo của Đức Phật. Và kế hoạch của ông được sự ủng hộ hoàn toàn của thái tử Ajātasattu. Tuy nhiên, cha của Thái tử là vua Bimbisāra vốn là người Phật tử thuần thành nên đã thẳng thừng phản đối việc thành lập Tăng đoàn mới.
176. Using devious means, Devadatta enticed prince Ajātasattu so that, latter, the prince trusted him completely and did everything according to his intention. When Devadatta was satisfied that he had a firm control over the prince's will, he suggested to the prince Ajātasattu that he should banish his father and become King of Magadha himself; for then he could do whatever he liked, such as helping Devadatta establish the new Sangha, without any hindrance. Prince Ajātasattu followed his suggestion. He put his father in prison, gave him no food, and, finally, starved him to death. This incident occurred in the thirty-seventh year after the Buddha attained the state of the perfect enlightenment.
Bằng những phương pháp ranh ma, Devadatta lôi kéo được thái tử Ajātasattu để sau này thái tử hoàn toàn tin tưởng và làm mọi việc theo ý mình. Khi Devadatta tin chắc rằng mình đã kiểm soát được định hướng của thái tử, ông ta đề nghị Ajātasattu phế truất vua cha và tự phong mình làm quốc vương của Magadha; để rồi ông ta có thể làm bất cứ điều gì mình thích, chẳng hạn như giúp Devadatta thành lập Tăng đoàn mới mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Ajātasattu đã nghe theo lời xúi giục của ông ta, ngay sau đó tống giam cha mình vào ngục và bỏ đói cho đến chết. Sự việc này xảy ra vào năm thứ 37 sau khi Đức Phật chứng ngộ.
177. Now Devadatta had enough power to make his move, for the new king was his friend and supporter, willing to do, with all his effort, whatever Devadatta proposed to him. Devadatta asked the prince to recruit a group of skillful archers and hire them at a high price to kill the Buddha, but when they came upon the Buddha's residence and noticed the peace, kindness, solemnity and reverence in the Buddha's manner, they were very much impressed and immediately realized that they should not harm the Buddha. So they went all together to the Buddha and confessed to him that they felt guilty of being hired to perform such an evil act. The Buddha pardoned them and consoled them gently, and they, in turn, all vowed to follow the Buddha as his disciples.
Bấy giờ, Devadatta xem như đã có đủ quyền lực để thực hiện tham vọng của mình vì có Ajātasattu làm người hậu thuẫn, sẵn sàng dốc toàn lực thực hiện bất cứ điều gì ông ta đề xuất. Sau đó, Devadatta đề nghị thái tử tuyển mộ một nhóm cung thủ điêu luyện và trả giá cao để họ ám sát Đức Phật. Nhưng khi nhóm người này đến nơi ở của Đức Phật, họ vô cùng cảm kích khi thấy được phong thái ôn hòa, từ ái, trang nghiêm và khả kính của Ngài; khiến họ nhận ra rằng không nên làm hại Đức Phật. Vì vậy, họ cùng nhau đến gặp Đức Phật và thú nhận với Ngài rằng họ cảm thấy tội lỗi khi nhận lời đề nghị xấu xa độc ác này. Đức Phật tha thứ cho họ và ân cần an ủi. Thế rồi, họ lần lượt đều phát nguyện theo Đức Phật làm đệ tử của Ngài.
178. When all plots to kill the Buddha by using other people failed, Devadatta decided to take the matter into his own hands and do it himself. He waited on the side of the Vulture Peak Mountain above a road near the Buddha's residence, which the Buddha often used to pass by. One evening, as the Buddha was walking by. Devadatta, hiding above, pushed a huge stone down the hillside, intending to kill the Buddha. But the stone, which was aimed at the Buddha's head, suddenly broke into many small pieces, only one sharp fragment hit the Buddha's foot, causing some bleeding but no serious damage. The Buddha returned to the monastery and received treatment from the same physician Jivaka.
Khi mọi âm mưu giết Đức Phật bằng cách lợi dụng người khác đều thất bại, Devadatta quyết định tự mình thực hiện. Ông ta chờ sẵn ở sườn núi Linh Thứu, trên con đường mà hàng ngày Đức Phật thường đi qua. Một buổi tối nọ, khi Đức Phật chuẩn bị đi tới, Devadatta đang nấp ở trên liền đẩy một tảng đá lớn xuống sườn đồi để ám hại Đức Phật. Nhưng tảng đá vốn nhắm vào đầu của Đức Phật đột nhiên vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ, có một mảnh sắc nhọn văng ra khiến chân Đức Phật chảy máu, song chỉ là vết thương ngoài da. Đức Phật trở về tinh xá và được ngự y Jivaka chữa trị.
179. Again his deadly plot had failed, but Devadatta still continued eagerly to do harm to the Buddha. This time his plan was to set loose the wild elephant Nalagiri, in order to kill the Buddha on the road that the Buddha took when he went begging for food at Rājagaha. However, when the wild elephant approached the Buddha, it failed to act as Devadatta had expected, on the contrary, became calm, for it was tamed by the Buddha's enormous compassion. Thereafter, Devadatta could do nothing but cease the plan to murder the Buddha, yet he still intended to disrupt the Sangha.
Một lần nữa âm mưu sát hại bị thất bại, nhưng Devadatta vẫn nung nấu quyết tâm hãm hại Đức Phật. Lần này, ông ta lên kế hoạch thả con voi dữ Nalagiri trên con đường Đức Phật đi khất thực để giết Ngài. Tuy nhiên, khi con voi đến gần Đức Phật, nó đã không làm như Devadatta mong đợi, mà ngược lại nó còn trở nên hiền hòa bởi lòng từ bi rộng lớn của Đức Phật cảm hóa. Sau đó, Devadatta đành phải ngừng kế hoạch sát hại Đức Phật, tuy nhiên ông ta vẫn giữ ý định phá hoại Tăng đoàn.
180. In order to give the Bhikkhus the impression that what he practiced was even stricter than what the Buddha taught, Devadatta, once again went to see the Buddha, acting as if he had never even tried to disrupt the Sangha. He requested the Buddha to enforce a more stringent code of behavior, as other monastic sects did, such as not allowing Bhikkhus to live in covered houses, but only in the open, under trees in the forest. He also asked the Buddha to prevent Bhikkhus from eating any kind of meat, and he suggested to the Buddha that anyone who failed to observe this rule should be ousted from the Sangha.
Để tạo cho các Tỳ kheo ấn tượng rằng những gì ông ta thực hành thậm chí còn nghiêm khắc hơn những gì Đức Phật dạy, Devadatta lại một lần nữa đến gặp Đức Phật, làm như thể ông chưa bao giờ cố gắng phá hoại Tăng đoàn. Ông yêu cầu Đức Phật thực thi quy tắc sinh hoạt nghiêm khắc hơn, như các giáo phái tu viện khác đã làm, chẳng hạn như không cho phép Tỳ kheo sống trong những ngôi nhà có mái che mà chỉ được ở ngoài trời hoặc dưới tán cây trong rừng. Ông cũng yêu cầu Đức Phật ngăn cấm các Tỳ kheo ăn bất kỳ loại thịt nào, cũng như ai không tuân theo quy tắc này đều sẽ bị trục xuất khỏi Tăng đoàn.
