• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cúp C1 Châu Âu - 66 năm lịch sử
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 37
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 37
  • Sau

Thầy phù thủy của Inter Milan

Vũ Anh Tuấn (Inter club Vietnam)

“Catenaccio không được sinh ra bởi Gianni Brera. Nếu bảo đó là một phần trong cá tính của người Italia thì cũng không sai. Nó giống như những khu ổ chuột ở Rome vậy, chúng không được phục dựng bởi những nhà làm phim. Đơn giản là chúng hiện hữu ở đấy.” Đạo diễn lừng danh Pier Paolo Pasolini từng chiêm nghiệm như vậy khi bàn về Catenaccio, thứ bóng đá như khắc họa bao nỗi ám ảnh với các đối thủ từng nếm trải. Nếu thế giới bên ngoài Calcio xem chúng là kẻ thù của bóng đá, thì người Italia tôn thờ Catenaccio như chính linh hồn của mình. Bởi vượt xa một quan điểm bóng đá thuần túy, Catenaccio phản chiếu mọi giá trị lịch sử, cá tính của bóng đá Italia.

CATENACCIO, NƠI KHƠI NGUỒN CẢM XÚC CALCIO

Catenaccio, khái niệm khiến nhiều người rùng mình nghĩ đến thế trận “phòng ngự đổ bê tông” - thương hiệu của người Italia ở các giải đấu lớn, lại không phải là quan niệm được sinh ra ở mảnh đất hình chiếc ủng. Calcio, A History of Italian Football của John Foot - cuốn sách lý giải cặn kẽ về hình tượng Catenaccio - được chia thành 2 phần rõ rệt: giới thiệu lịch sử của trường phái này và nhìn nhận về tinh thần Catenaccio trên sân cỏ Italia.

Theo sử sách ghi chép, người đầu tiên đề ra ý tưởng này là Karl Rappan, một chiến lược gia người Áo, vào thập niên 1930, thời điểm mà châu Âu bị chi phối nặng nề bởi đội hình “Kim tự tháp” 2-3-5 cùng lối đá tấn công không ngừng nghỉ. Tuy vậy, Rappan lại có suy nghĩ khác khi cầm quân ở Servette, Grasshoppers và đội tuyển Thụy Sĩ. Khi ấy, ý tưởng ban đầu của ông đơn giản là không để thủng lưới thì sẽ không thua trận, khi tăng cường thêm một hậu vệ bằng cách rút bớt đi một tiền đạo. Tất cả xuất phát từ việc Rappan nhận thấy hệ thống phòng ngự của ông sẽ đối mặt với rủi ro cao, một khi hàng công ba người của đối phương đánh bại được chiến thuật phòng ngự một kèm một. Quyết định tăng cường thêm một trung vệ “lót” phía sau hàng thủ là giải pháp nhằm hạn chế tối đa sai sót. Khi ấy, hệ thống mới của ông có tên là Verrou, “Cái then cửa”, hay đơn giản là Catenaccio theo cách gọi của Gianni Brera lẫn người Italia sau này. Vị trí trung vệ thòng là bước đi tạo nên cuộc cách mạng về chiến thuật trên sân cỏ vào thuở sơ khai của bóng đá thế giới. Ngay lập tức, thành công đến với đội tuyển Thụy Sĩ, quê hương của Catenaccio, khi mà họ đã đánh bại Đức và Áo tại World Cup 1938.

Diễn biến đó thu hút sự quan tâm của nhiều chiến lược gia, trong đó một số nước Trung Âu và Pháp cũng là những nơi du nhập ý tưởng của Rappan. Như miêu tả của Helenio Herrera thì đó là vào năm 1945, một vài đội bóng xứ Lục Lăng đã thử nghiệm lối chơi này. Nhưng kỳ lạ thay, chỉ có Calcio và người Italia mới nâng tầm Calcio thành thứ nghệ thuật phòng ngự đỉnh cao khiến đối phương phải khiếp sợ. Đó là hành trình dài để quan điểm của Rappan vươn mình trở thành Catenaccio, hệ tư tưởng làm thay đổi thế giới quan bóng đá của người Italia.

Từ Salerno ở miền Nam cho đến Trieste và Padua ở miền Bắc, quan điểm của Rappan âm thầm len lỏi vào sân cỏ Italia giữa lúc triết lý tấn công vẫn còn chỗ đứng mãnh liệt ở Calcio. Năm 1944, tại một giải đấu giao hữu, huấn luyện viên Ottavio Barbieri của Spezia lần đầu giới thiệu vị trí mà người Italia gọi là “Libero”, cho đến năm 1947, cảm hứng ấy giúp huấn luyện viên Alfredo Mazzioni dẫn dắt Modena đến ngôi á quân Serie A. Nhưng người đi tiên phong ở Calcio trong việc gầy dựng lối đá phòng ngự cực đoan với một trung vệ thòng phía sau hàng thủ là Gipo Viani. Đấy là sau Thế chiến thứ Hai khi ông cầm quân ở Salernitana, đội bóng nhỏ ở Campania vốn không thể cạnh tranh với những quyền lực như Juventus, AC Milan, Torino. Vì lẽ đó, họ quyết định sẽ chơi phòng ngự nhiều hơn bằng cách thay một cầu thủ tấn công bằng một trung vệ thòng. Quyết định này khiến “kẻ nhược tiểu” ở Salerno trở nên gai góc hơn nhiều trước các ông lớn, Viani tự hào gọi chiến thuật này là “Vianema” theo cảm hứng từ tên của ông. Nhưng vấn đề là họ không thể thi triển khả năng phản công tốt, thành tố quan trọng làm nên Catenaccio, thế nên trong mùa giải duy nhất của mình ở Serie A (1947-48) khi ấy, Salernitana đã không thể thắng bất cứ trận đấu nào trên sân khách. Vì lẽ đó, giới sử gia không xem Vianema là Catenaccio mà chỉ góp phần tạo ra nền tảng để lớp hậu bối sau này hoàn thiện nó. Trong đó, Nereo Rocco là huyền thoại đầu tiên thành công khi áp dụng “Cái then cửa” cho đội bóng của mình.

