• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Dấn thân
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 39
  • Sau

Chương 8

“Tôi có thể xin hoàn lại năm bảng chi phí tham dự một bài giảng nghệ thuật ở bảo tàng Fitzmolean không?”

“Có liên quan trực tiếp với một vụ án mà cậu đang điều tra không?” Walters hỏi.

“Có và không.”

“Có hay không thì nói nhanh đi.”

“Có, nó có liên hệ với vụ án mà tôi đang điều tra, nhưng tôi phải thú nhận là dù thế nào tôi cũng vẫn đi.”

“Vậy thì câu trả lời là không. Còn gì khác không?”

“Chị có thể kiếm cho tôi một vé đến buổi mở màn bộ phim James Bond mới được không?” William chờ bà ta nổi xung.

“Nó có liên quan trực tiếp với tội ác cậu đang điều tra không?”

“Có.”

“Cậu muốn ngồi ở dãy nào?”

“Chị đang đùa à?”

“Tôi không nói đùa, thanh tra cảnh sát ạ. Dãy nào?”

“Dãy đằng sau Miles Faulkner. Ông ta là…”

“Tất cả chúng tôi đều biết Miles Faulkner là ai. Tôi sẽ xem mình làm được gì.”

“Nhưng làm thế nào…”

“Đừng hỏi. Và nếu cậu không còn yêu cầu nào khác thì đi tiếp đi.”

William đến Bảo tàng Fitzmolean sớm mấy phút. Anh dừng lại trên vỉa hè phía Chái nhà Hoàng tử Albert để chiêm ngưỡng dinh thự Palladis đang nằm nép sau lưng trường Cao đẳng Hoàng gia. Anh biết rõ ràng rằng kể từ vụ trộm bức tranh của Rembrandt, hiện nay chỉ năm mươi người được phép thăm phòng trưng bày mỗi lần vì những lí do an ninh. Anh đã kiếm được tấm vé số bốn mươi bảy cho buổi thuyết trình tối hôm đó. Muộn nửa tiếng thôi là hết vé luôn rồi.

Anh trưng tấm vé ra cho người bảo vệ mặc đồng phục đứng ở cửa và được chỉ lên tầng hai, nơi anh gia nhập cùng một nhóm nhỏ những người hâm mộ nhiệt thành đang tán gẫu với nhau, sốt ruột chờ đợi Tiến sĩ Knox, một nhân vật quyền lực hàng đầu đất nước về những tác phẩm thuộc giai đoạn Phục hưng, tiến vào.

William trông ngóng bài thuyết trình, và hi vọng rằng vị giám đốc thậm chí còn có một giả thuyết về việc đã xảy ra với bức Rembrandt bị mất tích.

Lúc bảy giờ kém một phút, một người phụ nữ trẻ len lên đằng trước nhóm đó và vỗ tay vài lần rồi nói, “Chúc buổi tối tốt lành, quý ông và quý bà. Tên tôi là Beth Rainsford, và tôi là một trong các trợ lí nghiên cứu của phòng trưng bày.” Cô ta chờ khách thăm quan im lặng hoàn toàn rồi mới nói tiếp. “Tôi rất tiếc phải thông báo với quý vị rằng Tiến sĩ Knox đang bị viêm thanh quản cấp tính và gần như không nói nổi. Ông ấy gửi lời xin lỗi tới quý vị.”

Một tiếng rền rĩ lớn bật ra, và một hai người khách bắt đầu đi ra cửa.

“Tuy nhiên, giám đốc tự tin rằng ông ấy sẽ hoàn toàn hồi phục trong vài ngày tới, nếu quý vị có thể trở lại vào tối thứ Năm, ông sẽ trình bày bài giảng của mình vào hôm đó. Với những người không thể quay lại tuần tới, vé vào cửa sẽ được hoàn lại. Những ai muốn ở lại, tôi rất vui lòng dẫn quý vị đi thăm quan bộ sưu tập. Nhưng đừng lo,” cô nói thêm, “tiền vé của quý vị vẫn sẽ được hoàn lại kể cả nếu các vị ở lại thăm quan.” Câu này làm vài người bật cười.

