“Cô nối máy cho tôi tới ông Chuck Underwood được không?”
“Ai đang gọi đấy ạ?”
“Thanh tra cảnh sát William Warwick, thuộc Scotland Yard.”
“Tôi sẽ xem ngài phó bí thư có rảnh không.”
William đã phải chờ lâu đến mức anh tưởng người ta cúp máy luôn rồi. Cuối cùng một giọng nói vang lên trong máy.
“Warwick phải không?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Thanh tra Roycroft đâu rồi?”
“Tôi đã được bàn giao vụ này, thưa ngài.”
“Có chức vụ nào thấp hơn một thanh tra cảnh sát nữa không?”
“Chỉ có cảnh sát tập sự thôi, thưa ngài, và tôi đã từng là một trong số đó cách đây không lâu.”
“Và cậu sẽ lại quay về đó nếu tôi không lấy lại được chỗ bụi mặt trăng của tôi.”
“Tôi đang làm việc đó đây, thưa ngài, nhưng tôi cần hỏi ngài vài câu.”
“Lại nữa à!”
“Có phải Chính phủ Hoa Kỳ lúc đầu đã trao chiếc lọ đựng bụi mặt trăng ấy làm quà cho Giáo sư Francis Denning thuộc trường Đại học Manchester không?”
“Phải, chúng tôi đã làm thế. Nhưng có kèm theo điều kiện. Chúng tôi đã nói rõ rằng không được trao cái lọ ấy cho bất cứ một ai khác, và không được phép bán cho một bên thứ ba trong bất cứ trường hợp nào.”
“Và khi đó điều kiện ấy đã được viết trên giấy trắng mực đen phải không thưa ngài?”
“Chắc chắn là có rồi, và chúng tôi có đủ các tài liệu để làm bằng chứng. Và giờ thì, như tôi chắc chắn là cậu đã biết rõ, một vị Tiến sĩ Keith Talbot nào đó đã đem cái lọ ấy đi bán đấu giá ở Sotheby.”
“Vâng, tôi biết rồi, thưa ngài. Tôi đang để cuốn danh mục ấy ngay trước mặt mình đây.”
“Vậy thì cậu sẽ thấy ở trang ba mươi mốt, mục thứ mười chín, một lọ bụi mặt trăng, hiếm có, được mang về từ nhiệm vụ Apollo 11 do Neil Armstrong thực hiện.”
“Tuy nhiên,” William nói, “Giáo sư Denning quá cố đã để lại nó cho Tiến sĩ Talbot trong di chúc của ông ấy.”
“Ông ta không sở hữu nó nên không có quyền di chúc, thanh tra cảnh sát Warwick, như tôi đã nói rõ với thanh tra Roycroft.”
“Quả là ngài đã nói, thưa ngài. Nhưng tôi chắc chắn ngài hiểu rằng chúng tôi phải bám sát từng câu chữ theo luật.”
“Có vẻ là với tốc độ rùa bò, bất chấp thực tế rằng chúng tôi đã để các anh tùy ý sử dụng đội pháp lý.”
“Thật tốt khi được biết thế, thưa ngài, vì chúng ta sẽ không muốn làm bất kì điều gì gây tổn hại đến mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước chúng ta, đúng không ạ?”
“Bỏ cái lối móc mỉa đó đi, Warwick, và mang chỗ bụi mặt trăng ấy về đây.”
Ông ta cúp máy. William xoay tròn trên ghế để nhìn Jackie cười toe toét với anh.
“Rồi ông ta sẽ nhẹ nhàng hơn với cậu,” cô nói, “nhưng Underwood là một trong những gã người Mỹ vẫn coi Anh quốc chỉ là một tiểu bang nhỏ của họ. Chẳng mấy chốc ông ta sẽ nhắc cậu nhớ rằng Texas lớn gần gấp ba lần Vương quốc Anh. Nên nếu cậu muốn tránh khúc mắc về ngoại giao thì tôi khuyên cậu nên nhanh nhanh đòi lại chỗ bụi mặt trăng cho ông ta đi.”
“Tôi nghe rồi,” William nói. “Nhưng điều quan trọng không kém là làm thế nào tôi kiếm được vé tàu đi Manchester?”