181. The Buddha openly refused Devadatta's request, saying: “If some Bhikkhus prefer to live in the open or under trees, they are free to do so; but if anyone does not like to do so, he may choose to live in whatever kind of accommodation his patron provides”. Regarding Devadatta's other suggestions for tightening up the rules, the Buddha ruled in a similar manner: “If anyone whishes to eat only the food he has begged, or to wear clothes made only of cloth strips picked up in the woods or from garbage piles, or to eat only vegetables and no meat, he is free to do so; but if someone does not wish to do so, he does not have to”. Finally, Buddha warned Devadatta: “Do not attempt to do anything to disrupt the Sangha, for you will reap the evil fruits of such an attempt”.
Đức Phật thẳng thắn từ chối yêu cầu của Devadatta và nói rằng: “Nếu một số Tỳ kheo thích sống ngoài trời hoặc dưới tán cây hơn, họ được tự do làm điều đó. Nhưng nếu ai không thích như vậy, người đó có thể chọn sống trong bất kỳ loại chỗ ở nào mà người thí chủ cúng dường”.
Với những đề nghị thắt chặt luật lệ khác của Devadatta, Đức Phật cũng quyết theo cách tương tự: “Nếu ai muốn ăn thức ăn mà chính mình xin được, hoặc chỉ mặc quần áo làm từ những miếng vải nhặt trong rừng hoặc từ đống rác, hay chỉ ăn rau mà không dùng thịt, người đó được tự do làm như vậy. Nhưng nếu ai đó không muốn thì không cần phải làm như vậy”.
Cuối cùng, Đức Phật cảnh báo Devadatta: “Đừng cố làm bất cứ điều gì để phá hoại Tăng đoàn, vì ông sẽ gặt quả ác từ những điều ấy”.
182. Devadatta, however, paid no attention to the Buddha's warning and took his leave feeling very spiteful. Soon he led away a group of Bhikkhus who trusted him, formed a new Sangha in the country with himself as their leader, and strictly observed his new code of living. Being aware of all this, the Buddha sent Sāriputta to advise this group of Bhikkhus to get themselves out of this unfortunate situation. Sāriputta arrived just as Devadatta was taking his nap. He then related honestly what the Buddha's opinion was regarding the formation of the new Sangha and also pointed out to them many facts about Devadatta's character and actions. This new information and insight changed the minds of all the Bhikkhus, and they all returned to the Buddha with Sāriputta.
Tuy nhiên, Devadatta phớt lờ lời cảnh báo của Đức Phật và hằn học bỏ đi. Chẳng bao lâu, ông ta đã dẫn dắt một nhóm Tỳ kheo thân tín, thành lập một Tăng đoàn mới trong vương quốc do chính ông ta làm thủ lĩnh và tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc sống mới của mình. Khi biết được điều này, Đức Phật đã cử Tôn giả Sāriputta đến khuyên nhóm Tỳ kheo hãy thoát khỏi con đường tai hại này. Tôn giả đến đúng lúc Devadatta đang ngủ trưa, thầy thành thật kể lại ý kiến của Đức Phật về việc hình thành Tăng đoàn mới và cũng chỉ ra cho họ nhiều sự thật trong tính cách và hành động của Devadatta. Cái nhìn đa diện và sâu sắc này đã thay đổi hoàn toàn tư tưởng của các vị Tỳ kheo, và tất cả họ đều theo Sāriputta trở về sám hối với Đức Phật.
183. When Devadatta woke up from his afternoon nap, he became aware that it was unusually everywhere. He came out to investigate and there was not a single Bhikkhu remaining. After a while others told him that Sāriputta had come and talked to the Bhikkhus and took them back to the Buddha. Devadatta was extremely furious, but since le could not walk for a long way because of his body was weak, he ordered his servants prepare the sedan- chair and to carry him to see the Buddha so that he could find out the Buddha's purpose when he drew back to himself all the Bhikkhus.
Sau giấc ngủ trưa, Devadatta thức dậy và nhận thấy không gian xung quanh yên tĩnh một cách lạ thường. Ông ta ra ngoài xem thì không còn bóng dáng của vị Tỳ kheo nào cả. Lát sau có người nói với ông ta rằng Sāriputta đã đến nói chuyện với các Tỳ kheo và đưa họ trở về bên Đức Phật. Devadatta vô cùng tức giận, nhưng vì thân thể yếu ớt không thể đi xa nên đã ra lệnh cho những người hầu của mình chuẩn bị kiệu khiêng ông ta đến gặp Đức Phật để tìm hiểu mục đích của Đức Phật khi dẫn dắt tất cả các Tỳ kheo trở lại với Ngài.
184. When the Bhikkhus learned that Devadatta was approaching in a rage, they offered their opinion requesting the Buddha that he should hide himself, for they feared that an irritated Devadatta might become dangerous when he saw the Buddha. But the Buddha was not afraid at all. He said to Sāriputta: “Devadatta cannot do any harm to the Buddha”. Later on, people found that what the Buddha had said was entirely true, for the Bhikkhus were soon informed that Devadatta had died unexpectedly when the chair-bearers paused on the road for a short rest. From that time until the Buddha's Nibbāna, the Sangha was never disrupted again.
Khi các Tỳ kheo biết Devadatta đang giận dữ tiến đến, họ đưa ra ý kiến đề nghị Đức Phật nên tránh đi, vì họ sợ rằng Devadatta tức giận có thể trở nên nguy hiểm khi nhìn thấy Đức Phật.
Nhưng Đức Phật không hề sợ hãi, Ngài nói với Sāriputta: “Devadatta không thể nào hại được Phật”.
Sau đó, mọi người phát hiện những gì Đức Phật đã nói hoàn toàn chính xác, vì các Tỳ kheo nhanh chóng được thông báo rằng Devadatta đã đột tử trong lúc những người khiêng kiệu dừng lại nghỉ ngơi trên đường. Từ đó cho đến khi Đức Phật nhập diệt, Tăng đoàn không còn bị phá rối một lần nào nữa.
185. The Buddha taught and converted beings for altogether forty-five years. He travelled among the neighboring kingdoms in India, both large and small, always on foot, never using any vehicle. During the rainy seasons, he stayed at monasteries offered to him by various patrons. The places the Buddha stayed the most were Veṇuvana, near Rajagaha, offered to him by King Bimbisāra, and Jetavana, near Sāvatthī, donated by Anāthapi ika. During all these years, the Buddha worked diligently every day to teach and to propagate the Dhamma.
Đức Phật đã thuyết pháp giáo hóa chúng sinh trong suốt 45 năm. Ngài luôn đi bộ qua lại giữa các vương quốc lớn nhỏ lân cận ở Ấn Độ mà không hề sử dụng bất kỳ phương tiện nào. Suốt những mùa mưa, Ngài ở lại các tinh xá do thí chủ dâng cúng. Những nơi Đức Phật ở thường xuyên nhất là Ve uvana, gần thành Rajagaha, do vua Bimbisāra cúng dường; và Jetavana, gần thành Sāvatthī, do ông Anāthapi ika dâng cúng. Trong những tháng năm ấy, ngày nào Đức Phật cũng chuyên cần giảng dạy và truyền bá chính pháp.