Đám đông bắt đầu với năm mươi người giờ nhanh chóng rút lại chỉ còn hơn chục người, trong đó có William. Nhưng anh đã không thể rời mắt khỏi người thay thế cho vị giám đốc. Mái tóc nâu đỏ được cắt gọn gàng ôm lấy khuôn mặt hình trái xoan, một khuôn mặt không cần nhờ đến lớp trang điểm cũng khiến người ta phải ngoái nhìn lại. Nhưng không chỉ có thế, hay chỉ vì dáng người thon thả của cô, mà anh mới thấy cô hấp dẫn. Chính nhiệt huyết dễ lan tỏa xung quanh mình khi cô nói về những người đàn ông Hà Lan trong bộ quần ống túm và những chiếc cổ áo diềm xếp nếp mới đáng chú ý. William liếc nhìn bàn tay trái lúc cô chỉ vào bức tranh đầu tiên, hân hoan khi thấy không có chiếc nhẫn nào trên ngón tay đó. Nhưng kể cả thế, anh nghĩ, ảo mộng này chắc chắn đã có một người bạn trai. Nhưng làm thế nào để anh biết được nhỉ?

“Bảo tàng Fitzmolean,” Beth đang nói, cặp mắt nâu sâu thẳm của cô sáng lấp lánh, “là đứa con tinh thần của Phu nhân van Hassen, vợ của nhà kinh tế học lỗi lạc Jacob van Haasen. Một người phụ nữ xuất chúng, sau cái chết của chồng bà đã gây dựng một bộ sưu tập các hoạ sĩ người Hà Lan và Bỉ được cho rằng chỉ đứng thứ hai sau viện bảo tàng Rijks và Hermitage1. Trong di chúc của mình, bà đã trao tặng lại toàn bộ bộ sưu tập cho nhà nước để tưởng nhớ chồng bà, để chúng được trưng bày trong ngôi nhà mà họ đã cùng chung sống suốt bốn mươi ba năm.” Beth quay lại và dẫn nhóm nhỏ khán giả của mình vào phòng trưng bày tiếp theo. Cô dừng lại trước bức tranh chân dung một chàng trai trẻ.

1 Viện bảo tàng văn hoá và nghệ thuật lớn nhất thế giới nằm ở Nga.

“Frans Hals,” cô nói tiếp, “được sinh ra ở Antwerp quãng năm 1582. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là bức Laughing Cavalier (Kỵ sĩ vui vẻ), như quý vị có thể thấy trong bộ sưu tập Wallace.”

William cố tập trung vào Hals, nhưng anh quyết định thứ Năm tới mình sẽ quay lại, chắc chắn Tiến sĩ Knox sẽ không thể làm anh bị phân tâm đến thế. Anh tiếp tục đi theo Beth cho đến khi cô dừng trước một khung tranh mạ vàng lớn đang bị bỏ trống, với cái tên huyền thoại “Rembrandt, 1606-1669” in trên một tấm biển nhỏ gắn bên dưới.

“Đây,” cô nói một cách gay gắt, “là nơi kiệt tác The Syndics of the Clothmakers’ Guild1 của Rembrandt từng được treo, trước khi nó bị đánh cắp bảy năm về trước. Tiếc thay, chưa ai tìm lại được nó.”

1 Tạm dịch: Những vị quan của Hội thợ dệt thảm

“Phòng trưng bày có trao thưởng cho ai tìm lại được nó không?” Một giọng nghe như người Boston vọng lên.

“Không. Không may là Phu nhân van Haasen chưa bao giờ nghĩ đến chuyện có ai lại đi ăn trộm những kiệt tác của bà ấy, có lẽ vì bà ấy chỉ phải trả có sáu ngàn đô la cho bức tranh này vào thời ấy.”

