Phẩm này là tổng kết của một bộ kinh, phần sau cùng của phó chúc lưu thông, nói về tự hành lưu thông. Phổ Hiền Bồ tát từ phương Đông lại, thỉnh Phật giảng lại lần nữa Kinh Pháp Hoa. Như Lai bèn nói bốn pháp thành tựu. Đó là “tái diễn Pháp Hoa”. Bồ tát lại khuyến phát thệ nguyện, nói pháp thủ hộ con người và giáo pháp. Nếu về con người, trước hết là pháp trừ ngoại nạn, sau là ba pháp: Đi đứng đọc tụng; ngồi tư duy nghĩa; ba bảy ngày tinh tiến. Thứ nữa nói thần chú, thề nguyền thủ hộ.
Tiếp theo nói về thủ hộ cho giáo pháp. Cuối cùng trần thuật Như Lai ấn thành. Trước thuật về hộ trì giáo pháp, sau thuật về hộ trì con người.
Đó là hoàn tất nói pháp của kinh này. Đại chúng trong pháp hội, được lợi ích sâu rộng, vui mừng thọ trì, lễ bái lui ra.
Biểu đồ nội dung phẩm Phổ Hiển Bồ tát
Phẩm này là phẩm tổng kết của Kinh Pháp Hoa, chủ yếu nói về việc của Phổ Hiền Bồ tát. Khuyến phát nghĩa là người tin giáo pháp cao quý của Phật rồi quyết tâm thực hành thì được thêm sức thủ hộ của Phổ Hiền Bồ tát. Phổ Hiền Bồ tát hộ trì thêm sức thì biết được thực tướng của vạn pháp. Bởi Văn Thù Bồ tát, biểu thị cho phần “trí”, Phổ Hiền Bồ tát biểu thị cho phần “lý”.
Khi bấy giờ Phổ Hiền Bồ tát, cùng với nhiều Bồ tát chúng, từ phương Đông đến núi Linh Thứu, lễ Đức Phật và hỏi Phật:
“Bạch Thế Tôn! Con ở nước của Bảo Oai Đức Vương Phật, vẳng nghe ở thế giới Ta-bà, nói Kinh Pháp Hoa, cùng vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức, chư Bồ tát chúng, cùng lại nghe kinh thọ trì. Kính xin Thế Tôn, sẽ vì nói đấy. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ở sau khi Như Lai diệt độ làm thế nào hay được Kinh Pháp Hoa này”.
Đức Phật liền dạy phải thành tựu bốn pháp. Bốn pháp đó là:
1) Chư Phật hộ niệm: Niệm tới Phật, hợp với ý Phật, được chư Phật thủ hộ.
2) Thực chư đức bản: Tự mình nỗ lực, trồng mọi cội đức.
3) Nhập chính định tụ: Vào được tụ chính định, tức đến được ngôi giải thoát.
4) Phát tâm cứu nhất thiết chúng sinh: Phát tâm cứu độ hết thảy chúng sinh.
Đức bản là căn bản của mọi điều thiện, muôn hạnh, nhân gốc của Phật quả Bồ-đề, của công đức. Chính định tụ, một trong Tam định tụ (Chính định tụ, Tà định tụ, Bất định tụ). Bậc thánh giả tu hành pháp không thoái chuyển quyết định sẽ đến được quả Phật.
Đức Phật dạy: Nếu người thành tựu được bốn pháp như thế, ở sau khi Phật diệt độ, tất sẽ được kinh này. Pháp một và ba thuộc tha lực thủ hộ; pháp hai và bốn khích lệ tự lực tu hành.
Phẩm này thường gọi là “Tái diễn Pháp Hoa”, tổng quát toàn thể Kinh Pháp Hoa.
Phổ Hiền Bồ tát, được nghe lời dạy của Phật, rất cảm kích, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn! Ở sau 500 năm, trong đời trược ác, nếu có người thọ trì kinh điển này, con sẽ thủ hộ, trừ được suy vi hoạn nạn, khiến được an ổn, không còn kẻ rình tìm phương tiện hãm hại”.
“Nếu kẻ hoặc bị ma, hoặc ma nam, hoặc ma nữ, hoặc ma dân, hoặc người bị ma ếm, hoặc quỷ Dạ xoa, hoặc La sát, hoặc Cưu-bàn-trà, hoặc Tỳ-xá-xà, hoặc Cát-giá, hoặc Phú-đan-na, hoặc Vi-đà-la v.v. kẻ làm tổn hại mọi người, đều chẳng được tự tiện”.
Ma là chữ nói tắt của Ma-la (Māra), dịch là sát giả, ác giả chướng giả. Ma não loạn thân tâm, phương hại thiện pháp, cướp của công đức, giết mạng trí tuệ. Dạ xoa (Yakṣa), La sát (Ràksasa) là loài quỷ. Cưu-bàn-trà, loại quỷ ăn tinh khí người. Tỳ-xá-xà (Pisàca), loại quỷ ăn thịt. Cát-giá (Kṛtya) cũng gọi là Khởi thi quỷ. Phú-đàn-na (Pūtana), gọi là Chân ngạ quỷ, quỷ coi bệnh nóng. Vi-đà-la (Vetada) dịch là Thiện diệu, quỷ coi chú thuật.
Các loại quỷ trên, đều làm phương hại cho sự tu hành Phật đạo, náo loạn nhân tâm. Nương vào Phổ Hiền Bồ tát mà trừ được tai nạn. Vì Phổ Hiền là Bồ tát của lý, biểu thị cho người hội đắc được chân lý thì giải thoát được hết phiền não.