186. The Buddha usually got up before dawn, took a bath, and then went into samādhi to examine people's natures and characters. When he found that someone was suitable and ready to accept his teaching, he would go to that person's place and convert him in the same day. After daybreak, the Buddha put on his robe, took his bowl, and went for alms from the people in the neighborhood. He sometimes went alone and sometimes with Bhikkhus in neat files, everyone with a bowl in hand; and in a peaceful and gracious manner when they passed one house after another, accepting the food from all patrons.
Đức Phật thường thức dậy trước bình minh, tắm rửa, rồi nhập định để quán xét bản chất và căn cơ của mọi người. Khi nhận thấy ai đó đầy đủ nhân duyên và sẵn sàng tiếp nhận lời dạy của mình, Ngài sẽ đến chỗ người ấy và chuyển hóa họ ngay trong ngày hôm đó. Trời vừa tảng sáng, Đức Phật đắp y, cầm bình bát và đi khất thực quanh chỗ Ngài ở. Đôi khi Ngài đi một mình, và cũng có lúc đi thành hàng thứ tự ngay ngắn cùng chúng Tỳ kheo. Mọi người đều mang bát, điềm đạm và khoan thai đi lần lượt từng nhà để nhận thức ăn từ các vị thí chủ.
187. Sometimes there were people who respectfully invited the Buddha to their homes to accept offerings. The Buddha usually accepted the invitation if there was a proper reason. At the patron's home, the Buddha would sit on a prepared mat, and the patron would take the Buddha's bowl and fill it with the best food and offer to him. After eating the food and washing his hands, the Buddha expounded Dhamma to the people who were there, make them to understand that after doing good or bad things, they would correspondingly gain either happiness or misery, in either this life or in a future life. He also advised and instructed them to practice diligently the Buddha-Dhamma. Then the Buddha returned to the monastery.
Đôi lúc có những người cung kính thỉnh Đức Phật đến nhà họ để nhận phẩm vật cúng dường. Đức Phật thường sẽ nhận lời nếu họ có lý do chính đáng. Tại nhà của thí chủ, Đức Phật sẽ ngồi trên một chiếc chiếu đã được chuẩn bị sẵn, và vị thí chủ lấy chiếc bát của Đức Phật để đầy thức ăn ngon nhất dâng lên Ngài. Sau khi ăn xong và rửa tay, Đức Phật giảng pháp cho những người ở đó, giúp họ hiểu được sau khi làm điều tốt hay điều xấu thì họ sẽ nhận được hạnh phúc hay khổ đau tương ứng ngay trong đời này hoặc đời sau. Thêm vào đó, Ngài cũng khuyên nhủ và hướng dẫn họ tinh tấn thực hành Phật pháp. Sau đó Đức Phật trở về tinh xá.
188. In the monastery, the Buddha used to sit quietly in the rest hall or under a tree in the surrounding area waiting until all the Bhikkhus returned from their alms round and finished eating and went then for a while into his room to rest. When all the Bhikkhus had assembled in the discussion hall, the Buddha would give a sermon that befitted a particular occasion. Or he would encourage the Bhikkhus during their discussions to learn and practice diligently the Buddha-Dhamma so that they might achieve the final goal of attaining Nibbāna in this present life.
Tại tinh xá, Đức Phật thường tĩnh tọa trong phòng nghỉ hoặc dưới một gốc cây quanh đó, đợi cho đến khi tất cả các Tỳ kheo đi khất thực trở về, ăn xong rồi vào phòng nghỉ ngơi. Khi các vị Tỳ kheo đã tập hợp trong giảng đường, Đức Phật sẽ tùy cơ thuyết pháp. Hoặc Ngài sẽ khuyến khích các thầy ấy trong suốt các buổi pháp đàm học hỏi và siêng năng thực hành Phật pháp để đạt được mục tiêu cuối cùng là chứng đắc Niết Bàn ngay trong kiếp sống hiện tại.
189. When the Buddha had finished expounding the Dhamma, some Bhikkhus often requested the Buddha to outline the main objectives of Dhamma so that they could understand and recite in a way that befitted their particular natures and capacities. The Buddha would then consider the nature and the degree of advancement of the individual and give an easy intelligible or a very deep verse that was the most suitable for that particular person. There after the Bhikkhus dispersed, each bhikkhu would find a quiet place in the forest or under a tree or in a deserted dwelling, where he would sit down to meditate and recite the verse that the Buddha had given to him. The Buddha would also return to his own living quarters.
Khi Đức Phật thuyết pháp xong, một số Tỳ kheo thường thỉnh cầu Đức Phật tóm lược các điểm chính của giáo pháp để họ có thể hiểu và đọc thuộc lòng theo cách phù hợp với khả năng của từng người. Đặc biệt, Đức Phật sẽ quán sát căn cơ và trình độ tinh tiến của từng người rồi đưa ra bài kệ hoặc dễ hiểu hoặc thâm sâu, sao cho phù hợp nhất với bản thân họ. Sau đó các Tỳ kheo giải tán, mỗi người sẽ tìm một nơi yên tĩnh trong rừng, hoặc dưới gốc cây, hoặc một nơi vắng vẻ để ngồi thiền và tụng đọc bài kệ mà Đức Phật đã dạy. Còn Đức Phật cũng trở về nơi nghỉ của mình.
190. In the summer time, if the Buddha stayed at a certain place, the people in the neighborhood would come to visit him in the evening. Some came with offerings; some came to listen to his preaching. By various means and using skillful and marvellous language, the Buddha always made everyone understand what he said. Everybody - whether rich, poor, learned or ignorant felt that the Buddha had expounded the Dhamma for him. Thus, after the sermon, everybody was happy and satisfied and showed before the Buddha that he had confidence in the Buddha-Dhamma and would put it strictly and reverently into practice throughout his lifetime.
Vào mùa hè, nếu Đức Phật ở tại một số nơi nhất định, thì người dân trong vùng sẽ đến đỉnh lễ Ngài vào buổi tối. Một số tới cúng dường các phẩm vật, số khác đến để nghe Ngài giảng pháp. Bằng nhiều phương tiện và ngôn ngữ thiện xảo, Đức Phật luôn giúp cho mọi người dễ dàng tiếp cận và thẩm thấu những lời Ngài nói. Bất kể tầng lớp xã hội nào, giàu hay nghèo, trí thức hay dân thường, mọi người đều cảm thấy dường như Đức Phật đang giảng bài pháp dành riêng cho họ. Vì thế, sau thời pháp, mọi người đều hoan hỷ, mãn nguyện và bày tỏ với Đức Phật rằng mình tin tưởng Phật pháp và sẽ cung kính thực hành tinh chuyên trong suốt cuộc đời.