“Ngày nay nó đáng giá bao nhiêu ạ?” Một giọng trẻ hơn hỏi.

“Bức tranh là vô giá,” Beth nói, “và không thể thay thế được. Những người lãng mạn tin rằng nó vẫn còn ở đâu đó ngoài kia, và rằng các Vị quan một ngày nào đó sẽ được trở về đúng ngôi nhà của họ.”

Một tràng pháo tay nối tiếp câu nhận xét trước khi Beth lại nói. “Rembrandt là một người đàn ông tham vọng, và đã có lúc là hoạ sĩ được săn đón nhất trong thời đại Hoàng kim Hà Lan. Đáng buồn vì ông đã chi tiêu quá mức cho phép, và rốt cuộc đã phải bán đấu giá gần hết tài sản, bao gồm cả một số bức tranh sơn dầu nổi tiếng, để thanh toán nợ nần. Ông chỉ vừa vặn tránh được cảnh phá sản và kết thúc cuộc đời trong tù ngục. Sau khi qua đời năm 1669, ông đã được chôn ở một nấm mồ của hội cứu tế, và các tác phẩm của ông không còn được mến chuộng trong hơn một thế kỉ. Nhưng Phu nhân van Haasen không nghi ngờ gì về tài năng của ông, và đã làm rất nhiều việc để khôi phục danh tiếng của ông như một hoạ sĩ Hà Lan vĩ đại nhất. Những người am hiểu sẽ tới đây từ khắp nơi trên thế giới để chiêm ngưỡng bức The Syndics, vốn được coi là một trong những kiệt tác của ông, và Phu nhân van Haasen chưa bao giờ che giấu đây chính là bức tranh bà yêu thích nhất trong cả bộ sưu tập.”

Beth và đoàn tuỳ tùng nhỏ của cô chuyển tới bức tranh tiếp theo, cô tiếp tục trả lời mọi câu hỏi của họ vượt quá một tiếng đã định ban đầu rất lâu. Cuối cùng cô cũng kết thúc với bức the Marriage at Cana1 của Jan Steen, mô tả ông là “người kể chuyện của các hoạ sĩ.”

1 (tạm dịch: Đám cưới ở Cana)

“Còn câu hỏi nào khác không ạ?” cô hỏi.

William quyết định không hỏi câu của mình cho đến khi những người còn lại trong nhóm đã rời đi. “Một buổi diễn thuyết tuyệt vời,” anh nói.

“Cảm ơn anh,” Beth đáp lại. “Anh có câu hỏi nào không?”

“Có. Tối nay cô có rảnh không?”

Cô không đáp lại ngay mà mất một lúc mới nói, “Tôi e là không. Tôi đã có hẹn rồi.”

William cười. “Chà, thật là một buổi tối đáng nhớ. Cảm ơn cô, Beth.”

Khi quay bước rời đi anh nghe một giọng sau lưng mình nói, “Nhưng tối mai thì tôi rảnh.”

Khi William đến văn phòng sáng hôm sau, anh trông thấy một tờ giấy nhớ gắn lên đầu tập tài liệu của mình.

KHẨN – Gọi Liz, 017533000.

“Có chuyện gì thế này?” anh hỏi Jackie.

“Tôi chỉ biết là ông Hawk bảo có chuyện khẩn. Cậu phải ghi lại chính xác những gì Liz nói và gửi ông ấy một bản báo cáo bằng giấy.”

“Được rồi,” William nói trong lúc bấm số điện thoại. Một lát sau giọng người phụ nữ vang lên trong máy.

“Tôi giúp gì được cho anh?”

“Tôi là Thanh tra cảnh sát Warwick gọi từ Scotland Yard. Tôi đang gọi lại cho cô Liz.”

“Anh có biết họ của cô Liz không, hay cô ấy làm ở phòng ban nào?”

