• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cúp C1 Châu Âu - 66 năm lịch sử
  3. Trang 15

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 37
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 37
  • Sau

Ông đồ gàn

Vũ Hoàng (ACMilanVN)

“Trong vòng 100 năm tới, Benfica đừng có hòng đoạt thêm bất cứ chiếc Cup châu Âu nào.” Người ta truyền tai nhau rằng khi Bela Guttmann bị đá đít khỏi sân Ánh Sáng, ông đã nguyền rủa đội bóng sa thải ông như vậy.

Huấn luyện viên Bela Guttmann ngồi khoan khoái trên ghế, nhắm mắt và phiêu trong lúc thợ cắt tóc đang cố gắng tạo cho ông một kiểu đầu đẹp và mốt nhất. Đúng lúc ấy, José Carlos Bauer chạy sồng sộc vào và giật giọng: “Bớ thầy, tôi vừa biết tới một gã rất khủng, dư sức vượt qua cả José Águas ấy chứ.” (José Águas lúc ấy là chân sút số 1 Benfica, ông ghi tổng cộng 374 bàn trong thời gian khoác áo CLB này). Guttmann nhổm dậy ngay và hỏi: “Là thằng nhóc nào thế?” Bauer vừa thở vừa kể về gã da đen người Mozambique, một gã có khả năng chạy như thể bị hà mã rượt phía sau lưng và to như một con gấu. Guttmann gật gù và không chút nghi ngờ Bauer, nói luôn: “Bảo với mấy thằng quản lý là mang gã về cho tao.”

a14

Bela Guttmann

(Nguồn: Renascenca)

Sau cái gật đầu của Guttmann, tuyển trạch viên và đại diện của Benfica vội vã sang Mozambique để gặp “mẹ của con gấu”. Một cuộc ngã giá rất nhanh đã diễn ra. Bà Elisa muốn có một khoản tiền đủ để gia đình bà thoát khỏi đói nghèo. Benfica đồng ý chi 175.000 escudo để có được Eusebio. Khi ấy, đó là một số tiền không nhỏ. Nhưng gia đình của Eusebio đã đòi gấp đôi. Ngay lập tức, Benfica chấp thuận. Cái gật đầu của Guttmann có sức nặng rất lớn và Benfica hiểu họ phải làm hài lòng lão huấn luyện viên khó tính này.

Thế nhưng, Guttmann không có được Eusebio để xài ngay trong chiến dịch chinh phục chiếc Cup châu Âu mùa giải 1960-61. Một trong những lý do tiền đạo người Mozambique chưa thể tới sân Ánh Sáng chính là việc anh đang thuộc biên chế của Sporting Lourenço Marques mà đội bóng này lại là chân rết của Sporting Lisbon, đối thủ không đội trời chung của Benfica. Vụ chuyển nhượng Eusebio đã khiến Sporting tức tối. Để bảo đảm an toàn cho “món hàng quý giá”, Benfica đã đặt mật danh cho Eusebio là Ruth Molosso và đưa anh đến châu Âu một cách bí mật. Mật danh này sau đó đã trở thành niềm cảm hứng để CMTV sản xuất bộ phim Ruth nói về cuộc đời của Eusebio nhân dịp 5 năm ngày mất của ông.

Ngay sau khi cập cảng Lisbon, Eusebio được đưa thẳng về Lagos, một thị trấn ở cực Nam của Bồ Đào Nha và cách Lisbon chừng 300km. Sống cô độc trong vòng vài tuần, chàng trai Mozambique bị stress rất nặng. Đây không phải là cuộc sống mà anh mơ ước hay nghĩ đến. Nó hoàn toàn khác với những lời hứa hẹn trước đó. Buồn như gián cắn, Eusebio gọi điện về nhà và khóc thút thít với mẹ. Bà Elisa đã phải nói đến khản cổ để vỗ về thằng con từ khoảng cách 12.000 km theo đường chim bay. Cuối cùng, Eusebio cũng nghe lời mẹ và tiếp tục chờ đợi. Nhưng không chỉ anh sốt ruột, Guttmann cũng như ngồi trên đống lửa. Theo lời tên học trò Bauer của ông, gã trai này là một viên ngọc cực kỳ quý hiếm và ông nóng lòng muốn được sử dụng anh. Nhưng trước mắt, cứ phải đoạt Cup châu Âu cái đã, mà cái Cup thì Real vẫn đang độc chiếm suốt 5 mùa giải đầu tiên.