“Nhìn vào Nereo Rocco, bạn sẽ thấy một nửa lịch sử của Calcio”, khái quát ngắn gọn của hai cây bút Giovanni Arpino và Alfio Caruso đủ để bạn thấy tầm vóc vĩ đại của vị huấn luyện viên sau này là tượng đài của AC Milan, bởi nếu Helenio Herrera là sứ giả của Catenaccio thì hẳn Nereo Rocco là Đức Chúa Trời của trường phái này. Bắt đầu từ quê nhà Trieste cho đến Padova, quan điểm giữ chặt hàng thủ bằng mọi giá giúp Nereo Rocco gầy dựng tên tuổi khi giúp các đội bóng tỉnh lẻ thành công, mà ngôi á quân Serie A mùa giải 1947-48 của Triestina vẫn là chiến công hiển hách cho đến tận ngày hôm nay, trong đó hàng thủ chắc chắn thứ tư giải đấu chính là nền tảng để họ chỉ đứng sau Grande Torino. Với Padova, ông cùng họ liên tiếp góp mặt trong top 6 tính từ năm 1957 đến 1960.

Thành công này bỗng truyền cảm hứng cho các đội bóng nhỏ khi họ đã tìm ra cách để đối phó với các ông lớn. Về cơ bản, nguyên tắc nằm lòng của Catenaccio là phòng ngự chặt - phản công nhanh, hai thành tố vốn đan xen lẫn nhau mà chỉ cần thiếu một trong hai, xem như Catenaccio không hề tồn tại. Chính điều này dần biến sân cỏ Italia từ chỗ là nơi nuôi dưỡng bóng đá tấn công vào những năm 30 và 40, nay chuyển sang trạng thái phòng ngự cực đoan với câu nói nổi tiếng “Prima non prenderle” hay “Đầu tiên là phải giữ sạch mành lưới”. Như hành trình của nhà báo Mỹ Joe McGinnis khi theo chân đội bóng nhỏ Castel Di Sangro ở Serie B, thì hầu hết các CLB chỉ dùng một trung phong cắm với lối đá co cụm và rình rập. Nếu may mắn trong tình huống phản công nào đó, họ sẽ thắng 1-0. Ngược lại, là trận hòa không bàn thắng, tỷ số được Gianni Brera miêu tả là lý tưởng cho bóng đá. Nên nhớ, nhà báo Brera là người góp phần lan tỏa sức sống Catenaccio và ý chí của ông được thể hiện rõ qua cách nhấn mạnh tầm vóc của hàng phòng ngự.

Để lý giải cho việc tại sao Calcio lại hào hứng đón nhận Catenaccio so với các nền bóng đá khác, John Foot cho hay, nhiều giả thiết đề cập đến thể trạng của người Italia thấp bé hơn so với các đối thủ từ Bắc và Trung Âu khiến họ không thể thi triển lối đá máu lửa suốt 90 phút. Thế nên, “Cái then cửa” mang đến giải pháp bù đắp lại những khiếm khuyết về thể chất. Tuy vậy, huấn luyện viên Helenio Herrera cho rằng điều này không có cơ sở, bởi nếu một hệ thống hoạt động tốt ở nơi này thì hoàn toàn có thể áp dụng ở nhiều nơi khác. Vấn đề là nền bóng đá ấy sẽ đón nhận ra sao lại là một câu chuyện hoàn toàn khác nhau. Trước khi Catenaccio du nhập vào Italia, Calcio bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lối đá tấn công cống hiến nhưng thành công vang dội ở những năm 1960 là nhân tố khiến người Italia bắt đầu bị quan điểm này chinh phục và thực tế sau đó đã chứng minh, Catenaccio đã vươn tầm về nghệ thuật phòng ngự cùng bóng đá Italia khi những vinh quang từ cấp CLB đến màu áo Azzurri đều có dấu ấn đậm nét của trường phái này.