“Không, chỉ biết là tôi phải nói chuyện với cô ấy khẩn cấp. Cô ấy đang chờ cuộc gọi của tôi.”

“Đây là tổng đài Cung điện Buckingham, thưa anh. Chúng tôi chỉ có một Liz, và tôi không nghĩ bà có thời gian vào lúc này.”

William đỏ bừng mặt. “Tôi xin lỗi,” anh nói. “Chắc hẳn tôi đã lấy nhầm số.” Ngay lúc anh gác máy, Jackie và thanh tra Lamont cười ngặt ngoẽo.

“Tôi chắc chắn bà ấy sẽ gọi lại,” Jackie nói.

“Mà nhân tiện,” Lamont bảo, “Hawk đã nhận được một cuộc gọi từ Đại sứ quán Mỹ cảm ơn chúng ta vì đã trả lại bụi mặt trăng. Làm tốt lắm, chàng trai, giờ có lẽ là lúc cậu nên sắp xếp vụ Winston Churchill.”

William mở hồ sơ đề “Churchill” và cố tập trung, nhưng anh không thể gạt tối hôm trước ra khỏi đầu. Anh không thể nhớ được lần cuối cùng mà một cô gái lại chiếm cứ tâm trí anh nhiều đến thế là từ khi nào. Tối nay chắc chắn anh sẽ rời khỏi cơ quan trước bảy giờ, kể cả nếu đèn vẫn còn sáng dưới khe cửa của ngài chỉ huy.

Anh tập trung suy nghĩ trong lúc đọc về âm mưu tinh vi mà một kẻ lừa đảo quỷ quyệt đã nghĩ ra để kiếm thu nhập cho mình. Đến lúc đọc tới trang cuối cùng, William nhận ra mình sẽ phải ghé thăm vài cửa hàng sách ở Mé Tây nếu anh muốn bắt quả tang hắn. Anh báo trước cho chánh thanh tra Lamont, người còn đang mải theo đuổi một vụ săn lùng tên trộm nữ trang quốc tế, rằng anh sắp lao vào một màn đánh đấm kiểu cũ và có thể sẽ không quay lại cho đến khi vụ việc kết thúc.

William quyết định sẽ bắt đầu ở Hatchards trên Piccadilly, nơi mà người quản lý – anh xem lại cái tên một lần nữa – Peter Giddy đã khiếu nại.

Anh rời Scotland Yard và hướng đến khu Trung tâm mua sắm – trong lúc đi ngang Điện Buckingham anh không thể không cảm thấy chưng hửng vì đã tìm cách gọi cho Liz – rồi đi tiếp qua nhà thờ Thánh James tới Piccadilly, anh bước qua một ngưỡng cửa nằm dưới tấm biển trưng bày ba giấy chứng nhận hoàng gia đầy hãnh diện. William hỏi một người phụ nữ ở quầy lễ tân liệu anh có thể gặp ông Giddy được không.

Sau khi kiểm tra thẻ công vụ của William, viên quản lí dẫn anh lên văn phòng ông ta ở tầng bốn và mời anh cà phê.

“Điều gì làm ông nghi ngờ ngay từ đầu?” William hỏi khi anh ngồi xuống và mở cuốn sổ tay.

“Lúc đầu tôi đâu có nghi ngờ gì,” Giddy thú nhận. “Churchill là một chính trị gia, nên ông ta sẽ kí rất nhiều sách của mình. Tuy nhiên, gặp được một bộ Thế chiến thứ hai đủ sáu cuốn đều được ông ấy kí hết thì đúng là rất hiếm. Nhưng khi tôi bắt gặp một bộ ở Heywood Hill, rồi chỉ một tuần sau đấy lại gặp một bộ ở Maggs thì tôi bắt đầu thấy nghi nghi.”

“Ông có nhớ được điều gì đặc biệt ở người đàn ông đã đề nghị bán bộ sách không?” William hỏi.