191. After the people had left, the Buddha returned to the monastery to bathe, but if there was a suitable river or pond in the vicinity, he might take a bath there in the evening. After his bath, the Buddha would enter into samādhi to rest for some time and then continue to receive Bhikkhus coming from other places. The Buddha would inquire about how they were taught and instruct them and explain to them the Buddha-Dhamma part which was difficult to understand, help them to understand and leave afterwards with full of joy.
Sau khi mọi người rời đi, Đức Phật trở về tinh xá tắm rửa, nhưng nếu gần đó có sông hoặc ao hồ thích hợp, Ngài có thể xuống đó tắm vào buổi tối. Tắm xong, Đức Phật sẽ trở về nơi nghỉ nhập định rồi sau đó lại tiếp nhận các thầy Tỳ kheo từ những nơi khác đến hỏi đạo. Đức Phật sẽ hỏi xem họ được giảng dạy như thế nào, hướng dẫn và giải thích cho họ những chỗ giáo pháp khó hiểu, giúp họ hiểu ra và sau đó rời đi một cách hoan hỷ.
192. Being tired after sitting all day, the Buddha took his “promenade” at the dusk time. He walked back and forth in one place within the monastery to get rid of his fatigue and to regain his freshness. Every evening, after his promenade, the Buddha would talk again with the Bhikkhus. Late at night, important persons, such as kings might come to visit the Buddha and inquire about certain problems, and the Buddha answered their questions and they left afterwards with full of joy.
Sau khi ngồi cả ngày mệt mỏi, Đức Phật đi “thiền hành” vào lúc hoàng hôn. Ngài đi tới đi lui một chỗ trong tu viện để an dưỡng thân tâm và làm mới bản thân. Sau mỗi buổi thiền hành tối, Đức Phật lại nói chuyện với các thầy Tỳ kheo. Vào đêm khuya, những người quan trọng chẳng hạn như vua chúa có thể đến thăm hỏi và lắng nghe Đức Phật giải đáp về một số vấn đề còn vướng mắc, sau đó vui vẻ rời đi.
193. After that it was time for sleeping. The Buddha slept with his right side down, his two legs slightly bent, the left one on the right one; his left hand was placed on his left thigh, and his right hand was bent back placed under his right cheek. The Buddha went quietly to sleep at the proper time and awakened before dawn. Then he entered into samādhi to explore the natures of his prospective audiences for the day and continued after daybreak to expound the Dhamma.
Tới giờ nghỉ ngơi, Đức Phật nằm nghiêng về bên phải, hai chân hơi cong lại, chân trái đặt lên chân phải, tay trái đặt trên đùi trái, tay phải gập lại kê dưới má phải, và lặng lẽ đi vào giấc ngủ đúng giờ cũng như thức dậy trước khi bình minh ló rạng. Sau đó, Ngài thường nhập định để quán sát căn cơ của thính chúng trong ngày hôm đó để tùy cơ thuyết pháp khi trời sáng.
194. The Buddha had been teaching and converting people for forty- five years, yet he always worked very hard, never slackening, in his Dhamma propagating work. When he was not journeying on the road, he spent his time not only expounding the Dhamma, but also, because of his vast knowledge and lofty and deep wisdom, solving problems for those people whom he encountered and directing them to their realization of the true meaning of life. He always showed his willingness to help when someone approached him with a question or a probelm, whether he was a farmer, a gardener, a blacksmith, or a cartmaker.
Đức Phật đã thuyết pháp giáo hóa nhân sinh qua 45 năm, suốt một chặng đường cần mẫn không hề chán mỏi trong sự nghiệp hoằng pháp của mình. Ngoài những lúc đi du hóa, Ngài không chỉ dành thời gian để hoằng dương giáo pháp, mà còn nhờ kiến thức uyên bác và trí tuệ sâu sắc của mình nhằm giải quyết mọi nỗi khổ niềm đau cho những người mà Ngài gặp, và chỉ cho họ nhận ra được ý nghĩa chân thật của cuộc đời. Ngài luôn sẵn lòng giúp đỡ khi ai đó tìm đến Ngài với một câu hỏi hoặc một vấn đề nhân sinh, cho dù anh ta là một nông dân, một người làm vườn, một thợ rèn hay thợ làm xe đẩy.
195. The Buddha was never reluctant to answer difficult questions or explain complicated problems; nor had he ever been irked by any inquirer or unable to answer a question. The Buddha always expounded the Dhamma in the most suitable way to the nature of the people, whether they came to learn out of sincerity or they came only to heckle. Those who came to inquire about the more profound aspects of Dhamma were cordially welcomed and were offered perfect and complete explanations. And those who came to challenge or test the Buddha were always defeated by his wisdom, and would finally express their desire to be the Buddha's loyal disciples for the rest of their lives.
Đức Phật không bao giờ miễn cưỡng trả lời những câu hỏi khó hoặc giải thích những vấn đề phức tạp, cũng như chưa bao giờ thấy phiền hà vì bất kỳ câu hỏi nào hay không trả lời được. Đức Phật luôn thuyết pháp sao cho phù hợp nhất với căn cơ của người hỏi, dù họ thật tâm đến học hỏi hay chỉ vì muốn chất vấn. Những người đến để hỏi về những phương diện sâu sắc hơn của giáo pháp đều được chào đón nồng hậu và nhận về những lời giải thích đầy đủ viên mãn nhất. Những người đến với dụng ý thách thức hoặc để thử Đức Phật, luôn bị nhiếp phục dễ dàng bởi trí tuệ và đức từ bi của Ngài. Cuối cùng, ai rồi cũng muốn trọn đời trở thành người đệ tử thuần thành bên Đức Phật.
196. In the forty-fifth years of his travelling and preaching career, the Buddha had reached 80 years old. He realized that his time travelling around was about to end, for he felt his physical strength was declining even though his mind was as strong as ever. Knowing that he could not remain in the world much longer, the Buddha decided to journey to the north to the foothills of the Himalaya, the region that had been the most familiar to him in his younger days. His intention was to enter Nibbāna in that place, so he left Rājagaha with Ānanda and a group of Bhikkhus.
Vào năm hành đạo thứ 45, khi Đức Phật đã bước sang tuổi 80. Ngài nhận thấy nhân duyên giáo hóa sắp mãn, là thời điểm thân thể Ngài đã suy yếu mặc dù trí óc vẫn còn minh mẫn. Biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu, Đức Phật quyết định trở về phía Bắc chân đồi dãy Himalaya, nơi thân thuộc nhất đối với Ngài thời niên thiếu. Đức Phật dự định sẽ nhập Niết Bàn tại đây, và thế là Ngài cùng với Ānanda và một nhóm Tỳ kheo rời thành Rājagaha.
197. On the way north, the Buddha went through the kingdom of Patali and then turned northward passing Vesāli. The Buddha had stayed in Vesāli before, where he received the offering of Āmravana Garden from the dissolute girl Ampapālī, who had competed with the princes of the country to make offerings to the Buddha. When the Buddha arrived at Veṇuvana , he ordered his Bhikkhus to take up residence for the rainy season anywhere they liked, but both the Buddha and Ānanda decided to remain for the rainy season there in the village.