Mở đầu bằng ảnh hưởng của Nereo Rocco tại AC Milan, đội bóng khi ấy buộc phải tìm kiếm một huấn luyện viên thay thế cho… Gipo Viani vào năm 1961, sau khi tiền bối của trường phái Vianema giải nghệ vì cơn đau tim. Cuộc gọi định mệnh giữa Rocco và Viani đã đưa El Paron đến Milano để viết lại lịch sử cho Rossoneri khi tạo ra chu kỳ chiến thắng cùng Catenaccio. Điểm lý thú với lối chơi của AC Milan khi ấy là dù thi triển lối đá phòng ngự cực đoan, nhưng Rocco luôn cố gắng chơi tấn công nhiều nhất khi có thể. Minh chứng là trong mùa giải 1961-62, màu áo đỏ đen đã ghi đến 83 bàn thắng, nhiều hơn 22 bàn so với các đội bóng khác. Ở Cup C1 châu Âu năm 1969, Milan cũng đè bẹp Ajax Amsterdam ở chung kết với cảm hứng từ Gianni Rivera, đôi chân thiên tài trong đội hình của Rocco khi ấy, tài năng duy nhất có sự biệt đãi khi không phải tham gia phòng ngự. Trong khi đó, phần còn lại buộc phải gồng mình với đòi hỏi của Catenaccio về kỷ luật chiến thuật và những ai không đáp ứng được đều phải bật bãi khỏi Milan, trong đó Jose Altafini và Jimmy Greaves là những trường hợp tiêu biểu nhất dù đều danh tiếng vào thời điểm đó.

Nếu AC Milan mở đầu cho chiến thắng của Catenaccio thì người anh em Inter đưa quan điểm này lên đỉnh cao bằng chuỗi ngày vinh quang cùng Helenio Herrera, chiến lược gia vốn đã gầy dựng thế hệ được xưng tụng là Grande Inter (Inter vĩ đại) cho đến ngày hôm nay. Tài thao lược và kỷ luật sắt đá của Il Mago biến tập thể của những Giacinto Facchetti, Mario Corso, Sandro Mazzolab… thành cỗ máy chiến thắng, hình mẫu cho các đội bóng mạnh Italia sau này, gồm túi tiền không đáy từ đế chế dầu lửa nhà Moratti cho đến khả năng quản lý đội bóng của Herrera. Hai danh hiệu vô địch Cup C1 của Inter ở thập niên 1960 càng được tô đậm bởi chiến thắng trước hai quyền lực hàng đầu châu Âu là Benfica và Real Madrid, vốn đại diện cho trường phái tấn công với những Eusebio hay Alfredo Di Stefano lừng danh, cũng là đỉnh cao cho Catenaccio ở giai đoạn này.

Di sản của Nereo Rocco và Helenio Herrera vượt xa những vinh quang trên sân cỏ khi định hình bản sắc cho Calcio mãi về sau. Ở đấy, tinh thần Catenaccio len lỏi ở mọi ngõ ngách của bóng đá Italia, xâm chiếm suy nghĩ các cầu thủ, huấn luyện viên cho đến người hâm mộ với quan điểm như John Foot thừa nhận rằng “Chiến thắng là tất cả”. Bởi với người Italia, Catenaccio không chỉ tồn tại bằng chiến thuật, lối chơi trên sân cỏ, mà còn là trò tâm lý chiến hòng đánh lừa đối thủ, phao tin giả về đội hình ra sân… Tất cả được chuẩn bị bài bản đến từng chi tiết nhằm tối ưu hóa chiến thắng của đội nhà. Người Italia cũng không quan tâm đến định kiến dành cho những Claudio Gentile, Marco Materazzi… Bởi chỉ có kẻ chiến thắng mới ghi lại dấu chân của mình với lịch sử. Cho đến tận ngày hôm nay, khi dòng chảy thời đại làm biến đổi Calcio với những “Arrigo Sacchi” xuất hiện nhiều hơn nhưng có một sự thật hiển nhiên là tinh thần Catenaccio, tinh thần chiến thắng vẫn luôn nắm giữ linh hồn mọi thế hệ của bóng đá Italia.

* *

*

IL MAGO - SỨ GIẢ CỦA CATENACCIO

“Người đàn ông ấy sinh ra ở hòn đảo trắng trên dòng Rio de la Plata hay Tigre gì đó, bởi cũng chả ai biết rõ điều này khi… thế giới mới là quê nhà của gã ấy. Hắn tự chọn cho mình kiếp sống phiêu bạt của một lữ khách.”

Đó không phải câu nói của ai khác, mà chính Helenio Herrera đã tự bạch về bản thân mình như vậy, người sinh ra ở Argentina bởi cặp vợ chồng đến từ Andalusia (Tây Ban Nha). Năm lên 4 tuổi, gia đình Herrera dắt díu nhau đến Morocco khi cuộc sống của họ ở Argentina quá cơ cực. Đến sau này là Pháp, mảnh đất cho ông biết bao ký ức với bóng đá. Ngẫm nghĩ, bạn sẽ thấy sự tương đồng thế nào về số phận của ông và Catenaccio, trường phái đã chu du từ Thụy Sĩ bởi một người Áo rồi lan qua miền Nam và Trung Âu trước khi gắn chặt với lịch sử thăng trầm của Calcio, nơi ghi lại mối lương duyên định mệnh giữa Helenio Herrera và Catenaccio.

a16

Helenio Herrera

(Nguồn: Inter)