“Khá bình thường. Khoảng sáu mươi, sáu lăm, tóc bạc, hơi khòng, chiều cao trung bình còn giọng địa phương thì đặc đến mức cắt bằng dao cũng được. Chỉ là một khách hàng điển hình của Hatchards.”

William mỉm cười. “Tôi đoán ông ta cũng không nói tên cho ông biết.”

“Không. Ông ta bảo rằng không muốn bọn trẻ phát hiện ra mình đang bán một kỉ vật của gia đình.”

“Nhưng ông sẽ phải viết séc chứ?”

“Bình thường là vậy, nhưng ông ta khăng khăng đòi tiền mặt. Ông ta xuất hiện vài phút trước khi chúng tôi đóng cửa, rõ là biết rằng khi ấy hộp tiền sẽ đầy.”

“Một bộ sách không có chữ kí thì giá bao nhiêu?”

“Một trăm bảng nếu chúng vẫn còn bìa áo gốc chống bụi.”

“Còn một bộ có chữ kí?”

“Ba trăm, có thể là ba trăm rưởi nếu chúng còn trong tình trạng tốt.”

“Tôi có thể hỏi ông đã trả bao nhiêu để mua bộ sách không?”

“Hai trăm năm mươi bảng.”

“Vậy là ông già của chúng ta có thể đã nhặt được một bộ không có chữ kí đâu đó khoảng một trăm bảng, thêm vào sáu chữ kí và thu lợi nhuận một trăm năm mươi. Cũng không hẳn là kiểu ăn cướp trắng trợn lắm nhỉ,” William nói.

“Tôi đồng ý,” Giddy nói, rõ ràng là không thấy buồn cười. “Nhưng nếu một trong các khách hàng của chúng tôi phát hiện ra chúng tôi bán đồ giả, và cánh báo chí nghe ngóng được, thì chúng tôi có thể mất Chứng nhận Hoàng gia của mình.”

William gật đầu. “Ông có nghĩ ông ta sẽ quay lại không?”

“Không đời nào. Ông ta sẽ không mạo hiểm diễn một trò hai lần ở cùng một hiệu sách đâu. Và nói thật, ngoài kia có đầy hiệu sách để ông ta kiếm tiền sống mấy năm đấy.”

“Ông nghĩ tôi nên bắt đầu từ đâu?”

“Tôi có thể cho anh một danh sách các hiệu sách chuyên bán những ấn bản đầu tiên có chữ kí,” Giddy nói, mở ngăn kéo bàn mình và đưa ra một tập giấy mỏng.

“Cảm ơn ông,” William nói trong lúc lật giở các trang.

“Đừng lo, có ít nhất một tá cửa hàng trong bán kính hai cây số quanh đây,” viên quản lí nói khi ông ta đi cùng William ra cầu thang máy.

Thanh tra cảnh sát Warwick dành phần còn lại trong ngày hôm đó chạy từ cửa hàng sách này sang cửa hàng khác, và nhanh chóng phát hiện ra kẻ làm giả sách Churchill này là một kẻ siêng năng. Khi không mua thì ông ta lại bán. Loại hình kinh doanh hộ gia đình mà chính phủ đã rất nhiệt tình khuyến khích.

Tất cả các quản lí cửa hàng đều hứa sẽ cho anh biết nếu một người đàn ông khớp với mô tả đề nghị họ mua lại một bộ Thế chiến thứ hai có chữ kí của Churchill, nhưng họ cũng đều đồng tình với Giddy rằng nhiều khả năng ông ta sẽ không xuất hiện hai lần ở cùng một cửa hàng sách.

“Nếu ông ta xuất hiện thật, làm ơn gọi cho tôi ở Scotland Yard, 2301212. Số máy lẻ 2150,” William nói trước khi đi đến cửa hàng tiếp theo.