Trên đường trở về phương Bắc, Đức Phật đi qua vương quốc Patali và sau đó quay về hướng Bắc đi qua Vesāli. Trước kia, khi Đức Phật từng ở Vesāli, nơi mà nàng kỹ nữ Ampapālī dâng cúng Vườn Xoài (Āmravana) lên Tăng đoàn, bà cũng là người đã cạnh tranh với các hoàng tử trong nước để được cúng dường Đức Phật. Khi đến Veṇuvana, Đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo hãy kết hạ an cư ở bất cứ nơi nào họ muốn, còn Đức Phật và Ānanda quyết định sẽ ở lại trong làng vào mùa mưa đó.
198. During his stay for the rainy season at Veṇuvana, the Buddha became seriously ill, but later on he gradually recovered and his pain completely disappeared. One day at noon, Ānanda made up the cushion for the Buddha so that he could sit in the shade of the monastery. Ānanda said: “Buddha! I am so happy to see that you have recovered to your normal health condition. I was very sad before to see you so seriously ill. But I always thought that you would not go into Nibbāna at that time but would continue to instruct us Bhikkhus further and long enough so that the Bhikkhus could become the foundation in putting into practice what was taught by the Buddha after your Nibbāna”.
Trong mùa an cư tại thôn Veṇuvana, Đức Phật lâm trọng bệnh, nhưng sau đó Ngài dần dần bình phục và cơn đau hoàn toàn biến mất. Vào buổi trưa nọ, Ānanda trải đệm thỉnh Đức Phật ngồi trong bóng râm của tu viện. Ānanda thưa: “Thế Tôn! Con rất vui khi thấy Người đã bình phục. Khi Người lâm bệnh, con đã rất buồn. Nhưng con luôn nghĩ rằng, Người sẽ không nhập Niết Bàn lúc đó mà sẽ tiếp tục hướng dẫn chúng con và Tăng đoàn lâu hơn để các thầy có nền tảng tu tập về những điều Đức Phật dạy sau khi Người nhập Niết Bàn”.
199. The Buddha said: “Ānanda! What can the Bhikkhus still expect from me? I have told everything there is to know about Dhamma; there is nothing else left. By this time, the Bhikkhus should know the way to practice, to verify their practice and to attain Nibbāna; I do not keep any secret. With all my heart I wish the very best for all the Bhikkhus and have high expectations and hopes for them. I have told them everything they should know up to the time of their final deliverance from suffering. Ānanda! I am an old man now; my strength is ebbing; my time is close to its end: I am eighty already! Therefore, you should depend on yourselves, for oneself is the place to abide in. Do not rely on on others. Dhamma is what you should rely on, for Dhamma is the root of mind, and nothing else is”. Finally the Buddha repeated: “Ānanda! Any bhikkhu who is determined to practice is to be considered the most progressive one in the Sangha!”
Đức Phật bảo: “Này Ānanda! Các thầy vẫn còn trông đợi gì ở Như Lai? Tất cả các pháp cần phải biết, Như Lai đều đã giảng rồi. Và hiện tại, Ta không còn bí mật nào cả, các thầy nên biết con đường cần phải đi để thể nghiệm sự thực hành của mình và đạt được Niết Bàn. Thâm tâm Ta luôn chúc nguyện những điều tốt đẹp nhất đến các thầy Tỳ kheo, cũng như rất kỳ vọng vào họ. Ta đã dạy cho họ mọi thứ họ cần phải biết để đi tới chặng cuối giải thoát khỏi đau khổ. Ānanda! Giờ Ta đã già, sức đã yếu, thời gian không còn nhiều, nay Ta đã 80 tuổi rồi! Vì vậy, các ông nên dựa vào chính mình, vì chỉ chính mình mới là chỗ nương tựa vững chắc nhất, đừng phụ thuộc vào người khác. Hãy nương tựa vào pháp, vì pháp là gốc của tâm, và không có gì khác hơn”.
Cuối cùng Đức Phật lặp lại: “Này Ānanda! Tỳ kheo nào quyết tâm tu tập sẽ được coi là người tiến bộ nhất trong Tăng đoàn!”
200. At the daybreak, the Buddha felt more comfortable and was able to go for alms in the city of Vesāli. After eating, the Buddha left for Pāvā Stūpa and told Ānanda to bring the cushion so that he could take a happy rest at the midday. While the Buddha was sitting alone under the shade of a tree, he investigated with his mind the cause and the condition of his passing away and concluded that he would enter Nibbāna after three months. When Ānanda came over to him, the Buddha said: “Ānanda! On the fifteenth day of the Visākha month the Buddha will enter Nibbāna; it is only three months away”.
Bình minh vừa chiếu rạng, Đức Phật cảm thấy dễ chịu hơn và có thể đi khất thực trong thành Vesāli. Sau khi dùng bữa, Đức Phật bảo Ānanda mang tọa cụ đến tháp Pāvā để Ngài nghỉ ngơi thư giãn vào giữa trưa. Đức Phật ngồi một mình dưới bóng cây, Ngài quán sát về nhân duyên xả báo thân và kết luận sau ba tháng nữa Ngài sẽ nhập Niết Bàn.
Khi Ānanda đến, Đức Phật nói: “Này Ānanda! Chỉ còn ba tháng nữa, vào ngày 15 của tháng Visākha, Như Lai sẽ nhập Niết Bàn”.
201. Ānanda implored him: “Please do not enter Nibbāna, Buddha. Please stay and continue to help people to stop suffering!” The Buddha said to Ānanda: “Ānanda! The Buddha has completely severed himself from the karmic effects of life and death, and will attain Nibbāna three months from now. Further, death is unavoidable, and nothing can exist forever. Ānanda! Do not think about this now. Come on, let’s go to Mahāvana, Monastery, and ask the Bhikkhus of Vesāli to assemble there”. Follow the Buddha's order, Ānanda left. When the Bhikkhus had gathered at Mahāvana, Amanda went to inform the Buddha.
Ānanda cầu khẩn Đức Phật: “Thế Tôn! Xin Người đừng nhập Niết Bàn. Xin Người hãy ở lại tiếp tục hóa nhân độ thế giúp chúng sinh thoát khổ.
Đức Phật bảo Ānanda: “Này Ānanda! Như Lai đã hoàn toàn thoát khỏi dòng sinh tử nghiệp báo, và sẽ nhập Niết Bàn trong ba tháng kể từ bây giờ. Hơn nữa, cái chết là điều chẳng thể tránh khỏi, không gì có thể tồn tại mãi mãi. Ānanda! Giờ đừng nghĩ đến nó nữa. Đi nào, chúng ta hãy đến tinh xá Mahāvana và bảo các Tỳ kheo của Vesāli tập hợp ở đó”.
Theo lời của Đức Phật, Ānanda rời đi. Khi các Tỳ kheo đã tập trung tại Mahāvana, Ānanda lên thưa thỉnh Đức Phật.
202. The Buddha went to the place of the assembly and gave his most important instruction there. He also expressed the final expectations that he had for the Bhikkhus, encouraging them to practice strictly all the Buddha's teaching, for the benefit of people in the world, helping beings to practice and to learn the Buddha-Dhamma and serving as models for the people in the world. Finally he repeated: “All worldly things are transient and illusory. You must practice and learn diligently and think about the future improvement of yourselves. Guard your own mind, do not be heedless, so that you can then expect liberation from all the suffering of the turning round of birth and death”.