Khi nhìn lại lịch sử bóng đá thế giới, các sử gia đều đồng tình rằng, dù không phải là người sáng tạo ra Catenaccio lẫn đi tiên phong trong việc áp dụng trường phái này, nhưng chắc chắn Helenio Herrera là huấn luyện viên giỏi nhất từng thi triển “Cái then cửa”. Bởi đỉnh cao mà ông và Inter chinh phục trong thập niên 1960 không những viết lại lịch sử cho Nerazzuri, mà còn kiến tạo vị thế hùng mạnh cho Catenaccio khi nhắc đến thứ bản sắc bóng đá từng lưu danh sử sách, bên cạnh “Bóng đá tổng lực” (Hà Lan), Joga Bonito (Brazil), Kick and Run (Anh).

“Tôi là người đầu tiên trong lịch sử chơi trung vệ thòng, đó là Pháp vào năm 1945 thì phải.” Helenio Herrera nhớ lại khi trò chuyện cùng nhà báo Simon Kuper về duyên nợ của mình với Catenaccio đã bắt đầu thế nào. Trước đó ở Morocco, ông đầu quân cho CLB có tên Roca Negra, rồi Racing Casablanca. Herrera chơi khá ổn trong vai trò hậu vệ để sau đó xuất hiện cùng đội tuyển Morocco so tài với Algeria và Tunisia tại giải bóng đá các nước Bắc Phi. Tất cả là bàn đạp để chàng thanh niên Argentina tìm đến Pháp khi CLB Stade Francais đưa ra lời mời chính thức. Thời điểm trùng với việc thứ bóng đá của Karl Rappan bắt đầu tạo tiếng vang ở châu Âu, sau khi tuyển Áo gây ngạc nhiên lớn tại World Cup 1938 bằng việc lọt vào đến tứ kết. Nên nhớ, đó là thời hoàng kim của chiến thuật WM cùng sự thịnh hành của trào lưu tấn công trên các sân cỏ khắp châu Âu.

Năm 1945, Herrera quyết định treo giày và dấn thân vào sự nghiệp cầm quân. Sau khởi đầu ở Pháp, ông trở lại Tây Ban Nha và ở lần phiêu lưu này, tên tuổi của Helenio Herrera bắt đầu gây chú ý lớn với thế giới bóng đá. Thành công đầu tiên đến ở Atletico Madrid với hai danh hiệu vô địch La Liga, nhưng rồi ông đột ngột ra đi khi vị Chủ tịch mới lên nắm quyền. Điều tương tự lặp lại ở Sevilla khi cá tính mạnh khiến Herrera bất đồng với ban lãnh đạo đội bóng, những chiến thắng trên sân cỏ không thể giữ chân kẻ du mục như ông. Barcelona chính là đội bóng chú ý đến những diễn biến này khi quyết định tuyển mộ huấn luyện viên có thể giúp họ cạnh tranh với kình địch Real Madrid.

Thập niên 1950 chứng kiến Barcelona trở thành quyền lực lớn của bóng đá Tây Ban Nha. Thành công đó xoay quanh tài chơi bóng của Ladislao Kubala, siêu sao lớn đầu tiên của Blaugrana khi được thừa nhận là người viết lại lịch sử cho đội bóng xứ Catalan ở kỷ nguyên của nhà độc tài Franco, bởi nếu Bernabeu có Alfredo Di Stefano, thì ánh sáng của Camp Nou được thắp lên bởi Ladislao Kubala. Năm 1958, Herrera đến Barcelona và lập tức giúp họ phá vỡ thế độc tôn của Real Madrid bằng 2 chức vô địch La Liga, 2 Cup Hội Chợ (tiền thân của Cup C3 châu Âu), 1 Cup Nhà Vua chỉ trong hai năm gắn bó. Nhưng tất cả bị xóa sạch sau mâu thuẫn với Kubala, khi Herrera quyết định để siêu sao Hungary trên ghế dự bị ở trận bán kết Cup C1 mùa giải 1959-60 với kình địch Real Madrid. Barca thua đau và Herrera quyết định từ chức sau những chỉ trích từ truyền thông và người hâm mộ. Nhưng ông không ngờ, cánh cửa đóng lại ở Catalan giúp Il Mago tìm thấy chân ái của đời mình.

Năm 1978, bộ phim hài Ecce Bombo của đạo diễn Nanni Moretti trình chiếu đến công chúng. Một phân cảnh đáng nhớ là các nhân vật chính thử tài kể tên các Tổng thống của Italia từ năm 1946. Người đầu tiên khởi đầu bằng “De Nicola” nhưng ba người tiếp theo lại chọn theo hướng khác hẳn. Burgnich, Facchetti, Corso… những huyền thoại trong kỷ nguyên Grande Inter, chi tiết phản chiếu sự nổi tiếng thế nào về giai đoạn mà màu áo xanh đen tạo ra sức ảnh hưởng lên nhiều thế hệ người Ý. Và kiến trúc sư trưởng cho công trình vĩ đại ấy chính là Helenio Herrera.