William không dừng cuộc truy hỏi cho đến khi cánh cửa cuối cùng đóng lại sau lưng anh lúc sáu giờ. Anh bắt tàu điện ngầm đến Victoria, rồi đi bộ hết quãng đường quay về Tranchard House. Anh tắm nhanh và thay quần áo, mất thời gian hơn hẳn bình thường để quyết định xem phải mặc gì. Cuối cùng anh chọn một chiếc áo khoác màu xanh dương, áo sơ mi trắng mở cổ và quần màu xám, nhưng không đeo cà vạt kiểu cũ nữa.

Khi anh đóng cánh cửa lại sau lưng, anh phát hiện mình sẽ phải gọi taxi nếu không muốn đến muộn; một khoản chi phí mà Walters sẽ không duyệt. Chiếc taxi thả anh bên ngoài nhà hàng Elena 1 ở đường Fullham, vẫn còn bảy phút nữa.

“Đây là lần hẹn hò rất đặc biệt với tôi, Gino,” William nói sau khi trưởng nhóm bồi bàn tự giới thiệu. “Thực ra là lần đầu. Nên tôi có thể cần ông giúp.”

“Cứ để đó cho tôi, anh Warwick. Tôi sẽ đưa anh vào một góc yên tĩnh.”

“Ôi, giúp tôi với, cô ấy đến rồi,” William thì thầm.

“A, signorina,” Gino nói, khẽ cúi đầu khi cầm tay cô. “Anh Warwick đã đến và đang ngồi ở bàn thường lệ của anh ấy.”

William bật dậy, cố không nhìn chằm chằm. Cô đang mặc một chiếc váy vàng hở vai đơn giản dài vừa đến đầu gối, quàng chiếc khăn lụa màu xanh nhạt và đeo một sợi dây chuyền ngọc bích để tôn thêm cho bộ váy.

Gino kéo ghế ra cho cô, trong lúc William chờ Beth ngồi xuống.

“Đây chắc hẳn là một trong những chốn anh thường ghé qua,” Beth nói khi cô đã yên vị trong ghế của mình.

“Không, lần đầu tiên đấy. Một người bạn đã giới thiệu nó cho tôi.”

“Nhưng người bồi bàn nói…”

“Tôi mới gặp ông ấy năm phút trước,” William thú nhận khi Gino lại bước ra và đưa cả hai xem thực đơn. Beth cười.

“Nào, anh Warwick, anh có muốn uống món thường lệ không?”

“Món đồ uống thường lệ của tôi là gì nhỉ?” William hỏi. Gino có vẻ bối rối cho đến khi William nói thêm, “Beth đã biết là tôi chưa từng đến đây. Ông gợi ý gì nhỉ?”

“Dành cho một signorina xinh đẹp thế này…”

“Gino, đừng làm quá nào.”

“Vậy là anh không nghĩ cô ấy xinh đẹp ư?”

“Có, nhưng tôi không muốn cô ấy bỏ chạy trước khi chúng tôi kịp ăn món đầu tiên.”

Beth ngước lên. “Đừng lo, tôi không bỏ chạy đâu. Ít nhất phải sau món thứ hai cơ.”

“Vậy tôi có thể lấy cho cô đồ uống gì, signorina?”

“Một ly vang trắng nhé.”

“Chúng tôi sẽ gọi một chai Frascati,” William nói, nhớ lại loại rượu cha mình thường gọi, mặc dù anh không biết nó có giá bao nhiêu.

Sau khi Gino đã nhận món của cả hai, Beth hỏi anh, “William hay là Bill nhỉ?”

“William.”

“Anh làm việc trong giới nghệ thuật hay là người yêu thích phòng trưng bày vậy?”

“Cả hai. Tôi đã yêu thích các phòng trưng bày từ khi còn nhỏ, nhưng giờ thì tôi làm việc trong đơn vị Nghệ thuật và Cổ vật của Scotland Yard.”

