Vũ Hoàng (ACMilanVN)
Người khác mua về siêu sao, còn chúng tôi tạo ra siêu sao!
TÔI LÀ JACK REYNOLDS
Một ngày năm 1915, giữa lúc những tiếng súng vang lên trên khắp dải đất châu Âu, chàng thanh niên Jack Reynolds bắt tàu lửa đi từ Thụy Sĩ tới Hà Lan. Chàng vốn dĩ đã được mời làm huấn luyện viên của một đội bóng Đức. Nhưng chàng tự nhận thấy một người Anh làm việc cho người Đức giữa lúc hai quốc gia đang vác đại bác bắn nhau là một điều gì đó không ổn, thậm chí là hơi… bất thường. Tốt nhất là nên chọn một quốc gia trung lập. Và Hà Lan được chàng chấm. Chỉ bởi đó là một nơi an toàn và thực sự xinh đẹp. Rất xinh đẹp! Nhưng còn một lý do sâu xa hơn. Người Hà Lan và người Anh vốn đã làm ăn với nhau từ hàng trăm năm qua. Và khi bóng đá hình thành ở Anh, rất nhiều huấn luyện viên người Anh đã mang môn thể thao này tới Hà Lan để truyền bá và phát triển. Một tiền bối của Reynolds có tên là Edgar Chadwick đã từng sang Hà Lan trước đó vài năm và dẫn dắt đội tuyển quốc gia nước này 2 lần giành Huy chương Đồng Olympic 1908 và 1912.

Jack Reynolds - Người thầy vĩ đại của Ajax (Nguồn: Ajax)
Reynolds tới Amsterdam và ngay lập tức tìm tới Ajax, một đội bóng vừa bị xuống hạng ở giải vô địch quốc gia Hà Lan và chẳng có gì đặc biệt. Đứng trước bàn làm việc của các giám đốc, chàng nói ngắn gọn: “Tôi là Jack Reynolds. Và tôi đã từng là một cầu thủ chuyên nghiệp.” Ngay lập tức, chàng được nhận vào làm.
Nhưng lúc này, cả núi khó khăn đang chờ đón chàng ở phía trước. Ajax đã thành lập được 15 năm nhưng rõ là một đội bóng nghiệp dư, các cầu thủ chỉ chơi bóng như một hình thức giải trí ngoài công việc chính. Reynolds không chấp nhận điều đó. Cả đời chàng gắn bó với trái bóng và chàng muốn nó cũng phải được thực hiện ở Ajax. Đó là lúc chàng đưa ra những lời đề xuất hết sức táo bạo với Ban lãnh đạo và họ đã quyết định làm theo. Lịch sử bóng đá chính thức xoay vần.
Dưới sự chỉ đạo của Reynolds, cả đội Ajax bị xáo tung lên. Một loạt cầu thủ trẻ được tuyển mộ cấp kỳ. Tất cả được chia thành những nhóm tuổi và Reynolds quyết định một lối chơi cơ bản được áp dụng ở tất cả các đội, từ trẻ cho đến trưởng thành, những người xuất sắc nhất ở nhóm dưới sẽ được đẩy lên nhóm trên. Một ngày làm việc của Reynolds thường bắt đầu từ lúc 7 giờ sáng và chàng chỉ trở về ngôi nhà của mình khi đã 9 giờ tối. Xuất thân là một cầu thủ tấn công, Reynolds quan niệm: “Tấn công là cách phòng ngự tốt nhất.” Và đó là kim chỉ nam cho triết lý của Ajax từ đó đến nay.
Chỉ mất có 3 năm để Reynolds biến Ajax từ một đội bóng vét đĩa trở thành thế lực của bóng đá Hà Lan. Năm 1918, Ajax vô địch quốc gia lần đầu tiên trong lịch sử khi họ chỉ để thua 4 trận sau 30 vòng đấu. Năm 1919, họ còn chiến thắng thuyết phục hơn khi bất bại, chỉ hòa 6 trận và thắng 24 trận. Từ một đội bóng hạng gà, Reynolds đã biến Ajax thành một thế lực thực sự.
Nhưng, như mọi nhà lãnh đạo thủ cựu khác, các giám đốc ở Ajax nghĩ rằng mình đã biết được hết bí kíp của Reynolds và quyết định đẩy gã người Anh đi. Họ mất tới 3 năm để hiểu rằng mình đã làm một hành động ngu ngốc. Cuối cùng, một lần nữa, Ajax lại hạ mình cầu cứu Reynolds và ông đã đồng ý quay trở lại. Bắt đầu từ đây, Ajax trở thành thế lực lớn nhất của bóng đá Hà Lan và không bao giờ tụt lại phía sau nữa.
Phương pháp mà Reynolds áp dụng cho Ajax được mô tả hết sức đơn giản: tất cả các cầu thủ đều có thể đá ở mọi vị trí trên sân và phục vụ cho tấn công. Tư tưởng này gói gọn toàn bộ triết lý của Ajax và biến họ trở thành CLB có lò đào tạo đặc biệt nhất trên thế giới. Ở Ajax, mọi cầu thủ trẻ đều có thể hoán đổi vị trí cho nhau một cách dễ dàng. Ở lứa U11, một cậu bé đá hậu vệ trái. Nhưng khi lên lứa U12, cậu bé đó có thể chơi tiền vệ tấn công. Chẳng sao cả!