Mọi thứ bắt đầu vào mùa hè 1960 khi ông chủ Angelo Moratti quyết định tìm hướng đi mới cho Inter sau thời gian dài thất bại trong việc hoạch định chỗ đứng của Nerazzuri. Thất bại 0-4 trước Barcelona ở Cup Hội chợ mùa giải 1959-60 lại là cơ duyên cho Moratti chú ý đến huấn luyện viên đối thủ bằng sự ngưỡng mộ. Vài tháng sau, ngay khi tin tức về sự ra đi của Herrera xuất hiện, Inter đã không do dự lấy một giây trong việc chiêu mộ bằng được huấn luyện viên tài năng từ Argentina.

“Tôi không thích những nhà hàng ở Ý chút nào, một bàn ở chỗ này, một bàn ở chỗ kia. Thứ tôi muốn là một bàn lớn cho cả đội quây quần. Tôi sẽ ngồi ở hàng đầu, rồi mọi người sẽ hỏi han nhau xem vợ con dạo này thế nào, cuộc sống ra sao…” Il Mago chỉ ra điểm đầu tiên mà ông kiến tạo chính là mối quan hệ giữa các thành viên của đội bóng, trong đó slogan mà Herrera nhắc nhở các cầu thủ luôn là “Một đội bóng, một gia đình”. Giới sử gia cho rằng, ông lờ mờ xuất hiện như một “Manager” đầu tiên của thế giới bóng đá khi quan tâm đến mọi ngõ ngách trong lòng đội bóng, từ chiến thuật đến đào tạo trẻ, cơ cấu lương thưởng của các cầu thủ… Ví như Balbo (một tay chơi của Inter khi ấy) hôm nay có la cà ở quán bar hay không, các Interista phản hồi ra sao về các cầu thủ. Nhưng công trình vĩ đại Grande Inter không thể sớm đến như kỳ vọng của Chủ tịch Angelo Moratti khi lối đá tấn công của Nerazzuri thất bại trong việc chinh phục Scudetto. Tình thế buộc Helenio Herrera phải thay đổi ở mùa giải thứ 3 (1962-63), khi đưa trường phái “Cái then cửa” đến với Inter.

a17

Facchetti và Mazzola (Nguồn: GiocoPulito)

Sự gia nhập của Tarcisio Burgnich và Humberto Maschio vào năm 1962 cùng hai tài năng trẻ được đôn lên đội 1 gồm Giacinto Facchetti và Sandro Mazzola, giúp Il Mago tìm ra công thức chiến thắng khi ông kết hợp họ với lứa trụ cột như Armando Picci, “Luisito” Suarez, Mario Corso. Chỉ trong vòng 4 năm, Helenio Herrera kiến tạo nên đế chế chinh phục từ Calcio đến châu Âu bằng thứ bóng đá tổ chức và trên hết là kỷ luật của Catenaccio. Nhưng vấn đề là, phiên bản “Cái then cửa” của ông khi được áp dụng ở Nerazzuri sẽ như thế nào?

“Catenaccio bị chỉ trích nhiều bởi cách mà người ta dùng nó là hoàn toàn sai lầm.” Trong cuốn Soccer Against Enemy của Simon Kuper, Herrera chỉ ra điều này bằng lập luận như sau: “Trong hệ thống của mình, tôi có hai trung vệ dập đứng trước một trung vệ thòng, họ là những cầu thủ bắt người nhưng các hậu vệ biên thì phải tấn công. Facchetti mà có thể tấn công như vậy cũng bởi có tôi.” Diễn giải này của ông được thừa nhận rộng rãi bởi các sử gia khi cho rằng, Inter hoàn toàn chơi tấn công thay vì phòng ngự một cách thụ động lẫn rình rập phản công. Slogan tiêu biểu cho lối chơi của Nerazzuri được gọi là “Taca la Bala” hay “Đoạt lấy bóng”. Ý tưởng của Herrera là gây sức ép và tấn công vào khoảng trống ở trên sân, đặc điểm trong cách phòng ngự của các hậu vệ Inter khi ấy là thay vì chờ đợi đối thủ, họ sẽ phán đoán và đưa ra quyết định thật nhanh. Cơ sở để hình thành nên phong cách sau này của các hậu vệ “Made in Italy” trứ danh và ở đội bóng của huấn luyện viên người Argentina, Xanh Đen không hề chơi phòng ngự tiêu cực mà có chăng, họ phòng ngự xuất sắc hơn bất cứ đối thủ nào vào thời điểm đó. Với hàng công gồm “Luisito” Suarez, Sandro Mazzola, Jair, Nerazzuri sở hữu những cầu thủ tấn công hoa mỹ bậc nhất, lực lượng giúp đế chế Grande Inter lần lượt khuất phục những quyền lực ở châu Âu như Real Madrid hay Benfica. Nhưng khi bàn về chiến công thống trị Cup C1 vào những năm 1960 của đội bóng này, giới chuyên môn cho rằng tinh thần mà Herrera gửi gắm còn quan trọng hơn lối đá mà họ lựa chọn.