Beth có vẻ ngập ngừng một lát, rồi cô nói, “Vậy là anh ghé thăm Fitzmolean chỉ thuần tuý là vì công việc.”

“Đúng là vậy cho đến khi tôi trông thấy em.”

“Anh còn tệ hơn cả Gino.”

“Còn em?” William hỏi.

“Không, tôi không tệ hơn cả Gino đâu.”

“Không, ý tôi không phải…” William mở lời, cay đắng nhận ra đã bao lâu mình không hẹn hò.

“Tôi hiểu ý anh là gì,” Beth trêu. “Tôi học lịch sử nghệ thuật ở Durham.”

“Tôi đã biết là mình đi học nhầm trường đại học mà.”

“Vậy anh đã học ở đâu?” Cô hỏi khi Gino xuất hiện trở lại cùng hai bát phô mai stracciatella nóng hổi.

“Trường King. Cũng là lịch sử nghệ thuật. Còn sau Durham?”

“Tôi đã tới Cambridge và làm luận án tiến sĩ về nhà ngoại giao Rubens.”

“Suýt nữa thì tôi làm luận án về tên tội phạm Caravaggio.”

“Điều đó giải thích tại sao anh lại gia nhập lực lượng cảnh sát.”

“Và em đã đi thẳng tới Fitzmolean sau đó à?”

“Vâng, đó là công việc đầu tiên của tôi sau khi rời Cambridge. Và chắc đã quá rõ rằng tối qua là buổi thuyết trình đầu tiên của tôi.”

“Em đã rất tuyệt vời.”

“Chỉ vừa đủ thôi, anh sẽ thấy rõ điều đó nếu tuần sau tham dự bài giảng của Tim Knox.”

“Tôi không thể tưởng tượng được cảm giác sẽ như thế nào khi phải thế chỗ sếp mình vào phút chót như thế.”

“Rất đáng sợ. Nên, tôi có thể hỏi liệu các anh đã tiến thêm được chút nào trong việc tìm bức Rembrandt bị mất của tôi chưa?”

“Rembrandt của em ấy à?”

“Vâng. Vì tất cả mọi người làm việc cho Fitzmolean đều ít nhiều có tính sở hữu với bức The Syndics.”

“Tôi có thể hiểu tại sao. Nhưng sau bảy năm, tôi e là dấu vết đã nguội lạnh hết.”

“Chắc không thể có chuyện anh vẫn đang điều tra vụ đó suốt bảy năm qua chứ?”

“Mới chưa được bảy tuần,” William thừa nhận. “Nhưng tôi tin chắc bức Rembrandt sẽ quay về vị trí của nó trước cuối tháng sau.”

Beth đã không cười. “Tôi vẫn muốn tin rằng nó còn ở đâu đó ngoài kia và cuối cùng sẽ được trả lại cho phòng trưng bày.”

“Tôi cũng muốn đồng tình với em,” William nói, khi Gino tới thu hai cái bát trống của họ. “Nhưng trong phòng không ai đồng ý với tôi cả.”

“Họ nghĩ là nó đã bị huỷ rồi sao?” Beth hỏi. “Tôi thực sự không thể tin lại có người vô văn hoá đến mức đó.”

“Kể cả làm thế để tránh phải ngồi tù bảy năm ư?”

“Nói thế nghĩa là anh biết kẻ đã ăn cắp nó?”

William không trả lời và nhẹ cả người khi Gino xuất hiện cùng hai món chính.

“Tôi xin lỗi,” Beth nói. “Đáng lẽ tôi không được hỏi. Nhưng nếu có việc gì tôi có thể giúp được, xin hãy nói cho tôi biết.”

“Có việc này tôi nghĩ em có thể cho tôi lời khuyên đó. Gần đây chúng tôi đã bắt gặp một bức tranh nhái như thật của The Syndics và tôi tự hỏi liệu em có biết ai chuyên làm loại công việc ấy hay không?”