Đức Phật đến nơi tụ hội và đưa ra hướng dẫn quan trọng nhất. Ngài cũng bày tỏ sự mong đợi cuối cùng đối với các thầy Tỳ kheo và khuyên họ tuân thủ lời Phật dạy, vì lợi ích của mọi người, giúp chúng sinh thực hành Phật pháp và là mô phạm cho mọi người trên thế gian.
Cuối cùng Ngài lặp lại: “Các pháp tại thế gian đều biến chuyển và giả huyễn, các thầy cần siêng năng tu học và nghĩ đến sự tinh tiến của chính mình về sau. Hãy phòng hộ tâm, đừng giải đãi thì mới mong thoát khỏi nỗi khổ sinh tử luân hồi”.
203. One morning, in order to take a final look at the city of Vesāli, the Buddha and Ānanda went came for alms there. The Buddha said to Ānanda: “Ānanda! This is the last time that I shall see the city of Vesāli. Ānanda! Let's go to the Bhanda Village”. At Bhanda, he took a rest, preached to the people there, then, together with his disciples, visited the villages of Hatthi, Amba and Jambu, finally arriving at the city of Bhoga where he stopped at the Ānanda Stūpa. Buddha pointed out to the Bhikkhus that there are four ways teaching in order to check the principles of the Buddha-Dhamma. Then he continued his journey with his disciples to the city of Pāvā and rested at the Mango Garden, which belonged to Cunda, the son of a goldsmith.
Vào một buổi sáng thanh quang, để ngắm nhìn thành Vesāli lần cuối, Đức Phật và Ānanda đã đến đó khất thực.
Ngài nói với Ānanda: “Này Ānanda! Đây sẽ là lần cuối Như Lai ngắm nhìn thành Vesāli. Ānanda! Chúng ta hãy đến làng Bhanda nào”.
Tại ngôi làng Bhanda, Đức Phật nghỉ ngơi và thuyết giảng cho dân chúng ở đây, sau đó Ngài cùng với các đệ tử ghé thăm làng Hatthi, Amba và Jambu, cuối cùng đến thành phố Bhoga, Đức Phật dừng chân tại tháp Ānanda. Rồi Ngài dạy các thầy Tỳ kheo về bốn cách để kiểm chứng các nguyên tắc trong Phật pháp. Sau đó, Đức Phật tiếp tục chuyến hành trình cùng các đệ tử đến thành phố Pāvā và nghỉ lại ở vườn xoài của Cunda, con của một người thợ vàng.
204. The Buddha preached to Cunda and his family helping them gain confidence in and take refuge in the Buddha-Dhamma. He then accepted Cunda's invitation to receive offerings at his home the next morning.In the food that Cunda offered the Buddha, there was a kind of fungus grown on sandalwood, when the Buddha ate the food, it made his former illness to flare up even more seriously than before. However, the Buddha bore the pain with all his strength and continued to journey onward, hoping to reach Kusinārā.
Đức Phật thuyết pháp cho Cunda và gia đình ông, khiến cả nhà ông phát khởi niềm kính tin và quy y Tam Bảo. Sau đó, Ngài nhận lời thỉnh cầu của Cunda đến nhà ông thụ trai vào sáng hôm sau. Thức ăn mà Cunda dâng cúng cho Đức Phật có một loại nấm mọc trên cây đàn hương, khi Đức Phật ăn phải thì bệnh cũ của Ngài tái phát, thậm chí còn nghiêm trọng hơn trước. Tuy vậy, bằng sự quán chiếu tự nhiếp phục của mình, Đức Phật chịu đựng cơn đau và tiếp tục cuộc hành trình với hy vọng đến được thành Kusinārā.
205. Once in a while along the way, the Buddha took a short rest, gradually he approached Kusinārā. While he paused under a tree, he met Pukkusa, the prince of the Malla Clan and one of the old sage Āḷāra Kālāma's disciples, who was on his way from Kusinārā to Pāvā and asked for the opportunity to see the Buddha. The Buddha preached the Dhamma of being peace-abiding to him there then arose confidence in him and he vowed to take all his life refuge in the Buddha, Dhamma and Sangha and he respectfully presented the Buddha with two rolls of fine gold-colored cloth. The Buddha accepted only one roll, and had Pukkusa offer the other roll to Ānanda. The Buddha then crossed the Kakutthā River, it took him a while to arrive at Hiranyavatī River, which was within the boundaries Kusinārā.
Thỉnh thoảng nghỉ ngơi một chút trên đường đi, Đức Phật dần đến gần thành Kusinārā. Trong lúc dừng lại dưới gốc cây, Ngài gặp Pukkusa - vị hoàng tử của bộ tộc Malla và là một trong những đệ tử của nhà hiền triết già Āḷāra Kālāma, đang trên đường từ Kusinārā đến Pāvā vì muốn gặp Đức Phật. Đức Phật đã thuyết giảng về pháp an cư cho ông, sau đó ông phát khởi tín tâm và nguyện trọn đời quy y Tam Bảo. Ông cung kính dâng lên Đức Phật hai cuộn vải quý màu vàng nhưng Ngài chỉ nhận một cuộn, và để Pukkusa dâng cuộn kia cho Ānanda. Vậy rồi, Đức Phật băng qua sông Kakutthā, đi được một lúc thì đến sông Hiranyavatī, thuộc phần lãnh thổ thành Kusinārā.
206. After crossing the Hiranyavati River, they arrived at Sālavana, a holiday resort of the royal clan of Malla, which was outside the city of Kusinārā. The Buddha felt he could go not any further, and said to Ānanda: “Ānanda! Prepare a place for me to lie down between those two Sāla trees. I feel very tired”. Ānanda took the Buddha’s big robe, folded four times, and placed it on the bed between two big Sāla trees. The Buddha then lay down on his side with his head toward the north. The Buddha did not fall asleep, but only rested to relieve his pain and fatigue. His mind remained as tranquil as it had ever been.
Sau khi băng qua con sông Hiranyavatī đến Sālavana là khu nghỉ mát của dòng tộc Malla nằm ở ngoại thành Kusinārā, Đức Phật cảm thấy không thể đi thêm được nữa nên Ngài nói với Ānanda: “Này Ānanda! Hãy chuẩn bị chỗ cho ta nằm giữa hai cây Sāla đó. Ta thấy rất mệt!”
Ānanda cởi y cho Đức Phật, gấp thành bốn và trải trên chiếc giường giữa hai cây Sāla. Sau đó, Đức Phật nằm nghiêng đầu hướng về phía Bắc, Ngài không ngủ mà chỉ nghỉ ngơi để bớt đau và đỡ mệt mỏi, song tâm trí Người vẫn minh mẫn sáng trong như thường.
207. Ānanda felt that the Buddha was really about to leave him this time, and he could not bear the grief in his heart. So he left the Buddha and wept in an isolated place among the trees, muttering to himself: “Unlike other Bhikkhus, I have not yet attained the stage of arhant. I have to continue to learn and practice, but now my teacher will pass away and leave me behind. I shall lost my compassionate master forever and be left all alone!” His face became flooded with tears.