Lottare o giocare? Chiến đấu hay là chơi bóng? Herrera lúc nào cũng vặn hỏi các học trò của mình như trước khi bước ra sân. Và dù báo giới Italia gọi mình là Il Mago (Nhà phù thủy) nhưng bản tính của huấn luyện viên người Argentina lại mang phong thái của nhà binh hơn là chiến lược gia trên sân cỏ. Thậm chí, ký giả John Foot chả ngần ngại mô tả ông như kẻ độc tài và cách duy nhất trụ vững ở Inter khi ấy là các cầu thủ buộc phải chấp nhận kỷ luật của Herrera bất chấp vị thế ra sao. Danh sách những kẻ phải ra đi vì chống lệnh ông là khá dài, từ Juan Antonio Angelillo (kỷ lục gia ghi 33 bàn thắng trong 1958-59 trước khi bị phá bởi Gonzalo Higuain vào năm 2016), cho đến Armando Picci - thủ quân của Grande Inter người buộc lòng phải ra đi sau tranh cãi nảy lửa với Il Mago.

Sau 7 năm thấm đẫm vinh quang với 3 Scudetto, 2 Cup C1 châu Âu, 2 Cup Liên Lục Địa cho Inter, kỷ nguyên của Helenio Herrera định vị lại chỗ đứng cho Xanh Đen với Calcio khi nên nhớ, ông chính là huấn luyện viên“đính” trên chiếc logo của đội ngôi sao danh giá, biểu tượng cho lần thứ 10 giành được Scudetto. Xa hơn thế, người Italia xem ông là nhân vật tiêu biểu cho vóc dáng của bóng đá nước nhà, giai đoạn mà Calcio vươn mình ra thế giới để tạo lập chỗ đứng về bản sắc bóng đá, vốn để nhận diện nên sắc thái riêng mà Calcio có được cho đến ngày hôm nay. Chắc chắn, tinh thần Catenaccio sẽ không bao giờ huyền thoại đến thế nếu thiếu đi kỷ nguyên chiến thắng của Grande Inter mà Il Mago đã gầy dựng.

* *

*

NHỮNG ĐỨA TRẺ CỦA HERRERA

Khi họa sĩ Giorgio Muggiani dẫn đầu nhóm người tách ra khỏi AC Milan để lập nên FC Internazionale vào năm 1908, có lẽ người đàn ông Thụy Sĩ này cũng không thể ngờ rằng, đội bóng của những kẻ ngoại quốc ấy sau này sẽ là xương sống để kiến tạo nên tinh thần của bóng đá Italia. Và dù tôn chỉ “We’re Brothers of the World” ghi lại Inter là mái nhà của những ngôi sao quốc tế, thì lịch sử cho thấy màu áo xanh đen vẫn là cái nôi sản sinh ra nhiều tượng đài bóng đá cho người Italia, điều đó được khắc họa rõ nhất qua hai giai đoạn hào hùng của đội bóng này với Giuseppe Meazza ở thuở hồng hoang và thế hệ Grande Inter vĩ đại, nơi tinh thần Catenaccio đã đi vào sử sách. Ở đấy, bạn sẽ thấy Giacinto Facchetti và Sandro Mazzola hiện lên như hai biểu tượng chói sáng nhất của giai đoạn hào hùng này.

Ngày 10-06-1961, Inter để thua Juventus 1-9 ở Turin, cũng là thất bại nặng nề nhất lịch sử Nerazzuri trước kẻ thù của mình. Hệ quả tất yếu cho sự phản kháng từ ông chủ Angelo Moratti khi hạ lệnh cho huấn luyện viên Helenio Herrera đưa vào sân đội hình U19, cũng là cách Inter mỉa mai quyết định của Liên đoàn bóng đá Italia cho đá lại trận đấu mà lẽ ra Xanh Đen phải được xử thắng, sau sự cố Juventus để khán giả ngồi tràn xuống đường piste. Trong số những cậu nhóc ra sân để chiến với Bianconeri ngày hôm ấy, Herrera đã chọn Facchetti và Mazzola “nhỏ”. Ít ai ngờ, cả hai đều đã sớm trưởng thành sau nỗi uất hận ở Turin.

Cho đến trước khi Catenaccio xuất hiện, tầm vóc của một cầu thủ phòng ngự ở Calcio bị lu mờ trước những ngôi sao tấn công. Thực tế này được chứng minh qua việc người hâm mộ tôn vinh những Giuseppe Meazza, Silvio Piola, Valentino Mazzola hơn là một hậu vệ nào đó, bất chấp sự xuất sắc của họ… Ngược lại, sau những năm 1960, các giai thoại về Gaetano Scirea, Franco Baresi, Paolo Maldini, Fabio Cannavaro được lưu truyền sử sách sau những cống hiến lặng lẽ của mình cho màu áo Azzurri và Calcio. Đó là sự dịch chuyển lớn về thế giới quan bóng đá mà người Italia đón nhận sau cú chuyển mình vào thập niên 1960 để bây giờ, cú tắc bóng giải nguy từ Alessandro Nesta có giá trị tương đương một bàn thắng của Christian Vieri. Người đã góp phần làm thay đổi vị thế ấy của cầu thủ phòng ngự chính là Giacinto Facchetti.