“Người này hoặc đi hoặc đứng, nếu đọc tụng kinh này, con khi đó cưỡi bạch tượng sáu ngà, cùng đại Bồ tát chúng, đều đến chỗ đó, mà tự hiện thân, cúng dường thủ hộ, an ổn tâm họ. Cũng vì cúng dường, Kinh Pháp Hoa cớ vậy”.
Sáu ngà của bạch tượng vương là biểu thị cho sáu căn: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Bạch tượng biểu thị cho lý thuần khiết thanh bạch. Người đã thể đắc được lý của Phổ Hiền, thì tâm trở nên thanh tịnh, bắt đầu thấy được thật tướng của vạn pháp.
“Cũng lại cho họ chú Đà-la-ni, vì được chú này, không bị loại phi nhân, hay phá hoại được. Cũng không bị người nữ làm hoặc loạn được. Cũng tự thân con, thường hộ người đó, kính xin Đức Thế Tôn, nghe cho con nói Đà-la-ni này”. Liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
“A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà đế, Phật đà ba chuyên nễ, Tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết già đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà già địa, đế lệ a đọa tăng già đâu lược a la đế ba la đế, tát bà tăng già tam ma địa già lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiên xá lược a nâu già địa, tân a tỳ cát lợi địa đế, xoa ha”.
(Alande dandapati dandavatani dandakusale dandasudhàri sudhari sudhàrapati buddhapasyane dhàrani àvartarani samvartani samghapariksite samgharirghàtani dharmapariksite sarvasattnaru - takausalyànugate simhavikridite anuvarte vartani vartali svàhà).
Đối với lời thệ nguyện của Phổ Hiền, Đức Phật tán thán rằng:
“Tốt lắm thay! Tốt lắm thay! Phổ Hiền! Ông hay hộ trợ kinh này, khiến chúng sinh nhiều nơi được an lạc lợi ích. Ông đã thành tựu công đức bất khả tư nghì, từ bi sâu lớn. Từ lâu xa trở lại, phát ý Vô thượng Chính đẳng Chính giác, mà hay làm cái nguyện thần thông này, thủ hộ kinh này. Ta sẽ lấy sức thần thông thủ hộ cho người hay thọ trì tên Phổ Hiền Bồ tát”.
“Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ chân chính tu tập, viết chép Kinh Pháp Hoa này, nên biết người đó, tức thấy Phật Thích Ca Mâu Ni. Như từ miệng Phật, nghe kinh điển này. Nên biết người đó, là cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni. Nên biết người đó, được Phật khen ‘lành thay’. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca Mâu Ni lấy tay xoa trên đầu. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca Mâu Ni, lấy y choàng lên thân. Con người như thế, chẳng lại tham đắm vui đời. Chẳng thích kinh thư thủ bút (sách vở) của ngoại đạo”... “Phổ Hiền! Nếu ở đời sau, người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, người đó chẳng lại tham đắm, áo mặc, đồ nằm, các vật ăn uống, nuôi sống. Chỗ nguyện chẳng hoại. Cũng ở hiện thế, được phúc báo đó”.
“Nếu có người, buông lời khinh chê: ‘Ông là người điên cuồng, luống công làm hạnh ấy, không được lợi ích gì’. Tội báo như thế, đời đời không mất. Nếu có người cúng dường tán thán, ở ngay đời này, được hiện quả báo”.
“Nếu lại thấy người thọ trì kinh điển này, mà vu khống những lỗi lầm, hoặc thật, hoặc chẳng thật, người này đời hiện tại mắc bệnh đốm đồi mồi. Nếu có người khinh cười đấy, sẽ đời đời bị nanh răng thưa thiếu, môi xấu, mũi tẹt, tay chân cong quẹo, chột ngươi, mắt lé, thân thể hôi nhơ, ghẻ lở máu mủ, bụng to, hơi ngắn, các bệnh dữ nặng”.
“Vì thế Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này, nên đứng dậy xa đón, phải kính như kính Phật”.
“Khi Phật nói phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát này, có hằng hà sa đẳng, vô lượng vô biên Bồ tát, được trăm ngàn vạn ức Toàn Đà-la-ni, chư Bồ tát của tam thiên đại thiên thế giới vi trần, đầy đủ đạo Phổ Hiền”.
“Khi Phật nói kinh này, Phổ Hiền Bồ tát v.v. Xá Lợi Phất chư Thanh văn v.v. và chư Thiên, Long, nhân, phi nhân v.v. hết thảy đại hội, đều rất vui mừng, thọ trì lời Phật, làm lễ rồi lui”.
Nơi thuyết pháp của Kinh Pháp Hoa, từ phẩm Tựa, bắt đầu có sự chất vấn của Di Lặc Bồ tát, giải đáp của Văn Thù Bồ tát. Cuối cùng phẩm Khuyến phát này nói về hạnh của Phổ Hiền Bồ tát. Ngài Di Lặc, biểu thị Bồ tát của từ bi; Văn Thù Bồ tát của trí tuệ; Phổ Hiền Bồ tát của lý. Kinh Pháp Hoa xuất phát từ tâm từ bi, cầu trí tuệ để thể đắc được lý của chư pháp thật tướng. Đó là biểu thị hạnh phúc tối cao cho nhân gian vậy.
Hết