Lúc này Ānanda mới cảm giác Đức Phật thực sự sắp rời bỏ mình, bởi không nén được nỗi buồn nên đã trốn ở một gốc cây trong rừng mà khóc thầm, khuôn mặt thầy giàn giụa nước mắt, lòng tự nhủ rằng: “Không như các vị Tỳ kheo khác, mình vẫn chưa chứng quả A la hán. Mình còn phải học hỏi và tu tập, nhưng giờ Thầy của mình sắp nhập diệt và bỏ lại mình. Mình sẽ mãi mãi mất đi một vị Thầy từ bi, và bị bỏ lại một mình”.
208. When the Buddha opened his eyes and failed to find Ānanda, he asked the Bhikkhus who were at his side: “Where did Ānanda go?” The Bhikkhus replied: “Ānanda is weeping in a hidden place. He says that he has not attained the stage of arhant and has to keep on learning and practising, but that his ever- compassionate teacher is going to leave him!” The Buddha said: “Bhikkhu! Go tell Ānanda that the Buddha is looking for him”. The Bhikkhu did as he was ordered. When Ānanda came back, the Buddha comforted him kindly and compassionately.
Khi Đức Phật tỉnh dậy không nhìn thấy Ānanda, Ngài hỏi các Tỳ kheo cạnh đó: “Thầy Ānanda đi đâu rồi?”
Các thầy thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Thầy Ānanda đang trốn ở một chỗ khóc. Thầy ấy nói mình chưa chứng A la hán và còn phải tiếp tục tu học rèn luyện, nhưng vị Thầy từ bi của thầy sắp rời bỏ thế gian!”
Đức Phật bảo: “Các thầy đi nói với Ānanda, Như Lai đang tìm ông ấy”.
Các Tỳ kheo vâng làm theo lời Đức Phật. Khi Ānanda trở về, Đức Phật ân cần và từ ái an ủi thầy.
209. The Buddha praised Ānanda in front of the other Bhikkhus, saying: “All the Buddhas in the past had excellent attendants, but they could not be as excellent as Ānanda, my attendant. All the Buddhas in the future will have excellent attendants, but they will not be as excel lent as what Ānanda has done for me. Ānanda is the best and the most clever attendant that I have ever had. Ānanda knows how to arrange just the right time for me to meet visitors. Ānanda has always treated them pleasantly and spoken well to them. Every visitor has received the highest satisfaction in the way Ānanda has received and treated him. When Ānanda tells a person something, he always listens so attentively, as to surpass all the expectations of Ānanda. Ānanda has always been my most excellent attendant!”
Đức Phật khen ngợi Ānanda trước các Tỳ kheo khác rằng : “Tất cả chư Phật trong quá khứ đều có những vị thị giả xuất sắc, nhưng họ không thể vượt trội hơn Ānanda, thị giả của Ta. Tất cả chư Phật trong tương lai sẽ có những vị thị giả xuất sắc, nhưng họ cũng không thể xuất sắc hơn những gì Ānanda đã làm cho Như Lai. Ānanda là thị giả tốt nhất và khéo léo nhất mà Như Lai từng có. Ānanda biết cách sắp xếp thời gian thích hợp để Như Lai gặp khách. Không chỉ vậy, thái độ cư xử và lời nói của Ānanda đối với khách còn rất khả ái, không ai mà không hoan hỷ hài lòng với sự sắp xếp của Ānanda. Khi Ānanda nói điều gì, họ luôn chăm chú lắng nghe, vượt qua mọi sự mong đợi của thầy ấy. Có thể nói, Ānanda luôn là vị thị giả giỏi nhất của Như Lai!”
210. Later, Ānanda said to the Buddha; “Buddha! Please do not enter Nibbāna in such an improper, out-of-the-way, small place. Please select one of the large cities such as Rājagaha, Sāvatthī, Vesāli, or some other city and enter Nibbāna there. In those places there are many rich and powerful persons who are your disciples; they will bear the responsibility of arrangement of your holy remains”.
Sau đó, Ānanda thưa với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Xin Người đừng nhập Niết Bàn ở một nơi không thích hợp, hẻo lánh và nhỏ bé như vậy. Xin Người hãy chọn một trong những thành phố lớn như Rājagaha, Sāvatthī, Vesāli, hoặc một thành phố khác để nhập Niết Bàn. Ở những nơi đó có nhiều Phật tử thuần thành hộ pháp, họ sẽ đảm đương việc sắp xếp Xá lợi của Người”.
211. The Buddha said to Ānanda: “No! Ānanda. Don’t say that! You should not think of this as a small, insignificant and unimportant place. Long ago this was a prosperous metropolis, a capital city that had been the residence of Chakravarti King. Ānanda! Go to Kusinārā and tell the king and the people that tonight, during the last watch of the night, the Buddha will enter Nibbāna in this forest, and if they wish to, they should come to see me before that time”. Ānanda went to Kusinārā with several Bhikkhus and told King Malla and his people what the Buddha had said.
Đức Phật nói với Ānanda: “Không! Ānanda, đừng nói vậy! Ông chớ nghĩ đây là một nơi nhỏ bé tầm thường và không quan trọng. Xưa kia, đây là một đô thị trù phú, là kinh đô của vua Chakravarti. Ānanda! Hãy vào thành Kusinārā báo với nhà vua và dân chúng rằng canh cuối đêm nay, Như Lai sẽ nhập Niết Bàn trong khu rừng này. Và nếu họ muốn, họ có thể đến gặp Như Lai trước thời điểm đó”.
Ānanda cùng với một số thầy Tỳ kheo đi đến Kusinārā thông báo tới vua Malla và dân chúng những gì Đức Phật đã nói.
212. When the king and people of Kusinārā learned from Ānanda that the Buddha was about to enter Nibbāna, they all wept sadly and said: “It is too early for the Buddha to enter Nibbāna. The light of the world is extinguished too soon!” Men, women, and children, lamenting loudly, flocked to Sālavana, where Buddha was staying, hoping that they might see the Buddha once more and express their concern for him. People visited the Buddha in groups in an orderly manner. Everybody was unwilling to leave him, however.
Khi nhà vua và dân chúng thành Kusinārā được thầy Ānanda cho biết rằng Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, họ đều buồn bã than khóc: “Còn quá sớm để Đức Phật nhập Niết Bàn. Ánh sáng của thế gian lụi tàn quá sớm!” Già trẻ, gái trai đều bi ai than thở, họ đồng loạt đổ xô đến Sālavana, nơi Đức Phật đang ở, với hy vọng có thể nhìn thấy Đức Phật một lần sau cuối và bày tỏ sự ngưỡng vọng đối với Ngài. Mọi người đến viếng Đức Phật theo từng nhóm trật tự trang nghiêm, thế nhưng không ai muốn rời xa Ngài.
213. An itinerant young man of a heretical cult, whose name was Subhadda, happened to be in Kusinārā. When he learned that Buddha was about to enter Nibbāna, he decided to visit him in order to ask him some questions that had been bothering him and he believed that only the Buddha would be able to give him a thorough explanation. Subhadda went to Sālavana and asked Ānanda for a permission to see the Buddha in order to have his questions answered before the Buddha entered Nibbāna.