Sinh ra tại thị trấn nhỏ Treviglio, cậu bé Facchetti khởi đầu bằng vị trí tiền đạo ở CLB Trevigliese. Đây chính là mấu chốt cho lý giải tại sao ông có thể ghi đến 75 bàn thắng trong hơn 600 trận đấu cùng Inter sau này dù chỉ đá hậu vệ trái. Như thổ lộ của Helenio Herrera, óc quan sát của ông về thằng bé ở Treviglio tại một giải đấu trẻ như mách bảo rằng, Facchetti sở hữu sẵn các tố chất mà ông cần cho một hậu biên của mình là tốc độ, khả năng phòng ngự và… tấn công. Nên nhớ, phẩm chất cuối cùng mà Il Mago nghiền ngẫm là điều tối kỵ với Calcio thuở ấy, khi hầu hết các huấn luyện viên sẽ cấm các hậu vệ dâng cao tấn công. Ngay cả với bậc thầy Nereo Rocco, thì nhiệm vụ của một hậu vệ đầu tiên và duy nhất chỉ là phòng ngự. Như cảm thán của huyền thoại Dennis Law (Scotland) trong mùa giải duy nhất của mình ở Serie A cùng Torino, các hậu vệ biên khi ấy bị cấm tiệt chuyện dâng cao quá vạch giữa sân. Nhưng Grande Inter và Helenio Herrera đã đi ngược xu thế ấy bằng việc cổ xúy khả năng tấn công cho các hậu vệ biên. Hơn cả, quan điểm này may mắn bắt gặp tài năng của Giacinto Facchetti để làm thay đổi vai trò lịch sử của một hậu vệ.

Ngay trong trận đấu thứ 2 của mình với Inter, “Gigante Bouno” đã khiến Calcio ngỡ ngàng khi sút tung lưới Napoli. Từ chiều cao 1m91 đến sức vóc, kỹ thuật và tốc độ của mình, Facchetti khiến giới quan sát vào thời điểm đó dậy sóng về quan điểm bóng đá mới mẻ mà Herrera giới thiệu. Con số 15 trận đấu ở mùa giải đầu tiên khi mới 19 tuổi là thành quả đáng kinh ngạc cho tài năng trẻ của Inter. Nhưng mọi thứ chỉ được xem là thăng hoa khi Inter đoạt lấy Scudetto vào năm 1963 bằng màn trình diễn siêu việt từ hàng thủ khi chỉ để lọt lưới 20 bàn thua qua 34 trận, chiến thắng mở ra chu kỳ thống trị từ Calcio đến châu Âu của Grande Inter. Facchetti là một thành tố tạo nên bức tường thép ấy bên cạnh những Picci, Guarneri, Burgnich. Góc nhìn về nhiệm vụ phòng ngự của một hậu vệ được ông lý giải sau này trên La Gazzetta dello Sport như sau: “Một hậu vệ phải biết phòng ngự và cũng rất quan trọng khi hỗ trợ tấn công lẫn kiến tạo cơ hội. Nhưng trên hết vẫn là việc tham gia tổ chức phòng ngự thật tốt. Những người thất bại đơn giản là họ đã bỏ mất vị trí của mình.”

Quan điểm như bày tỏ về sự cân bằng trong lý trí của Facchetti giữa tấn công và phòng ngự, nghĩa là dù công giỏi thế nào thì một hậu vệ cũng không bao giờ được phép lãng quên vai trò bảo vệ vòng 16m50 của đội nhà. Nhưng không phải ai cũng đón nhận sự mới mẻ này khi Calcio vẫn đậm đặc sự bảo thủ. Như ở đội tuyển Italia chẳng hạn, huấn luyện viên Edmondo Fabbri bất đồng với số 3 vì không cho phép ông dâng cao như ở Inter. Hệ quả là sóng ngầm nổ ra giữa các ngôi sao của Inter và huấn luyện viên Azzurri. Cho đến khi qua đời vào tháng 9-2006, vị thế Giacinto Facchetti không chỉ vĩ đại với Inter mà còn nhận được sự kính trọng lớn từ Calcio khi bên cạnh những kỷ lục về bàn thắng, số lần ra sân thì phẩm chất quý ông trên sân cỏ cũng được “Giacinto Magno” gìn giữ tuyệt đối với chỉ duy nhất một lần nhận thẻ đỏ trong suốt sự nghiệp. Hình ảnh của ông tượng trưng cho cú chuyển mình của các hậu vệ Italia khi mở ra kỷ nguyên mà những Scirea, Baresi, Bergomi… trở thành thần tượng mới của người hâm mộ với sự ngưỡng mộ lớn lao dành cho khả năng phòng ngự của họ. Với tầm vóc mang tính lịch sử ấy, Inter quyết định treo vĩnh viễn chiếc áo số 3 của ông vào năm 2006.