Tư tưởng này vốn dĩ đã được Reynolds tìm cách áp dụng ở quê hương. Song người ta vẫn thường nói “Bụt chùa nhà không thiêng”. Reynolds thậm chí còn không tìm nổi một ông chủ đội bóng Anh nào muốn tiếp chuyện mình. Và ông đã dốc hết sức cho quê hương thứ hai. Thập niên 1930 chứng kiến sự áp đảo của Ajax, họ vô địch Hà Lan tới 5 lần với phần lớn trụ cột là những cậu bé đi lên từ lò đào tạo.
Sự thống trị của Ajax chỉ đột ngột chấm dứt khi đoàn quân phát xít của Hitler kéo vào Amsterdam. Reynolds bị tống vào trại tập trung và nhiều người tin rằng ông đã chết. Năm 1945, Hà Lan được giải phóng. Reynolds đột ngột trở về. Khuôn mặt tiều tụy. Mái tóc đã bạc. Chỉ có đôi mắt của ông là vẫn sáng rực như ngày bước chân lần đầu tới Ajax. Một lần nữa, ông trở lại băng ghế huấn luyện và một lần nữa, Ajax trở lại với ngôi vị vô địch Hà Lan.
Ngày 09-06-1946, Reynolds quyết định đưa một chàng thanh niên mới 18 tuổi, vừa được bổ sung từ đội trẻ, ra sân lần đầu trong màu áo Ajax. Chàng trai ấy đã ghi một lúc 5 bàn, báo hiệu một sự nghiệp phi thường trong tương lai.
Tên của chàng là Rinus Michels.
* *
*
DE TOEKOMST
Giữa những tán cây xanh mướt, De Toekomst hiện ra với một vẻ đẹp không thể che giấu. Ở một góc của quán cà phê trong khu thể thao, các cậu bé của Ajax - những siêu sao thế giới trong tương lai - vừa ăn bánh, vừa tán gẫu về đủ thứ chuyện của đám trẻ con. Đám du khách thì nhâm nhi ly cappuccino và liếc mắt về phía sân tập. Họ không giấu nổi sự tò mò với học viện này. Phải! Johan Cruyff đã trưởng thành từ chính nơi đây.
De Toekomst được xây dựng từ rất lâu và trải qua vô vàn biến động. Khởi đầu từ ý tưởng của vị huấn luyện viên huyền thoại Jack Reynolds, những người Ajax đã không ngừng sửa chữa, nâng cấp học viện của mình ngày một hiện đại hơn. 140.000 m2, 8 sân tập lớn gồm 4 sân cỏ tự nhiên và 4 sân cỏ nhân tạo, một loạt các cơ sở để luyện gym và thể lực, một khu nhà khoa học thể thao và tất nhiên, văn phòng dành cho các quan chức và HLV ở đủ mọi cấp độ. Bên cạnh bóng đá, De Toekomst còn có các sàn tập Judo, bóng rổ và thể dục dụng cụ. Những môn “ngoại khóa” này sẽ góp phần tạo nên một sự phát triển lạ lùng của các sản phẩm từ Ajax. Huw Jennings, một nhân vật phát triển bóng đá trẻ nổi tiếng ở Anh đã nói về Ajax và De Toekomst: “Mọi ý tưởng hiện đại về việc đào tạo cầu thủ trẻ đều bắt nguồn từ Ajax. Họ là những người khai sáng.”
Hệ thống đào tạo trẻ được phát triển từ thời Reynolds và tuân thủ một cách triệt để suốt hơn 100 năm qua. Hơn 50 tuyển trạch viên tỏa ra khắp nơi trên đất nước Hà Lan để tìm kiếm các cậu bé có tư chất tốt nhất trong độ tuổi từ 7 đến 8. Sau khi tìm ra thông tin về những cậu bé ấy, De Toekomst sẽ gửi tới cha mẹ của chúng một lá thư đề nghị thử việc. Những lá thư ấy gần như không bao giờ bị từ chối. À, tất nhiên là cũng từng có một ngoại lệ. Ấy là Ruud Gullit, chỉ bởi anh chàng này đã từng bị Ajax “đá đít” khỏi buổi thử việc lúc còn bé. Còn lại, hầu hết đều hào hứng và sẵn sàng đi xa hàng chục cây số để tới De Toekomst.
Trong buổi thử việc, các cậu bé sẽ được đẩy vào những trận bóng 4 chọi 4 với không gian chật hẹp. Bóng được luân chuyển liên tục và gần như không dừng lại. Những trận bóng này sẽ khiến chúng bộc lộ hết các phẩm chất cần phải có. Không phải ai ghi nhiều bàn nhất thì sẽ được chú ý. Như Ronald de Jong, một huấn luyện viên của Ajax bộc bạch, các chuyên gia tuyển chọn sẽ hướng tới những cậu bé thể hiện sự khát khao và tất nhiên, cả cách mà cậu ta di chuyển rồi chuyền bóng trên sân. Đó mới là tiềm năng thực sự.