Chúng ta hãy tạm quay trở lại những năm trước đó để tìm hiểu về cuộc đời của vị huấn luyện viên kỳ dị này. Ngày nay, không nhiều người nghe tới cái tên “Bela Guttmann”, song đối với các nhà nghiên cứu và viết lịch sử bóng đá, ông là một nhân vật đáng kính trọng và một nhà cách mạng thực sự. Trong 40 năm cầm quân, ông đã trải qua rất nhiều CLB và ở đâu cũng để lại dấu ấn đậm nét, kể cả trong cách bị… sa thải. Ví dụ như mùa 1954-55, AC Milan đang băng băng về đích với cách biệt rất lớn so với các đối thủ thì ông bất ngờ mất việc mà không rõ lý do. Milan sau đó vẫn đăng quang ngôi vô địch nhưng khi không có Guttmann, họ đã phải trầy trật giữ lợi thế và chỉ về đích sớm 1 vòng. Còn Guttmann, trong tâm trạng của một con chim sợ cành cong, từ đó trở đi, mỗi khi ký hợp đồng, ông đều cài thêm điều khoản cấm đội bóng không được sa thải ông nếu ông đang dẫn dắt đội đứng đầu bảng xếp hạng giải vô địch quốc gia.

Guttmann được miêu tả như một người đàn ông đứng giữa các nền văn hóa. Ông đã đi và sống ở rất nhiều quốc gia, trải nghiệm những ngôn ngữ khác nhau, những con người khác nhau và cả những phong cách sống khác nhau nữa. Ông sinh ra ở Budapest, một thành phố cổ kính lúc này vẫn thuộc đế chế Áo - Hung, trong một gia đình mà cha mẹ đều là các vũ công chuyên nghiệp gốc Do Thái. Nhưng khi lớn lên, ông đã không nối nghiệp gia đình. Một phần vì ông khá… xấu trai. Một phần khác vì ông nhận thấy bóng đá có thể mang lại cho ông nhiều tiền hơn. Đấy mới là lý do để ông quyết tâm theo đuổi môn thể thao này.

Năm 1910, Guttmann bắt đầu luyện tập ở đội trẻ Törekvés tại địa phương. Sau khi trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, năm 21 tuổi, ông chuyển tới MTK Hungaria và bắt đầu gặt hái những danh hiệu đầu tiên trong cuộc đời. Nếu xã hội Hungary lúc đó cứ yên yên ổn ổn như vậy thì đẹp biết bao! Nhưng cuộc đời đâu có dễ dàng như thế. Người Do Thái vốn là một cộng đồng khá lớn ở Hungary trong nhiều thế kỷ, họ được phép xây các giáo đường và bệnh viện của riêng mình từ thế kỷ XVIII và coi như đã hoàn toàn hòa nhập với xã hội bản địa. Mọi thứ chỉ trở nên đen tối khi vào năm 1919, Phó Đô đốc Miklos Horthy lên nắm quyền và bắt đầu chính sách bài Do Thái. Những người Do Thái ở trong chính quyền và quân đội bị cách chức. Một loạt nhà hàng, cửa hiệu của người Do Thái bị buộc đóng cửa. Đỉnh điểm của chủ nghĩa bài Do Thái đến vào năm 1922 khi 15.000 người Do Thái bị trục xuất với lý do không có quốc tịch Hungary. Những chính sách của nhà cầm quyền đã kích động người Hungary bản địa tấn công cộng đồng Do Thái. Rất nhiều người Do Thái bị giết hại trong quãng thời gian này. Tổng cộng có hơn 3.000 người đã thiệt mạng và hàng vạn người khác sống trong cảnh sợ hãi đến cùng cực. Để tránh khỏi các cuộc tấn công, Guttmann quyết định tới Vienna. Tại đây, ông gia nhập SC Hakoah Wien, một đội bóng với tôn chỉ phục quốc cho người Do Thái. 20 năm sau đó, đến lượt các đồng đội cũ của Guttmann tại CLB này chết trong cuộc tàn sát dân Do Thái của phát xít Đức. Nhưng ở thập niên 1920, các cầu thủ của Hakoah sống trong khung cảnh đầy sôi động. Họ đoạt danh hiệu vô địch Áo năm 1925 và vào năm sau, lên đường sang Mỹ du đấu để kiếm tiền. Chính tại Tân Thế giới, Guttmann đã “đánh hơi” được những thương vụ làm ăn lớn và ông lựa chọn nước Mỹ là điểm đến tiếp theo.