“Trong lĩnh vực của tôi thì không,” Beth thừa nhận. “Tôi chỉ làm việc với những hoạ sĩ đã chết, mà lại phải là người Hà Lan hay Bỉ kia. Nhưng tôi đoán anh đã ghé thăm Phòng trưng bày tranh nhái ở Notting Hill?”

“Chưa bao giờ nghe nói,” William nói trong lúc lục túi áo khoác để tìm một cuốn sổ, nhất thời quên mất mình đang không làm nhiệm vụ.

“Họ có thuê một số hoạ sĩ có thể vẽ nhái tranh của bất kì bậc thầy nào mà anh yêu cầu, dù còn sống hay đã chết.”

“Việc đó là hợp pháp sao?”

“Tôi không biết. Đó là chuyên ngành của anh mà,” Beth nói với một nụ cười tinh nghịch. “Nhưng nếu anh không phải đang dành tất cả thời gian của mình để tìm bức Rembrandt của tôi, chắc hẳn anh đang cố giải quyết các tội ác ghê gớm hơn.”

“Vụ trộm một chiếc lọ đựng bụi mặt trăng, và vài bộ sách Thế chiến thứ hai có chữ kí của Winston Churchill.”

“Anh có được phép kể cho tôi nghe nhiều hơn không?”

Beth không thể ngưng cười khi William kể với cô về Tiến sĩ Talbot và ông phó bí thư của Mỹ. Thậm chí cô còn nêu một gợi ý khi anh nhắc tới các bản sách có chữ kí Winston Churchill giả.

“Có khi anh nên đi tìm một bản không có chữ kí, để nhanh hơn kẻ làm giả một bước.”

“Ý hay,” William nói và quyết định sẽ không nói cho cô biết đó chính xác là việc anh đã làm suốt cả ngày hôm đó. “Có lẽ chúng ta nên gặp gỡ thường xuyên, vì em nên làm thanh tra mới đúng.”

“Còn anh thì nên thuyết trình ở Fitzmolean.”

Cả hai cùng bật cười.

“Những buổi hẹn hò đầu tiên mới lúng túng làm sao,” William nói.

“Hôm nay là buổi hẹn đầu tiên ư?” Beth hỏi, dành cho anh một nụ cười ấm áp.

“Tôi hi vọng là vậy.”

“Cà phê chứ?” Gino hỏi.

William đã không để ý giờ giấc cho đến khi Beth thì thầm, “Tôi nghĩ nhân viên muốn chúng ta về rồi.”

Anh nhìn quanh thì thấy rằng họ là hai vị khách cuối cùng trong nhà hàng, và nhanh chóng gọi thanh toán.

“Em có sống gần đây không?” anh hỏi.

“Ở Fullham. Tôi ở cùng với một người bạn. Nhưng đừng lo. Tôi có thể bắt xe buýt từ đây.”

“Anh không còn đủ tiền mua vé xe buýt nữa,” William nói khi nhìn vào hoá đơn. “Nên anh có thể đi bộ cùng em về nhà được không?”

“Hi vọng chúng tôi sẽ sớm gặp lại cô, signorina,” Gino nói khi mở cửa cho cả hai.

“Tôi còn chưa quyết định mà,” Beth nói và đáp lại nụ cười của ông ta.

William nắm tay cô khi họ băng qua đường, và họ không ngừng tán gẫu về những điều bâng quơ, về tất cả mọi chuyện, cho đến khi tới trước cửa nhà Beth, anh cúi xuống và hôn lên má cô. Khi cô tra chìa khoá vào ổ, anh hỏi, “Em có muốn tới Phòng trưng bày tranh giả với anh không?”

“Anh có bao giờ hết giờ làm không, thanh tra cảnh sát Warwick?” Cô hỏi.

“Không trong khi vẫn còn một cơ hội để tìm được bức Rembrandt của em, quý cô Rainsford ạ.”