Quan điểm về đào tạo của Ajax là rất rõ ràng: liên tục gạt bỏ những người yếu kém ra khỏi đội ngũ. Có thể hình dung thế này, ở lứa tuổi nhỏ, sau 1 năm, vài người không đủ khả năng sẽ bị yêu cầu rời đội. Số còn lại được chuyển lên lứa tuổi cao hơn và sẽ lại tiếp tục đẩy đi những người kém nhất. Ở Ajax chỉ có hai lựa chọn: hoặc thăng tiến, hoặc bị loại bỏ. Ừ thì bạn cũng có thể la lên rằng nó là một hệ thống quá tàn nhẫn, đặc biệt với những cậu bé còn rất nhỏ. Nhưng hệ thống khắc nghiệt ấy nhờ vậy đã liên tục tạo ra những sản phẩm có chất lượng rất cao, thậm chí đôi khi... quá cao, như các trường hợp của Cruyff, Seedorf hay Sneijder chẳng hạn.
Bên cạnh việc loại bỏ các cầu thủ trẻ, Ajax còn tàn nhẫn với chính các huấn luyện viên. Bất cứ người nào không còn đủ năng lực để đào tạo, họ cũng sẽ phải khăn gói lên đường để thay thế bằng người ưu tú hơn. Đó là chính sách nhất quán của Ajax trong hơn 100 năm.
Cứ mỗi buổi sáng, những chiếc xe bus rời khỏi De Toekomst để tỏa ra khắp nơi đón các học viên của mình đến sân tập. Các cậu bé đều đặn tập bóng trong nửa ngày và học phổ thông trong nửa ngày còn lại. Không có tập thêm! Đó là quy định của Ajax. Bởi với Ajax, cầu thủ trẻ chính là “vốn làm ăn” của họ. Chẳng ai đi ném “vốn” vào những trò ngoài tầm kiểm soát cả. Tất cả các học viên nơi đây đều được ăn và tập miễn phí. Tất nhiên, số tiền duy trì hoạt động được rót từ đội 1 xuống. Hãy thử nghĩ xem, mùa hè năm 2020, Ajax đã bán Donny van de Beek cho MU với cái giá 39 triệu €. Số tiền đó đủ để De Toekomst hoạt động trong bao lâu? Là 6 năm rưỡi. Mà cứ mỗi năm, Ajax lại bán được những sản phẩm của mình với giá rất hời. Do đó, De Toekomst thoải mái hoạt động mà chẳng cần nghĩ gì đến việc thu học phí cả.
Ở De Toekomst, giờ giấc và hình thức tập luyện là rất rõ ràng và khoa học.
Với những cậu bé mới gia nhập học viện ở tuổi lên 7, các trận đấu tập diễn ra trong phạm vi 8 người mỗi bên. 8 tuổi, con số này tăng lên 9 và sẽ bắt đầu đá sân 11 ở độ tuổi lên 10. Số buổi tập cũng tăng theo độ tuổi. Dưới 12 tuổi, các cậu bé chỉ tập 3 buổi mỗi tuần. Sau 13 tuổi, con số này tăng lên 4 buổi và sẽ tăng lên 5 buổi ở độ tuổi 15. Mỗi buổi tập kéo dài 2 giờ đồng hồ với tối đa 30 phút cho tập tạ. Jan Olde Riekerink, giám đốc học viện từ 2007-2011 từng tâm sự với nhà báo Skolove về lý do De Toekomst không cho tập với mật độ dày: “Các cầu thủ trẻ đều có cuộc sống riêng, có gia đình riêng của mình. Chúng tôi không muốn lấy đi những điều thiêng liêng đó từ họ. Nếu họ muốn đá bóng mà không có lịch tập, họ có thể chơi trên đường phố, với những người bạn của họ. Họ có thể làm gì tùy thích với trái bóng mà không cần phải nghe lời chỉ bảo của bất cứ ai. Đôi khi, điều ấy còn quan trọng hơn là luyện tập.” Quan điểm hết sức tiến bộ này có lẽ nằm ngoài suy nghĩ của nhiều người bởi sự hình dung De Toekomst giống như một trại tập trung, nơi các cậu bé không biết gì ngoài trái bóng và các huấn luyện viên.
Chương trình học của De Toekomst không quá phức tạp. Các cầu thủ lần lượt di chuyển, chạm bóng và sút. Hàng trăm lần như thế mỗi buổi. Và hàng vạn lần như thế mỗi năm. Ngoài ra, mỗi cầu thủ đều được huấn luyện ở mọi vị trí, không ai cố định mãi ở một vai trò. Điều này nghe ra có vẻ rất phản khoa học. Thường các lò đào tạo luôn cố gắng chuyên môn hóa một cầu thủ khi đảm bảo họ đá cùng một vị trí từ lứa này đến lứa khác. Nhưng De Toekomst không như vậy. Một tiền đạo vẫn phải tập chơi ở vị trí trung vệ. Nhờ đó, anh ta sẽ hiểu cách đối phương phòng ngự như thế nào. Hoặc một tiền vệ trung tâm vẫn phải học cách chơi ở cánh, nhờ đấy, khi di chuyển ra biên, anh ta sẽ biết mình cần làm gì với trái bóng. Bên cạnh đó, việc biết chơi nhiều vị trí cũng giúp cầu thủ hiểu cách hoạt động của đồng đội và dễ dàng tạo sự liên kết với nhau. Trong trận chung kết Champions League 1995, Ajax đã cho ra sân tới 9 cầu thủ trưởng thành từ lò đào tạo và 8 người trong số đó có khả năng đá ở bất kỳ vị trí nào trên sân.