Mùa hè năm 1926, Hakoah trở về châu Âu mà không có Guttmann trong đội hình. Ông ở lại New Jersey vài tháng rồi chuyển tới New York náo nhiệt. Nhưng không chỉ chơi bóng vào ban ngày, Guttmann còn tranh thủ mở quán bar bất hợp pháp lẫn vũ trường để kinh doanh vào ban đêm. Guttmann nổi tiếng ở Mỹ đến mức tên tuổi của ông còn được so sánh với cả Greta Garbo hay John Barrymore (các ngôi sao điện ảnh Hollywood thời bấy giờ). Chỉ sau vài năm, ông kiếm được nhiều tiền đến mức cảm thấy đã bắt đầu nên nghỉ hưu dù mới chỉ bước vào tuổi 30. Lúc ấy, thị trường chứng khoán Mỹ đang sôi động và Guttmann quyết định đầu tư 500.000 USD để tiếp tục lên đời. Ngay cả bây giờ, tức là sau gần 100 năm, nửa triệu dollar Mỹ vẫn là một số tiền rất lớn. Song thật cay đắng, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bất chợt ập đến. Thị trường phố Wall sụp đổ và Guttmann bỗng nhận thấy đống cổ phiếu trong tay ông chỉ còn tác dụng nhóm lò. Năm 1932, Guttmann trở lại châu Âu với đội bóng cũ Hakoah của mình sau khi đã hoàn toàn tay trắng. Một lần nữa, ông phải làm lại cuộc đời. Nhưng lần này, ông không làm cầu thủ nữa, ông chuyển sang làm huấn luyện viên, một trong những vị huấn luyện viên chuyên nghiệp đầu tiên trong lịch sử bóng đá.

Bóng đá, trong những năm 1930, vẫn chưa hoàn toàn chuyên nghiệp. Các huấn luyện viên thường chỉ là những “người tuyển chọn” thay vì chỉ đạo các cầu thủ toàn thời gian. Về phần các cầu thủ, họ ngoài đá bóng thì vẫn có thể làm công việc khác. Một ví dụ điển hình là Ajax Amsterdam, đội bóng vĩ đại của Hà Lan, đến tận thập niên 1960 vẫn còn ở tình trạng bán chuyên với các cầu thủ chỉ tập luyện 3-4 buổi mỗi tuần. Việc chuyên nghiệp hóa, theo Guttmann, cần phải tiến hành tổng thể. Ông tự tay chỉ dẫn các cầu thủ cách luyện tập, ép họ phải ăn theo chế độ dinh dưỡng và khoa học nhất có thể và ngoài tập với bóng, còn phải rèn thể lực và tập gym. Tất cả những điều trên ngày nay là hết sức bình thường, một huấn luyện viên cấp phường cũng có thể nghĩ đến. Nhưng cách đây 90 năm, những quy định và yêu cầu của Guttmann thực sự rất mới mẻ và không phải cầu thủ nào cũng chấp nhận tuân theo.