Một thanh niên ngoại đạo tha phương tên là Subhadda tình cờ đến Kusinārā, hay tin Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, anh quyết định đến thăm Ngài để hỏi Ngài một số vấn đề còn khúc mắc ở trong lòng. Anh ta tin rằng, chỉ có Đức Phật mới có thể giải thích cặn kẽ cho mình. Vì thế, Subhadda liền tìm đến Sālavana và xin phép thầy Ānanda sắp xếp cho gặp Đức Phật để được giải đáp những thắc mắc trước khi Ngài nhập Niết Bàn.
214. Ānanda said to him: “No, No! Subhadda! The Buddha is very tired. You must not bother him with any questions now”. But Subhadda was very anxious to see the Buddha. He pleaded again and again, and Ānanda rejected him again and again, holding to the fact that the Buddha was very ill and should not be bothered by anybody. But when the Buddha heard them both talking, he knew Subhadda’s intention and order Ānanda to let him come in.
Ānanda nói với anh ta: “Không, không! Subhadda! Đức Phật đang rất mệt, giờ anh không được làm phiền Ngài với bất kỳ câu hỏi nào hết”.
Nhưng Subhadda thực sự rất nóng lòng muốn gặp Đức Phật. Anh cầu xin hết lần này đến lần khác, và lần nào thầy Ānanda cũng từ chối, bởi lẽ tình trạng bệnh của Đức Phật hiện đang rất nặng và thầy không muốn để ai quấy nhiễu Ngài giờ này. Nhưng khi Đức Phật nghe cả hai nói chuyện, Ngài biết ý định của Subhadda và bảo Ānanda để anh ta vào.
215. The Buddha told Ānanda: “Ānanda! Do not stop Subhadda. Let him come in as he wishes. What he wants is to ask me about some problems he has in practicing the Buddha-Dhamma; he does not mean to disturb me with meaningless trifles. My explanations will make him understand immediately”. So Ānanda permitted Subhadda to go in to see the Buddha and ask his questions.
Đức Phật bảo Ānanda: “Này Ānanda! Đừng ngăn cản Subhadda, cứ để anh ta vào như điều anh ta muốn. Anh ta muốn hỏi Như Lai về một số vấn đề mà bản thân đang gặp phải trong việc thực hành Phật pháp, chứ không có ý làm phiền Ta bằng những chuyện vặt vãnh vô nghĩa. Những lời giải thích của Như Lai sẽ giúp anh ta hiểu ngay ra vấn đề”.
Vì vậy, thầy Ānanda cho phép Subhadda vào gặp Đức Phật và để anh ta đặt câu hỏi với Ngài.
216. Having listened to Subhadda’s question, the Buddha began preaching to him till all the puzzles in his mind were solved and any problems cleared up. Then Subhadda there arose then confidence and he requested the Buddha to accept him as a Bhikkhu. The Buddha gave him the opportunity and ordered Ānanda to shave his head. Thus Subhadda became the last Bhikkhu converted by the Buddha. Like Kaundinya, the first Bhikkhu converted by the Buddha at Migadāya, Subhadda learned and practiced the Buddha-Dhamma very diligently, and he attained the stage of arhant before long.
Sau khi lắng nghe câu hỏi của Subhadda, Đức Phật bắt đầu thuyết giảng cặn kẽ cho đến khi mọi khúc mắc trong tâm trí anh được giải quyết một cách sáng tỏ. Subhadda phát khởi lòng tin và xin Đức Phật chấp nhận cho mình được xuất gia. Đức Phật hoan hỷ đồng ý và bảo Ānanda cạo đầu cho anh ta. Thế là Subhadda trở thành vị Tỳ kheo cuối cùng được Đức Phật hóa độ. Cũng như Kaundinya, thầy Tỳ kheo đầu tiên được Đức Phật hóa độ tại Migadāya, Subhadda đã học và thực hành Phật pháp rất tinh tấn, và thầy đã đạt được quả vị A la hán không lâu sau đó.
217. Later, the Buddha gave the Bhikkhus at his side a chance to raise any last questions by asking if any of them still had doubts about the Buddha- Dhamma. But none of the Bhikkhus had any doubt whatsoever about the Triratna of Buddha, Dhamma, and Sangha. The Buddha then said to the Bhikkhus for the last time: “Bhikkhus! This is the last occasion for me to talk to you. All actions and deeds are transient and you must detach yourselves from them completely, do not be heedless!”
Sau đó, Đức Phật cho các Tỳ kheo ở bên cạnh Ngài một cơ hội để nêu lên bất kỳ câu hỏi cuối cùng nào bằng cách hỏi xem có ai trong số họ còn nghi ngờ gì về Phật pháp hay không. Nhưng không một vị Tỳ kheo nào nghi ngờ bất cứ điều gì về Tam Bảo - Phật, Pháp và Tăng.
Khi ấy, Đức Phật đã nói với các Tỳ kheo những lời sau cuối: “Này các Tỳ kheo! Đây là lần cuối cùng Ta nói chuyện với các thầy. Các pháp đều vô thường và các thầy đừng để dính mắc vào chúng, hãy tinh tấn lên để giải thoát!”
218. The Buddha then entered samādhi, reaching the ninth realm of dhyana; from the deep ninth dhyana he receded to the realm of the fourth dhyana. When he had emerged from the fourth dhyana, he completely exterminated the five skandhas (accumulations that bind people to the cycle of birth and death) so that he would never again have rebirth or death in either this or other realms or worlds. At that time, Buddha, the perfectly enlightened one, at the age of eighty, entered the MahaPariNibbāna in the last watch of the night of the fullmoon day of the Visakha month in the Sāla grove outside the city of Kusinārā, where King Malla ruled. The brilliant lamp was extinguished! But the lamp of Dhamma, this is, the Buddha’s teaching, exists forever and will carry thousands and thousands of people in our world across the stream of life and death to Nibbāna.
Sau đó Đức Phật nhập định đạt đến cảnh giới thứ chín của Thiền định, từ tầng thiền thứ chín, Ngài trở lui lại tầng thiền thứ tư. Khi ở tầng thiền thứ tư, Ngài diệt hoàn toàn năm uẩn (những tích tụ trói buộc con người vào vòng luân hồi sinh tử) và không còn bị sinh tử trong cõi này hay cõi khác hoặc thế giới khác. Lúc đó, Đức Phật - một Bậc Giác Ngộ hoàn toàn đã 80 tuổi, nhập Đại Niết Bàn vào canh cuối của đêm trăng tròn tháng Visakhā trong khu rừng Sāla bên ngoài thành phố Kusinārā, nơi vua Malla trị vì.
Dẫu cho ngọn đèn huy hoàng đã vụt tắt, nhưng ngọn đèn Phật pháp với những lời dạy của Đức Phật sẽ mãi mãi tồn tại để soi chiếu và dẫn dắt hàng nghìn, hàng vạn người trên thế gian này vượt dòng sinh tử qua bờ giác ngộ an vui.