Bắt nguồn từ Reynolds, trải qua những nhà triết gia bóng đá tấn công là Rinus Michels, Johan Cruyff rồi Louis van Gaal, Ajax luôn hướng các cầu thủ xông lên phía trước. Họ cảm thấy không ưa thích lối chơi phòng ngự của người Ý, sự chặt chẽ của người Đức và kiểu cách “kick and rush” của người Anh. Đối với Ajax, bóng đá không chỉ là bóng đá. Nó còn là một nghệ thuật giao tiếp với trái bóng tròn. Cruyff từng nói: “Luôn cần có đủ cả chất lượng và kết quả tốt. Có kết quả tốt mà không có chất lượng thì thật tẻ nhạt, còn có chất lượng mà không có kết quả tốt thì lại rất vô nghĩa/”
Ajax hướng tới cả hai điều ấy.
* *
*
TOTAL FOOTBALL
Rijnders chuyền bóng cho Hulshoff. Hulshoff chuyền vượt tuyến lên phía cánh trái cho Keizer. Keizer bình tĩnh lừa bóng qua Kamaras rồi lật bóng vào khu cấm địa. Van Dijk nhanh như chớp lao vào đánh đầu. 1-0 cho Ajax! Đội bóng Hà Lan đã vượt lên dẫn trước trong trận chung kết Cup châu Âu. Các khán đài sân Wembley vỡ òa. Ở băng ghế huấn luyện, Rinus Michels chỉ khẽ nhếch môi bình thản. Ajax của ông đã vượt qua một quãng đường rất, rất dài để đến được đây. Và đó chắc chắn chỉ là phát pháo đầu tiên của lối chơi “Total Football” kỳ diệu, hay còn được người Việt Nam biết tới với cái tên “Bóng đá tổng lực”.
Nhà báo nổi tiếng David Winner từng nói rằng, bóng đá tổng lực chỉ có thể sống được trên mảnh đất Hà Lan bởi người Hà Lan có một cảm quan về không gian khác xa với phần còn lại của thế giới. Họ sống trong một đất nước có độ cao dưới mặt biển, diện tích chật chội với dân số đông đúc. Để nuôi được bản thân, những người Hà Lan đã không ngừng sáng tạo và những công trình phục vụ cho nông nghiệp của họ luôn mang lại một cảm giác rõ rệt về hình học. Cảm giác đó xuất hiện trong bộ não của người Hà Lan một cách thật tự nhiên và nó đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng lối chơi dựa trên “cảm quan không gian”. Một yếu tố khác được Winner phân tích rằng xã hội Hà Lan lúc ấy là nơi hội tụ của nhiều tư tưởng vô chính phủ nổi loạn. Đấy cũng là một phần rất quan trọng để tạo ra “Total Football”. Nếu như không có những cuộc nổi loạn này, chưa chắc bóng đá tổng lực đã ra đời, bởi lẽ, lối chơi hiện đại đó được sinh ra để phá vỡ mọi chiến thuật truyền thống kéo dài suốt hơn 100 năm.
Tháng 1-1965, Michels quay trở lại với ngôi nhà Ajax. Lúc này là thời điểm cả thế giới phương Tây đang mê đắm và điên cuồng với bốn chàng trai của thành phố cảng Liverpool. The Beatles tạo ra vô số sóng gió trên sân khấu và thậm chí còn được Nữ hoàng Elizabeth đặc cách phong “Huân chương Đế quốc”, một vinh dự vốn chỉ trao cho giới quan chức và quân nhân. Cuối năm ấy, The Beatles phát hành album “Rubber Soul” với hình bìa là 4 chàng trai cùng mái tóc lòa xòa che khuất đôi tai. Kiểu tóc kinh điển mang tên “Arthur” đã trở thành một “hot trend” trong giới thanh niên thế giới và nằm trong cái gọi là “Beatlemania”. Chính kiểu tóc này đã tạo cảm hứng cho rất nhiều cầu thủ Ajax lúc ấy, trong đó tất nhiên có cả Johan Cruyff. Gần như mọi cầu thủ trong đội hình của “de Godenzonen” (biệt danh của Ajax) đều phủ tóc kín tai cho phù hợp trào lưu. Nó đi ngược với phong cách gọn gàng của giới bóng đá những thập niên trước đấy. Song, mái tóc lòa xòa của các cầu thủ Ajax chẳng hề làm họ chơi bóng tồi đi mà có khi còn đá hay hơn trước. Không chỉ có thế, họ còn làm một cuộc cách mạng nữa khi đưa ra sân đội hình xuất phát với các số áo không theo thứ tự từ 1 đến 11. Cho đến tận năm 1996, các đội bóng vẫn chưa cố định số áo cầu thủ và cứ mỗi khi xuất phát, những cầu thủ ra sân sẽ mặc số áo lần lượt. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất: Ajax. Cruyff trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử các trận chung kết Cup châu Âu phá vỡ quy định bất thành văn trên khi ra sân trong số áo 14 ở trận đấu với Panathinaikos năm 1971. Năm 1972, Ajax tăng số lượng cầu thủ xuất phát có số áo nằm ngoài con số 11 lên 3 người và đến năm 1973 là 5 người. Nhưng không có cuộc cách mạng nào vĩ đại hơn lối chơi của chính họ!