Giữa lúc Guttmann đang ra sức làm cuộc cách mạng trong bóng đá thì một lần nữa, biến cố lớn lại xảy đến với cuộc đời ông. Năm 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ. Dưới mệnh lệnh của Hitler, hàng triệu người Do Thái bị săn đuổi và bị đẩy vào các trại tập trung. Gia đình Guttmann cũng không trốn thoát được. Họ bị tra tấn nhục hình bởi những tên lính Quốc xã. Cha, anh trai, chị gái và bạn thân của Guttmann đã chết trong trại giam. Riêng ông, bằng một cách thần kỳ, đã vượt ngục thành công vào cuối năm 1944. Ông phải trốn chui trốn nhủi trong những tháng ngày sau đó trước sự truy lùng của lính Đức dưới một căn hầm của tiệm hớt tóc ở Budapest. Năm 1945, Hồng quân tiến vào giải phóng Hungary. Nhưng lúc này, Guttmann không còn gì trong tay nữa. Ông có một gia đình phải nuôi và việc tốt nhất mà ông có thể làm chính là huấn luyện bóng đá. Để có thể sống được, ông đưa vợ con tới Rumania và làm huấn luyện viên của Ciocanul București. Tại đây, ông đã yêu cầu đội bóng trả lương cho ông bằng… rau và bánh mì thay vì tiền, bởi những thứ đó thực tế hơn trong hoàn cảnh thiếu thốn lương thực trầm trọng thời hậu chiến.

Năm 1947, Guttmann tới Kispest để thay thế cha của huyền thoại Puskas ở vị trí huấn luyện viên. Chính vì cha mình bị mất việc, Puskas đã không tuân phục Guttmann, thậm chí còn xúi một đồng đội chống lại yêu cầu của ông. Không chấp nhận việc các cầu thủ bất tuân mệnh lệnh, Guttmann một lần nữa lại ra đi, lần này là đến Italia. Bắt đầu từ đây, ông tiến hành những cuộc cách mạng trong lối chơi, trở thành người tiên phong của sơ đồ 4-2-4 mà Hungary vĩ đại sẽ làm mưa làm gió trong thập niên 1950. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của các cầu thủ chạy cánh, biến những người này trở nên mạnh mẽ và linh hoạt. Đồng thời, ông kéo một tiền vệ xuống phía dưới để đảm bảo an toàn cho hàng thủ và tiếp tục kéo một trung phong về tuyến giữa để trám chỗ. Chiến thuật này đã ảnh hưởng rất lớn đến người Brazil trong suốt quãng thời gian ông làm huấn luyện viên ở đây. Selecao đã yêu cầu Guttmann tư vấn và áp dụng sự cách tân chiến thuật của ông khi dự World Cup năm 1958. Kết quả, họ đã giành ngôi vô địch lần đầu tiên bằng sơ đồ 4-2-4 với những cầu thủ chạy cánh siêu hạng là Nilton Santos ở bên trái và Garrincha ở bên phải.

Mùa hè năm 1958, Guttmann đặt chân tới Bồ Đào Nha. Đất nước của bán đảo Iberia này sẽ trở thành nơi ông phát huy hết tinh hoa của cuộc đời. Nhận lời làm huấn luyện viên của FC Porto, Guttmann ngay lập tức đưa CLB này trở lại với ngôi vô địch quốc gia. Ngay sau ngày đăng quang, đại diện Benfica đã đến gặp ông và đưa ra mức lương cao hơn ở Porto. Với một gã Do Thái tham tiền thì làm sao có thể từ chối lời đề nghị này được. Lập tức, Guttmann “gút bai” thành phố cảng và tới Lisbon. Tại đây, ông đá đít gần hết cả đội 1, chỉ giữ lại vài người, trong đó có Mario Coluna - một người Mozambique, để đưa những cầu thủ từ đội trẻ lên. Hành động này khiến cả Ban giám đốc Benfica sững sờ và tự hỏi liệu mình có sai lầm khi chi tiền cho một gã điên như vậy không. Thế nhưng Guttmann đã chứng minh ông đúng bằng danh hiệu vô địch quốc gia ngay ở mùa đầu tiên tại sân Ánh Sáng. Đích đến tiếp theo của ông lúc này là Cup châu Âu bởi ông cho rằng, thời kỳ thống trị của Real đã đến lúc cần phải chấm dứt.