“Cậu báo với Mavis ở phòng Công tác tại tầng một. Nhưng tôi cảnh báo cậu, nếu cậu nghĩ ông Underwood đã là cứng rắn, thì so với Mavis ông ta vẫn còn hiền chán. Nếu để mặc chị ta quyết định thì đến Nữ hoàng cũng chỉ nên đi vé hạng hai, còn lũ như chúng ta thì phải xúc than trong thùng máy động cơ mới được đi ấy.”
“Cảm ơn vì đã cảnh báo.”
“Mavis…”
“Với cậu thì là bà Walters, chàng trai trẻ ạ. Chừng nào lên chánh thanh tra đi thì mới được gọi tôi là Mavis. Gọi lại đi.”
“Tôi xin lỗi,” William nói. “Bà Walters, tôi cần…”
“Tên, cấp bậc, phòng ban?”
“Warwick, thanh tra, Nghệ thuật và Cổ vật.”
“Vậy cậu muốn gì?”
“Trở thành cảnh sát trưởng.”
“Nói lại đi,” bà Walters nói, nhưng ít nhất cũng nở một nụ cười.
“Một vé tàu khứ hồi tới Manchester.”
“Mục đích chuyến đi của cậu là gì, và cậu sẽ ở Manchester bao lâu?”
“Tôi sẽ đến thăm trường đại học ở đó, và hi vọng là có thể đi về trong ngày.”
“Vậy thì cậu sẽ phải bắt chuyến 7 giờ 42 từ ga Euston, và chuyến tàu quay về cuối cùng trong ngày là 10 giờ 43. Lỡ tàu là cậu sẽ phải qua đêm trên ghế băng ở sân ga số mười hai. Cậu chỉ được chu cấp một bữa ăn giá không quá hai bảng tám mươi xu, khoản phí này cậu có thể đòi lại trong phiếu công tác 232, nhưng tôi sẽ cần hoá đơn.” Bà Walters bắt đầu viết bảo lãnh lấy vé cho chuyến tàu đến Manchester Piccadilly. “Nếu cậu định đến trường đại học, cậu sẽ phải bắt chuyến xe bus 147. Cậu cũng sẽ cần một cái ô đấy.”
“Ô á?”
“Rõ là cậu chưa đến Manchester bao giờ.”
“Chào buổi sáng, anh Warwick,” một cô gái trẻ gặp anh ở bàn lễ tân. “Tôi là Melanie Clore. Tôi giúp gì được anh?”
“Các cô có một cuộc đấu giá sắp diễn ra ngày mười bảy tháng Bảy…”
“Anh muốn chúng tôi rút lại món hàng số bao nhiêu?”
“Làm sao cô biết…”
“Cảnh sát không ghé nhà Sotheby để đăng bán món gì cả.”
William mỉm cười. “Số thứ tự mười chín. Một lọ đựng bụi mặt trăng được mang về từ nhiệm vụ Apollo 11 do Neil Armstrong thực hiện.”
Cô Clore kiểm tra danh mục. “Được một người có tên là Tiến sĩ Keith Talbot mang đến chỗ chúng tôi. Người này cũng đã đưa ra tờ di chúc để khẳng định rằng bụi mặt trăng đã được để lại cho ông ấy.”
“Đại sứ quán Mỹ tuyên bố chủ quyền với cái lọ đó và nói rằng sẽ kiện tất cả những ai có liên quan nếu các cô tiếp tục đấu giá.”
“Và chúng ta đều không mong muốn điều đó, đúng không anh Warwick?”
“Chẳng có gì đáng làm tôi lo lắng,” William nói, “nếu tôi đã nghĩ Tiến sĩ Talbot có luật pháp đứng bên.”
“Kể cả nếu thế đi nữa, cuộc chiến pháp lí này có thể kéo dài nhiều năm trời.”
“Sếp của tôi thì lại hi vọng tôi sẽ giải quyết việc này trong vài ngày.”
“Thế sao? Nếu Tiến sĩ Talbot sẵn sàng kí vào mẫu trả hàng tiêu chuẩn, chúng tôi sẽ rất vui lòng được giao trả chiếc lọ, và để anh đưa nó trả về cho người Mỹ. Hãy hi vọng rằng Tiến sĩ Talbot sẽ không phải là một ông Finlay Isles nào khác.”
“Tôi có thể hỏi ông Finlay Isles này là ai không?”
“Ông ta đã kiện chúng tôi năm 1949 vì một bức tranh trị giá một trăm bảng, và chúng tôi vẫn đang chờ các toà án quyết định người sở hữu hợp pháp của nó là ai.”