Người ta vẫn thường nói, Total Football của Ajax đã chia bóng đá ra làm hai giai đoạn: cổ điển và hiện đại.
Chúng ta quay trở lại mùa hè năm 1965, Michels đang 37 tuổi và đã hành nghề huấn luyện viên được 7 năm. Cho đến tận lúc ấy, ông vẫn là một người thiếu kinh nghiệm khi chỉ có vài năm dẫn dắt những đội bóng nghiệp dư. Ngoài ra, Michels còn kiêm cả nghề làm giáo viên thể dục ở một trường học khiếm thính và vẫn làm song song hai việc để có thêm thu nhập. Nửa cuối mùa giải 1964-65 chứng kiến sự chật vật của Ajax và chính ông. Nhận thức được lý do cho sự trì trệ, Michels đã quyết định chờ đến hè để thực hiện cuộc cách mạng của mình. Điều đầu tiên, Ajax vẫn chỉ là một đội bóng theo dạng bán chuyên nghiệp, các cầu thủ ngoài 2 giờ tập mỗi ngày đều có các việc riêng để kiếm sống. Họ gọi đùa mình là “những người đam mê được trả lương”. Để thay đổi tận gốc rễ, Michels đã đề nghị Ban lãnh đạo chuyển thành CLB chuyên nghiệp. Hệ quả là một số cầu thủ đang có công việc kinh doanh bên ngoài đã buộc phải chấp nhận tập trung hoàn toàn vào bóng đá. Tất nhiên, vẫn có những người từ chối nhưng đa phần đều đồng ý dấn thân vào cuộc phiêu lưu. Ajax của Michels sẽ không còn đường lùi, hoặc đi tới đỉnh cao và trở nên giàu có bằng những danh hiệu, hoặc là… nợ nần chồng chất, vợ con nheo nhóc. Khả năng thuyết phục và tài “chém gió” của Michels đã tỏ ra rất có ích. Ví dụ như Klaas Nuninga, người đang là giáo viên trung học, đã đồng ý từ bỏ bục giảng để theo đuổi bóng đá. Sjaak Swart, người cả đời gắn bó với Ajax và sẽ đá tổng cộng hơn 600 trận cho CLB, cũng chuyển công việc kinh doanh cho vợ mình quản lý. Kém hơn một chút, Frits Soetekouw hay Anton Pronk cũng rút bớt khoảng thời gian làm sếp bên ngoài để tập trung vào luyện tập. Như vậy là chỉ trong vòng vài tuần, Michels đã tạo được một đội bóng “tương đối” chuyên nghiệp để chuẩn bị cho mùa giải mới.
Bước tiếp theo là vấn đề chiến thuật và tổ chức lối chơi.
Là người đã gắn bó với đội bóng áo Đỏ-Trắng cả sự nghiệp từ khi còn là một đứa trẻ đến lúc treo giày, ông thấm nhuần tư tưởng mà người thầy vĩ đại Jack Reynolds mang đến Hà Lan, rằng mỗi cầu thủ đều phải vừa biết tấn công, vừa biết phòng ngự. Tư tưởng của Total Football chỉ đơn giản đó là mọi cầu thủ đều có thể hoán đổi vị trí cho nhau ở trên sân và phải hoán đổi linh hoạt nhất có thể. Khi một cầu thủ rời khỏi vị trí của mình, ngay lập tức, đồng đội của anh ta sẽ lao tới thay thế. Trước đó, các trường phái bóng đá cổ điển đều cố định các vị trí trong những sơ đồ cứng nhắc. Sự thay đổi về mặt chiến thuật chủ yếu ở việc kéo cầu thủ tuyến này sang một tuyến khác nhằm tăng quân số cho mặt trận tấn công hoặc phòng ngự. Nhưng với Total Football, mỗi cầu thủ đều không đóng đinh vai trò của mình. Một trung vệ cũng có thể dâng lên cao chơi như một tiền vệ, hay một tiền đạo cánh cũng có khả năng lùi xuống phía dưới để đảm nhận vị trí hậu vệ. Ajax đã tận dụng triệt để lợi thế từ kỹ thuật điêu luyện và tư duy chơi bóng khoáng đạt được lò đào tạo của họ mang tới cho các cầu thủ trẻ. Ở đó, như đã nói, mỗi cầu thủ đều được huấn luyện chơi ở mọi vị trí trên sân. Triết lý ấy được mở đầu bởi Reynolds và lan sang Áo với “Wunderteam” trong thập niên 1930, kế đến là River Plate thập niên 1940 với bộ ngũ do siêu sao Manuel Moreno làm hạt nhân trước khi đến với Santos của Pele. Nhưng Total Football chỉ có thể lên đến đỉnh cao ở nơi khai sinh ra nó: Ajax. Và Michels là người mang sứ mệnh ấy.