Song đội bóng chấm dứt kỷ nguyên của Real lại không phải là Benfica. Ngày 23-11-1960, Di Stefano và các đồng đội lần đầu tiên nếm trải hương vị bị loại ở Cup châu Âu khi thúc thủ 1-2 tại Camp Nou trong một trận đấu mà người Madrid đã nổi khùng vì bị trọng tài từ chối tới… 4 bàn thắng. Thế là Barcelona trở thành ứng viên sáng giá nhất cho ngôi vô địch. Họ băng băng về đích một cách dễ dàng mà không để ý ở nhánh bên kia, những chú nhóc của Guttmann cũng vượt qua các đối thủ dễ dàng không kém. Đội bóng của Guttmann lúc này được xây dựng xung quanh hai ngôi sao, Jose Aguas (chính là người được nhắc tới ở đầu bài khi Bauer nói là Eusebio còn giỏi hơn cả anh này) ở hàng tiền đạo và thiên tài Mario Coluna ở giữa sân. Coluna lúc này 26 tuổi và đang ở đỉnh cao phong độ của mình. Mặc dù xuất thân là tiền đạo nhưng anh đã được Guttmann kéo lùi về tuyến giữa để có thể thể hiện hết trí thông minh và sự sáng tạo. Nhờ đó, Coluna đã đóng góp rất nhiều cho Benfica trên chặng đường đi tới Bern (nơi tổ chức trận chung kết 1961).

Ngày 31-05-1961, Benfica đối mặt với Barcelona ở trận chung kết. Gã khổng lồ xứ Catalan lúc này đang sở hữu hàng công mà chỉ nghe qua, đối thủ đã toát mồ hôi. Ngoài cầu thủ hay nhất châu Âu 1960 Luis Suarez (ông này là người Tây Ban Nha và không liên quan gì đến gã “ma cà rồng” Uruguay), họ còn có các siêu sao như Kubala, Czibor và cả Sandor Kocsis - Vua phá lưới World Cup 1954. Chính Kocsis là người đã đưa Barca vượt lên dẫn trước ngay từ phút 20 bằng quả đánh đầu sở trường. Nhưng Guttmann chả sợ gì cả. Quan điểm của ông xưa nay là: “Tôi chẳng bận tâm nếu đối thủ ghi bàn trước bởi tôi tin đội bóng của mình sẽ ghi nhiều bàn hơn.”

a15

Eusebio và Quả Bóng Vàng 1965 (Nguồn: Knoow)

Đúng như những gì Guttmann tuyên bố, phút 30, trung phong chủ lực Aguas đã san bằng cách biệt bằng pha đệm bóng cận thành sau đường bóng khởi phát từ Coluna. Chỉ 1 phút sau, Benfica vượt lên dẫn trước từ một tình huống không thể hài hước hơn. Bóng được rót vào khu cấm địa Barcelona và trung vệ Gensana thay vì phá bóng lên trên lại khiến bóng lượn vào góc chếch khung thành. Thủ môn Ramallets lao tới cản thì bóng đập trúng tay vào lưới. Sang hiệp 2, Barcelona dồn lên hòng san bằng tỷ số nhưng họ dính đòn “hồi mã thương” của Guttmann. Phút 55, Coluna tung ra cú volley tuyệt đẹp bằng chân phải, chân không thuận của anh, nâng tỷ số lên 3-1. Barca chỉ rút ngắn cách biệt xuống còn 2-3 sau những nỗ lực đến tuyệt vọng và cay đắng nhìn Benfica đăng quang.

Nhưng niềm vui của Guttmann hôm ấy không chỉ có mỗi chiếc Cup châu Âu. Trợ lý của ông thông báo: Benfica đã ký hợp đồng xong với Eusebio.

* *

*

CON BÁO ĐEN

Khi máy bay đáp xuống phi trường Johanesburg, bầu trời xanh một cách lạ kỳ. Không khí lúc đó se lạnh nhưng ánh nắng lại rất chói chang. Và lúc máy bay cất cánh để tới Maputo, từ trên độ cao vài ngàn mét, tôi thấy những cánh rừng xavan trải mênh mông, tít tắp. Xin chào Maputo! Xin chào quê hương của Eusebio! Nóng bức, ngột ngạt, bẩn thỉu và nghèo nàn. Đó là những gì mà tôi nhận thấy ở nơi đây. Điều đó có nghĩa là thành phố này vào thập niên 1950 chắc sẽ còn tồi tệ hơn thế. Rảo bước qua những góc phố, nơi các bức tường đổ nát còn chưa được dỡ bỏ hay dựng lại, lác đác có những đứa trẻ miệt mài chạy theo trái bóng, vừa sút, vừa hét lên những tiếng kêu khoái trá. Ồ, đó chẳng phải là hình ảnh của Eusebio cách đây 70 năm đó sao? Đúng rồi, Con Báo Đen Eusebio - một trong những tay săn bàn cự phách nhất mọi thời đại, một cầu thủ thiên tài của bóng đá thời kỳ “vị nghệ thuật” đã lớn lên từ trên những “sân bóng” nhỏ bé và tù túng ấy.