Nếu Giacinto Facchetti đã cởi bỏ xiềng xích cho các hậu vệ Italia thì điều lý thú từ kỷ nguyên Catenaccio là sân cỏ Calcio vẫn được trình diễn bởi các nghệ sĩ tài hoa thay vì triết lý phòng ngự đổ bê tông như ám ảnh của bao người. Minh chứng là ở giai đoạn này, những cụm từ như Regista, Fatasisti được dùng để mô tả những nhạc trưởng, cầu thủ tấn công thượng hạng trên sân cỏ như Mario Corso - tài năng được mô tả là “Chân trái của Chúa Trời”, ông chơi bóng hào hoa đến nỗi ngay cả kỷ luật của Helenio Herrera cũng phải biệt đãi. Ở Milan, Gianni Rivera khiến Nereo Rocco xem ông như báu vật khi là cầu thủ duy nhất được tự do sáng tạo trong môi trường Catenaccio khắc nghiệt. Danh hiệu Quả Bóng Vàng của “Abatino” vào năm 1969 là nét tương phản với danh tiếng mà Calcio gầy dựng bằng lối đá phòng ngự chặt chẽ. Khi ấy, đối thủ lớn nhất của Rivera đến từ phía bên kia thành phố, một truyền nhân của dòng họ Mazzola.

Cho đến khi Paolo Maldini xuất hiện và kế tục sự nghiệp của người cha Cesare ở AC Milan, thì dòng họ nổi tiếng nhất trên sân cỏ Calcio thuộc về nhà Mazzola. Câu chuyện bắt đầu từ người cha Valentino ở Torino những năm 40, kỷ nguyên mà sắc áo mận chín thống lĩnh bóng đá Italia. Chơi ở vị trí tiền vệ công, ông là ngôi sao lớn nhất của Grande Torino và được sử sách xếp vào hàng ngũ những ngôi sao tấn công hay nhất mà Calcio từng sản sinh ra. Nhưng trên chuyến bay trở về từ Bồ Đào Nha vào năm 1949, Valentino mãi mãi ra đi sau thảm họa Superga - vốn đã cướp đi sinh mạng của toàn bộ đội hình Torino. Năm ấy, ông để lại góa phụ trẻ Emilia và hai đứa con thơ dại, Feruccio và Sandro. May mắn thay, Chúa đã thương xót nhà Mazzola khi để lại cho đời một Sandro tài năng như viết tiếp câu chuyện dang dở của người cha Valentino.

Chơi ở vị trí tiền vệ công, giới sử gia mô tả ông sở hữu tố chất chơi bóng bẩm sinh, điều khác hẳn với người em trai Feruccio. Tuy vậy, áp lực cho Sandro là rất lớn khi dư luận cho rằng, ông có cơ hội hơn so với chúng bạn đồng trang lứa chẳng qua nhờ cái họ nổi tiếng của mình. Nhưng Herrera thì nằm ngoài số đó, khi chú ý đến Mazzolino ở trại tập huấn mùa hè San Pellegrino năm 1960. Với tốc độ, kỹ thuật và khả dứt điểm nhạy bén trước khung thành, trong đó những cú sút xa của Sandro Mazzola được Il Mago chấm cho những tình huống phản công của Inter. Sự xuất hiện của ông như giúp huấn luyện viên người Argentina hoàn thiện đội ngũ tấn công thực dụng bên cạnh những Luisito Suarez, Jair, Mario Corso, qua đó giúp Nerazzuri sở hữu bộ khung trong mơ để chinh phục mọi giải đấu. Năm 1964, tức chỉ 3 năm sau ngày ra mắt ở Turin, Sandro ghi liền cú đúp bàn thắng trước Real Madrid ở chung kết Cup châu Âu, màn trình diễn đủ sức đập tan mọi dị nghị về gia thế mà ông gánh vác trên vai.

Để hiểu về tầm vóc của Sandro Mazzola, không gì rõ hơn khi nói về màn so kè giữa ông và Gianni Rivera, cặp đôi xứng danh kỳ phùng địch thủ trên sân cỏ Italia vào thời điểm đó. Cùng sở hữu nhãn quan chiến thuật tinh tế, lối chơi hoa mỹ, cả hai là hình mẫu giống nhất mà Gianni Brera miêu tả về một “Abatini”, cầu thủ có lối chơi sang trọng đến nỗi được biệt đãi tránh xa khỏi nhiệm vụ phòng ngự. Phong độ chói sáng của Mazzola và Rivera những năm 1960 khiến Italia sục sôi với đề tài, liệu ai mới xứng đáng dẫn dắt hàng công của Azzurri. Quá khó để làm hài lòng dư luận, thế là huấn luyện viên Ferruccio Valcareggi quyết định, ở Mexico 1970, ông sẽ luân phiên sử dụng mỗi người một hiệp đấu. Italia đi thẳng đến chung kết ở Azteca trước khi thất bại dưới tay Brazil bởi việc phá vỡ quy luật này khi chỉ cho Rivera có 6 phút trên sân.

Nổi tiếng với tên gọi FC Internazionale Milano hay Milan Quốc Tế, nhưng hồn cốt của Grande Inter lại được viết nên bởi những người con Italia ưu tú nhất thập niên 1960 qua hình tượng của Giacinto Facchetti và Sandro Mazzola. Cả hai giống nhau đến kỳ lạ khi cùng Inter vươn mình dưới xiềng xích bất công cho đến phút giây thăng hoa tột đỉnh ở châu Âu. Và chính họ chứ không ai khác, là những tiền bối mở ra trang sử hào hùng đầu tiên của sắc áo xanh đen với thời đại.