Với phương châm “Bóng đá là một cuộc chiến tranh”, vị huấn luyện viên trẻ dốc sức biến các “con gà” của Ajax thành những “chú phượng” trong mùa hè 1965. Ông thay đổi gần như toàn bộ giáo án, thuê chuyên gia điền kinh Cees Koppelaar về để huấn luyện các cầu thủ chạy như thế nào cho nhanh mà vẫn giữ được sức. Một trong những phương pháp kinh điển mà Michels áp dụng chính là “chuyên môn hóa”. Rất có thể, ông chính là vị huấn luyện viên đầu tiên của bóng đá đã chủ động thuê các chuyên gia để huấn luyện các cầu thủ theo từng công đoạn: thể lực, tốc độ, phòng ngự, sút bóng… Bên cạnh đó, vai trò của bác sĩ vật lý trị liệu Salo Muller cũng được Michels nâng lên. Giờ đây, Muller không chỉ là một người chữa trị chấn thương đơn thuần mà còn là nơi để các chàng trai trẻ dốc bầu tâm sự. Để tăng thêm sức nặng cho vị bác sĩ này, Michels còn yêu cầu Muller luôn có mặt trong những buổi thảo luận chiến thuật toàn đội. Ở Ajax, Michels đóng vai “ác” còn vai “thiện”, ông khoán cho Muller. Quả là một kế hoạch chu toàn đảm bảo sự cân bằng trong đội! Khoảng vài năm sau, ông tiếp tục gia tăng sức mạnh hậu cần khi chỉ định một chuyên gia dinh dưỡng, người sẽ luôn theo đội trong các chuyến đi xa. Chính từ những thay đổi của Michels, các thuật ngữ mới trong bóng đá đã được phổ biến rộng rãi. Như vậy là, không chỉ làm cuộc cách mạng về lối chơi, Michels còn làm cuộc cách mạng trong công tác đào tạo.

Rinus Michels và Johan Cruyff
(Nguồn: Twitter)
Mùa hè năm ấy, các cầu thủ bị nhốt vào trong trại và tập luyện cật lực ba buổi tập mỗi ngày. Họ sẽ phải thực hành việc hoán đổi vị trí một cách nhuần nhuyễn nhất trước khi bước ra sân đấu, đồng thời miệt mài nâng tạ và rèn thể lực đến kiệt sức. Chỉ sau một mùa hè, các chàng trai trẻ đã tiến bộ trông thấy. Họ khởi đầu chiến dịch giành lại vinh quang bằng một loạt 5 trận thắng liên tiếp ở giải vô địch Hà Lan. Cuối tháng 12-1965, khi Ajax đang dẫn đầu giải đấu, trong một cuộc phỏng vấn, Michels nói về triết lý bóng đá của ông: “Nếu muốn tham dự Cup châu Âu, điều mà chúng tôi vẫn còn lâu mới làm được khi trước mắt là một chặng đường dài, bạn cần phải có sự phát triển về chiến thuật. Bóng đá không giống như bóng rổ. Một huấn luyện viên có thể dạy về chiến thuật nhưng trong sân, nó phải xuất phát từ chính các cầu thủ. Các cầu thủ phải có cảm giác về nó bởi lẽ trong trận đấu, các huấn luyện viên đều không thể yêu cầu nghỉ để chỉ đạo được.” Chính triết lý ấy đã khiến Michels tập trung xây dựng một tập thể những con người có tư duy rất cao về chiến thuật và tất nhiên, mọi tinh hoa sẽ dồn vào một cầu thủ, còn được gọi là “nhạc trưởng”. Một cầu thủ rất đặc biệt. Một cầu thủ có cái tên là Johan Cruyff.
Mùa giải đầu tiên mà Michels huấn luyện là mùa thi đấu thứ 2 của Cruyff. Lúc này, anh chỉ mới 18 tuổi, vẫn còn quá trẻ nhưng đã nhanh chóng bộc lộ năng lực đặc biệt của mình. Kết thúc mùa giải 1965-66, Cruyff ghi 25 bàn sau có 23 trận, góp công lớn giúp Ajax vô địch Hà Lan. Ajax thống trị giải quốc nội trong những năm sau đó và luôn là ứng cử viên hàng đầu cho vị trí số 1. Song, huyền thoại của đội bóng vĩ đại chỉ được tạo nên nhờ chiến công bất tử ở Cup châu Âu.