Maputo, với cái tên thời thuộc địa Lourenço Marques, là một thành phố khá nhỏ nếu so với những đô thị ở Việt Nam. Nhưng những dấu ấn của người Bồ Đào Nha rất đậm nét, từ ngôn ngữ, cách ăn mặc cho đến kiến trúc và đường phố. Ngay văn hóa bóng đá, người Maputo cũng chịu ảnh hưởng lớn từ đất nước châu Âu này. Những người tài xế xe tuk-tuk hay dán logo của CLB Sporting ở trên kính xe, trong khi cánh lái taxi thì tự nhận là fan của Benfica. Porto không được yêu thích lắm bởi họ… thắng quá nhiều danh hiệu trong thời đại truyền hình. Thật là một lý do khá buồn cười!

Người Bồ Đào Nha đã sớm phát hiện châu Phi là một “mỏ vàng” khổng lồ từ rất lâu và họ nhanh chóng cử những đoàn tàu thiện chiến nhất tới đây để chinh phục Lục địa Đen trong thời đại Khám Phá. Chỉ trong vòng vài trăm năm, thực dân da trắng đã hoàn tất việc thuộc địa hóa một dải đất ven biển châu Phi mà ngày nay là Mozambique. Họ gọi nơi đó là “Bồ Đào Nha Đông Phi”. Rất nhiều người dân bản địa đã bị biến thành nô lệ và chịu đựng cuộc sống khắc nghiệt trong hàng trăm năm. Giữa thế kỷ XX, Tiến sĩ Eduardo Mondlane đã thành lập Tổ chức Giải phóng Dân tộc FRELIMO để đấu tranh giành độc lập. Cuộc chiến tranh giữa những người Mozambique bản địa và người Bồ Đào Nha diễn ra vô cùng quyết liệt, kéo dài suốt 13 năm. Nhưng mỉa mai thay, giữa thời kỳ nóng bỏng ấy, một chàng trai gốc Maputo đã tới Bồ Đào Nha và được người dân của “mẫu quốc” tôn sùng như một vị vua. Tên chàng là Eusebio.

Chạy… Chạy… Và chạy…

Cậu bé Eusebio hào hứng đuổi theo trái bóng bằng bìa, nô đùa với đám bạn cùng trang lứa trên bãi đất trống, dọc theo khu phố Mafalala, một trong những khu phố nghèo nhất Maputo, bên cạnh là những bức tường đổ nát bởi thứ gạch vàng úa và kém phẩm chất vốn phổ biến ở đây. Nhà văn Eduardo Galeano mô tả về Eusebio lúc ấy như sau: “Cậu ta như được định sẵn rằng lớn lên sẽ trở thành một gã đánh giày, một người bán lạc luộc hoặc tệ hơn là một kẻ móc túi. Khi còn bé, cậu ta được gọi bằng cái tên chả giống ai: Ninguem. Và cậu ta bước ra sân rồi chạy như thể đang trốn cảnh sát vậy.” Eusebio đã lớn lên như thế, lớn lên giữa những tay móc túi, những tên trùm du đãng ở khu Black Market khét tiếng. Nếu bạn có dịp qua Maputo, xin đừng đi tới nơi này, một nơi mà rất có thể bạn sẽ bị cướp đoạt toàn bộ những thứ có giá trị trên người một cách bạo lực nhất.