Tháng 3-1969, Ajax lọt vào tứ kết Cup châu Âu. Đối thủ của đoàn quân Rinus Michels chính là Benfica, đội bóng đang sở hữu tiền đạo xuất sắc bậc nhất thế giới, Eusebio. Ở trận lượt đi, Ajax đã làm Eusebio im tiếng nhưng khổ nỗi, Benfica nào chỉ có mỗi cầu thủ này? Họ đã giã 3 bàn vào lưới của Gerrit Bals ngay tại Amsterdam. Trận thua này khiến các cổ động viên Ajax thất vọng và cả giới truyền thông cũng chán nản theo. Thế là ở trận lượt về, để tiết kiệm kinh phí, Đài NTS quyết định hủy bỏ buổi tường thuật trực tiếp vì khán giả cũng không mấy quan tâm. Trớ trêu thay, đó lại là một trận đấu mà Ajax chơi cực kỳ bùng nổ. Dưới sự thống lĩnh của Cruyff, Ajax đã bóp Benfica suýt chết khi ghi liền 3 bàn ngay trong hiệp 1. Phải đến tận gần cuối trận, Torres mới rút ngắn tỷ số xuống 1-3 và đảm bảo hai đội phải đá lại khi tổng tỷ số 2 lượt trận hòa nhau 4-4. Trận đấu play-off được UEFA quyết định diễn ra tại nước Pháp, 3 tuần sau trận lượt về ở Bồ Đào Nha. Hơn 30.000 người Hà Lan đã ùn ùn đổ sang Paris và tìm mọi cách để mua vé, kể cả vé giả. Kết quả, có tới hơn 63.000 người lọt vào sân vận động trong khi sức chứa của nó chỉ có… 60.000 chỗ ngồi. Chiều hôm ấy, cả thủ đô Amsterdam vắng như mùng một tết, gần như toàn bộ thành phố đã dán mắt vào chiếc ti vi để không bỏ sót một phút nào cảnh các chàng trai Ajax chiến đấu với gã khổng lồ Benfica trong một trận chiến một mất, một còn. Một cửa hàng làm bánh đã rất sáng tạo, dùng kem tạo thành chữ Ajax to bự ngay trên các thành phẩm của mình. Kết quả, họ đã phải căng sức ra làm suốt cả buổi sáng để bán kịp cho các “thượng đế” đang đếm từng phút chờ tiếng còi khai cuộc. Mọi sự chuẩn bị đã không uổng phí. Sau 90 phút chính thức tẻ nhạt, Ajax chơi thứ bóng đá kinh điển trong hiệp phụ. Các bàn thắng của Cruyff và Danielsson đã đè bẹp Benfica tới 3-0 và giúp họ đi tiếp vào vòng sau. Nhưng trận đấu để đời này đã giúp người Hà Lan khám phá ra một tính cách khác bên trong họ, đó là sự hâm mộ cuồng nhiệt với bóng đá, điều mà trước đấy, họ chưa từng có dịp thể hiện ra.
Tháng 5 năm ấy, Ajax có trận chung kết đầu tiên trong lịch sử, đối mặt với một gã khổng lồ khác, AC Milan. Tuy thua nhưng Michels đã nhìn ra sự thiếu sót lớn trong lối chơi của ông, đó là vấn đề phòng thủ. Và ông cần đến mùa giải 1970-71 để hoàn thiện nó. Đó chính là “Offside trap”, hay “bẫy việt vị”. Bob Haarms, trợ lý của Rinus Michels nhớ lại: “Vasovic di chuyển và bẫy việt vị đột nhiên được tạo ra. Như một phép lạ. Michels sau đó đã thốt lên: ‘Ồ, đó là điều chúng ta đang cần’. Tôi không nhớ rõ đó là trận đấu nào nhưng có thể nói rằng một phút trước đó, chúng tôi còn thi đấu theo kiểu cũ thì phút tiếp theo, lối chơi mới đã ra đời.”
Bẫy việt vị đã giúp cho Ajax có được sức mạnh trong phòng ngự. Giờ đây, các cầu thủ đã không phải di chuyển quá nhiều để lùi về cướp bóng khi mải mê lên tấn công. Quãng đường cũng được rút ngắn lại trong lúc hiệu quả tăng lên rõ rệt. Thành công đến rất nhanh. Trên con đường tiến tới trận chung kết Cup châu Âu năm 1971, Ajax chỉ bị thủng lưới 5 bàn sau 8 trận, trong đó không có một bàn thua nào trên sân nhà. Họ tiếp tục thể hiện khả năng phòng thủ siêu hạng trong trận đấu cuối cùng khi ngăn chặn thành công mọi cuộc tấn công của Panathinaikos trong khi dễ dàng chọc thủng lưới đối thủ 2 lần. Thành tích đó tiếp tục được duy trì trong những năm sau đó. Ajax đã có tới 4 trận chung kết Cup châu Âu liên tiếp giành chiến thắng mà không thủng lưới bất cứ bàn nào. Một kỷ lục khủng khiếp!
Chiến thắng vĩ đại năm 1971 đã mở đường cho sự thay đổi chưa từng có trong lịch sử bóng đá. Chiến thuật kiểu cũ đã chết. Thứ bóng đá hiện đại và tươi trẻ đã xuất hiện và lên ngôi. Sơ đồ chiến thuật không còn đóng đinh các cầu thủ ở khu vực của mình mà đã chấp nhận những người dám di chuyển vượt qua giới hạn của vị trí. Tất nhiên, những huấn luyện viên không dám thay đổi sẽ dần bị đào thải và mở đường cho một loạt các nhà cầm quân trẻ lên thay thế.
Nhưng Ajax chưa dừng lại.
Mùa hè năm ấy, sau khi đưa đội bóng của mình trở thành nhà vô địch châu Âu, Rinus Michels rời khỏi CLB để tìm kiếm thách thức mới sau khi cảm thấy quá mệt mỏi ở Ajax. Di sản của ông để lại là vô cùng lớn, đó là một đội hình giàu chất lượng với siêu sao Johan Cruyff đang ở độ chín nhất của sự nghiệp. Cuối năm đó, anh đã giành Quả Bóng Vàng châu Âu, trở thành cầu thủ Hà Lan đầu tiên có được vinh dự này. Ở trên băng ghế huấn luyện, một con người kiệt xuất khác cũng đã tới. Stefan Kovacs.
So với Michels, Kovacs là người kín tiếng hơn rất nhiều. Ông được coi như một trong những huấn luyện viên vĩ đại nhất mọi thời đại nhưng ngày nay, không nhiều người biết tới hoặc nhớ tới ông. Đó là một bi kịch thực sự của người đàn ông gốc Hung. Một lý do để giải thích cho sự lãng quên rằng người ta đổ lỗi cho Kovacs đã quá dễ dãi và nuông chiều cầu thủ cũng như là người chứng kiến sự suy tàn của “đế chế”. Tiếp quản những ngôi sao hàng đầu thế giới, ông đã thả lỏng kỷ luật và giúp họ đạt hưng phấn cao nhất khi ra sân. Trong 2 mùa liên tiếp 1971-72 và 1972-73, Ajax đã đạt một thành tích kinh hoàng mà có lẽ trong 1.000 năm nữa cũng không có một CLB nào bắt kịp. Họ đã thắng TOÀN BỘ các trận đấu trên sân nhà ở mọi mặt trận trong 2 mùa giải ấy. Tổng cộng 46 trận đấu và 46 lần giành chiến thắng.
Sở dĩ Ajax đạt được thành công vô tiền khoáng hậu này chính nhờ tính cách dễ chịu của Kovacs. Ông mang lại cho các cầu thủ sự thoải mái, khiến họ được thả lỏng tinh thần và mặc sức phô diễn những gì tinh túy nhất. Trên con đường tiến vào trận chung kết Cup châu Âu năm 1972, đội bóng của Kovacs đã lần lượt đè bẹp mọi đối thủ mạnh nhất, từ Dynamo Dresden, nhà vô địch Đông Đức, cho tới Marseille, Arsenal và cuối cùng là Benfica. Ở trận chung kết, Cruyff lập cú đúp, dễ dàng quật ngã Inter. Ajax tiếp tục thành công với nguồn cảm hứng vô tận từ Cruyff. Họ đánh bại hai gã khổng lồ Bayern Munich ở tứ kết và Real Madrid ở bán kết để lần thứ 3 liên tiếp lọt vào trận chung kết. Lần này đến lượt Johnny Rep lên tiếng và Ajax đã chính thức trở thành đội thứ 2 trong lịch sử đoạt vĩnh viễn Cup châu Âu.
Phong cách của Ajax thời kỳ này đã phủ sóng rộng khắp, không chỉ ở bóng đá mà còn lan ra cả cuộc sống đời thường. Họ được so sánh với những vũ công ballet bởi lối đá phóng khoáng và uyển chuyển. Olga de Haas, một nghệ sĩ ballet danh tiếng của Hà Lan lúc ấy đã gọi Johan Cruyff là “Rudolf Nureyev của bóng đá”. Thật không có một cách ví von nào phù hợp hơn thế! Trong thời đại của mình, Nureyev là nghệ sĩ múa vĩ đại nhất của ballet thế giới và có ảnh hưởng rất lớn tới những thế hệ sau. Cruyff với bóng đá cũng y như vậy. Cùng với Neeskens và Krol, Cruyff đã trở thành biểu tượng của Ajax, của bóng đá Hà Lan và sau đó là của bóng đá trên toàn thế giới.
Nhưng cuộc vui nào rồi cũng sẽ tan, đế chế nào rồi cũng sẽ tàn. Mùa hè năm 1973, sau khi lần thứ 3 liên tiếp vô địch châu Âu, Cruyff quyết định rời khỏi Ajax để tới Barcelona với bản hợp đồng kỷ lục thế giới. Nguyên nhân lớn nhất chính là chính sách thuế áp lên các cầu thủ quá cao. Rinus Michels từng chỉ trích về chính sách này trong thời kỳ ông đang cùng Ajax chuyển mình lên chuyên nghiệp. Cũng vì mức thuế mà các đội bóng Hà Lan không thể trả lương cao cho các cầu thủ và họ phải duy trì hệ thống bán chuyên trong một thời gian khá dài. Không chỉ có Cruyff, huấn luyện viên Kovacs cũng rời khỏi Ajax để tới Pháp, đảm nhận vị trí huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia nước này. Ajax rơi vào thoái trào và họ phải chờ tới hơn 20 năm để có một thế hệ vô địch châu Âu lần thứ tư.
Chỉ có Total Football là vẫn còn sống mãi!
Bonus: Một trong những mặt tối của Total Football chính là doping. Vào thập niên 1970, thứ chất cấm này vẫn chưa phải là chất cấm và rất có thể, một số cầu thủ Ajax đã sử dụng nó để gia tăng thể lực. Trong cuốn sách nổi tiếng “Inverting the Pyramid”, sử gia bóng đá Jonathan Wilson cho rằng doping chính là điều kiện để tạo ra thứ bóng đá tổng lực. Tất nhiên, Ajax không bao giờ thừa nhận điều này dù rằng chính bác sĩ John Rolink, người phụ trách y tế khi đó, đã đồng ý về việc “một số thuốc” đã được sử dụng vào thời điểm ấy. Bản thân Johan Cruyff cũng luôn mô tả “Total Football” là lối đá “dùng trí tuệ” chứ không phải chạy nhiều.