Cha của Eusebio, một công nhân da trắng, mất sớm và cậu bé được mẹ mình nuôi dưỡng trong cảnh nghèo túng, đói ăn quanh năm. Nhưng tất cả không hề ảnh hưởng tới một thể chất bẩm sinh phi phàm của Eusebio. Cậu vẫn lớn nhanh như thổi, với đôi chân cứng cáp và nhanh nhẹn như một con báo gấm, cùng lá phổi khỏe mạnh và cơ bắp rắn chắc như một chú sư tử. Ngay từ thời còn niên thiếu, Eusebio đã thể hiện sự vượt trội về mặt sức mạnh với những người cùng trang lứa. Một thiên tài về thể thao!

Vào năm 15 tuổi, Eusebio nhận được sự chú ý từ Ugo Amoretti, một huấn luyện viên kỳ cựu người Italia. Vị huấn luyện viên này quá choáng váng trước sức mạnh của cậu bé, đã trở về quê hương liên hệ với một số đội bóng Serie A nhằm mài giũa viên ngọc này. Nhưng chẳng ai lay chuyển được tâm ý của bà mẹ Eusebio. Bà Elisa lạnh lùng từ chối những bản hợp đồng… học việc trước khi gặp gỡ với đại diện của Benfica. Và chỉ đến khi 350.000 escudo được chồng trước mắt, bà mới chịu gật đầu.

Tháng 5-1961, Eusebio ra sân lần đầu trong màu áo Benfica khi mùa giải đang đi đến hồi kết. Trên băng ghế chỉ đạo, Bela Guttmann cười không khép miệng khi chứng kiến “thằng nhóc” chơi bóng. Đúng là một tài sản quý giá! “Thằng nhóc” ghi liền 2 bàn trong 2 trận liên tiếp và đến tháng sau, lập luôn hat-trick khi đối mặt với Santos của Pele trong một trận giao hữu. Ngay lập tức, hình ảnh Eusebio được đưa lên trang bìa của tờ L’Equipe, báo hiệu một nhân vật vĩ đại của Cup châu Âu.

Có Eusebio, con đường bảo vệ danh hiệu vô địch của Benfica trải đầy hoa hồng. Aguas, Coluna và Eusebio hợp thành bộ tam tấu kinh điển 8-9-10, trong đó Aguas đá cắm, Eusebio lùi xuống đá như một tiền đạo thứ 2 còn Coluna là người tiếp đạn. Họ liên tiếp tàn sát các đối thủ bằng những tỷ số rất đậm trên đường tới Amsterdam. Và một lần nữa, đối thủ của Guttmann và các học trò lại là đội bóng Tây Ban Nha. Real Madrid.

Trận chung kết thứ 2 của Benfica cũng theo cùng kịch bản như năm trước. Puskas ghi liền 2 bàn giúp Real gác nhà đương kim vô địch 2-0 từ rất sớm. Nhưng chỉ trong vòng 8 phút, các cầu thủ áo đỏ đã san bằng cách biệt. Tiền đạo gốc Hungary đánh dấu cú hat-trick của mình ở trong trận chung kết ngay trước giờ giải lao. Có vẻ như anh chàng vẫn chưa quên mối hận năm nào Guttmann đã “đá đít” ông Puskas bố khỏi vị trí huấn luyện viên của Kispest. Tuy nhiên, Puskas đã sớm thất vọng bởi hiệp 2 là của Benfica, hay nói đúng hơn, của người Mozambique. Phút 50, lại là Coluna tung ra cú sút xa siêu hạng san bằng cách biệt. Kế đến, Eusebio 2 lần xộc thẳng vào hàng thủ của Real và buộc các hậu vệ đối phương phải phạm lỗi. Một quả penalty và một quả đá phạt trực tiếp. Eusebio tiến lên thực hiện cả hai và nâng tỷ số lần lượt lên 4-3 rồi 5-3. Benfica đã bảo vệ thành công chiếc Cup châu Âu của mình. Các cầu thủ áo đỏ ùa tới công kênh ông thầy già trong lúc Eusebio len lén chạy tới phía Di Stefano xin đổi áo rồi sau đó, nhét vội vào người và đem đi giấu biệt trước khi có ai đó phát hiện ra.

Lúc đó, Guttmann chẳng quan tâm tới tiểu tiết của một gã fan cuồng với thần tượng của mình. Ông chỉ mơ màng về chuyện mình sẽ được tăng thêm bao nhiêu phần trăm lương sau khi trở về Lisbon. Thế rồi, các cổ động viên Benfica hôm sau bỗng thấy vị huấn luyên viên mặt đỏ như trái cà chua, lao ra khỏi khu văn phòng của CLB và hét lên những lời thô tục nhất. “Mẹ kiếp! Các người hãy nhớ đấy! Trong vòng 100 năm nữa, Benfica đừng có hòng đoạt thêm bất cứ chiếc Cup châu Âu nào.” Những người chứng kiến cơn giận dữ và lời nguyền của Guttmann sau khi nhận trát sa thải vì đòi tăng lương hôm ấy chỉ cười khẩy: “Đồ gàn!”

Guttmann đóng hành lý ngay lập tức và bay thẳng tới Nam Mỹ. Benfica chẳng hề e sợ. Mùa hè năm đó, họ bổ nhiệm luôn Fernando Riera về dẫn dắt CLB sau khi chứng kiến vị huấn luyện viên trẻ này làm nên điều kỳ diệu cùng Chile ở World Cup. Benfica vẫn lọt vào trận chung kết Cup châu Âu ngay mùa sau. Nhưng lần này, phép lạ đã không còn nữa. Benfica vượt lên dẫn trước Milan nhờ công của Eusebio nhưng sau đó đã bị thua ngược 1-2, y hệt kịch bản mà họ đã từng làm với Barcelona và Real Madrid ở 2 năm trước đấy. Đó chính là màn khởi đầu cho một loạt các bi kịch của CLB. Họ lần lượt lọt vào 8 trận chung kết Cup châu Âu sau thời Guttmann nhưng tất cả đều thua. Lời nguyền của vị huấn luyện viên người Hungary đã ám Benfica trong suốt 60 năm qua, kể cả khi ông đã về với Chúa. Trong một nỗ lực tuyệt vọng, tháng 5-1989, Eusebio bay tới Áo, nơi đặt mộ phần của Guttmann, cầu xin người thầy cũ hãy tha thứ cho CLB. Benfica sau đó đã chơi một trận chung kết đầy nỗ lực nhưng cuối cùng, mọi thứ vẫn như cũ. Đối thủ của họ - một lần nữa lại là AC Milan - mới là nhà vô địch.

Trái ngược với sự đối xử bất công mà Benfica dành cho Guttmann, cuộc đời Eusebio với đội bóng này tràn đầy sự tôn vinh và sùng bái. Sau những năm tháng cống hiến cùng 473 bàn thắng trong 440 trận đấu cho Benfica, Eusebio được người Bồ Đào Nha kính trọng như một vị vua. Khi ông qua đời ở tuổi 72, Bồ Đào Nha đã tổ chức quốc tang trong 3 ngày để tỏ lòng thương tiếc. Nhưng đó là với Bồ Đào Nha, còn ở châu Phi, ông chỉ là một kẻ xa lạ. Ông không được những người Maputo coi trọng dù xuất thân từ những con phố nghèo nàn nơi đây. Ở Mozambique, Mario Coluna mới là người hùng. Eusebio chỉ là một kẻ mất gốc, một gã cầu thủ đã quên đi quá khứ của mình. Trong suốt những năm tháng đỉnh cao, Eusebio không đoái hoài gì đến quê hương. Ông thậm chí còn không muốn trở về Maputo, trở về khu Black Market lụp xụp để thăm lại đám bạn bè cũ, phần lớn vẫn còn rất nghèo khổ. Khi Coluna đổ tiền bạc ra sức đầu tư cho Mozambique thì Eusebio lại lạnh lùng và trốn tránh trách nhiệm. Ông đã trở thành một người Bồ Đào Nha thực sự.

Khi tôi hỏi một người dân Maputo về Eusebio, họ tỏ ra không mấy thích thú khi nhắc đến tên ông. Cầu thủ vĩ đại của lịch sử bóng đá thế giới chỉ là một vệt đen trong tâm trí những người đồng hương. Phải chăng, khi bước đến “Ánh Sáng” (tên sân vận động của Benfica là “Estadio da Luz”, tức sân Ánh Sáng), ông đã quên rằng mình lớn lên từ một góc châu Phi nghèo nàn và tăm tối?