“Sao lại thành ra như vậy?” William hỏi.
“Đó là một bức của Turner mà giờ đã có trị giá hơn một triệu bảng.”
Trong lúc chiếc tàu lắc lư trên các mối nối đường ray trên đường tới Manchester vào buổi sáng hôm sau, William nghiên cứu hồ sơ về bụi mặt trăng một lần nữa, nhưng không tìm hiểu được thêm thông tin gì mới.
Anh để ý nghĩ của mình quay lại với bức tranh của Rembrandt bị mất tích và làm thế nào để tìm ra tên của hoạ sĩ đã làm ra bức tranh nhái. Anh tin rằng để tạo ra một bản sao thuyết phục đến thế, tay hoạ sĩ ấy chắc hẳn đã phải chép lại từ bản gốc. William vẫn còn thấy khó mà tin được rằng có người từng được giáo dục ở Slade lại có thể huỷ hoại một báu vật quốc gia, nhưng rồi anh nhớ lại những lời của Hawksby – “Hãy chờ đến lúc cậu gặp trực tiếp gã ta rồi hẵng kết luận câu đó.”
William đã đọc đi đọc lại hồ sơ về Faulkner từ đầu đến cuối, và mặc dù ông ta không xuất hiện chốn công cộng thường xuyên cho lắm, có một sự kiện ông ta không bao giờ bỏ lỡ là đêm chiếu mở màn của các bộ phim James Bond, và ông ta cũng là nhà sưu tập những ấn bản đầu tiên các cuốn sách của Ian Fleming. Gần đây William đã đọc một mẩu tin trên tờ Daily Mail về việc phim A View to Kill (Tầm nhìn chết chóc) sẽ được công chiếu ở rạp Odeon Leicester Square trong một tháng nữa. Nhưng làm thế nào anh kiếm được vé vào đây? Và kể cả nếu có kiếm được, anh không dám nghĩ đến việc bà Walters sẽ chấp nhận đó là một chi phí đúng mực.
Tâm trí anh quay về với Tiến sĩ Talbot. Một cuộc điện thoại đã cung cấp cho anh thông tin là vị giáo sư này sẽ có bài diễn thuyết ở giảng đường của khoa địa chất học lúc mười một giờ. William thắc mắc không biết Talbot là kiểu người như thế nào, anh thấy buồn cười khi nghĩ rằng đế chế Hoa Kỳ đang dồn ép một nhà địa chất học vô tội người vùng phía bắc nước Anh. Anh biết mình sẽ cảm thông với ai. Anh nhét lại tập hồ sơ vào trong cặp táp và nhặt tờ tạp chí RA mới nhất lên, nhưng sau khi giở vài trang anh đã quyết định phải đến chuyến về mới nên đọc nó.
Khi đoàn tàu tiến vào nhà ga Manchester Piccadilly lúc 10 giờ 49, William là một trong số những người đầu tiên giao lại vé ở cổng soát vé. Anh đi bộ qua một dãy taxi tới trạm xe buýt gần nhất và đứng vào xếp hàng. Vài phút sau anh bắt chuyến 147, rồi xuống xe bên ngoài cổng chính của trường đại học. Làm thế nào bà Walters lại biết được nhỉ? Anh mỉm cười khi trông thấy một nhóm sinh viên đang thong thả đi qua cổng vào trong sân trường với sự nhàn nhã mà anh đã quên béng mất kể từ lúc gia nhập Cảnh sát Đô thị. Anh hỏi một trong số họ đường tới khoa địa chất học và đến muộn mất vài phút, nhưng anh đâu có ở đó để dự bài thỉnh giảng. Anh leo cầu thang xuống tầng một, vào giảng đường từ cửa sau và tới ngồi cùng khoảng một tá sinh viên đang chăm chú lắng nghe Tiến sĩ Talbot.
Từ ghế ngồi của mình ở hàng sau, William quan sát vị giảng viên thật cẩn thận. Tiến sĩ Talbot không cao quá một mét rưỡi là bao, với bộ tóc đen xoăn tít trông như thể không được chải hay gội thường xuyên. Ông ta mặc chiếc áo khoác nhung kẻ, áo sơ-mi ca-rô và cà vạt dây. Chiếc áo choàng dài màu đen của ông phủ đầy bụi phấn. Ông nói bằng giọng rõ ràng, uy quyền, chỉ thi thoảng liếc mắt xuống ghi chú của mình.
William quá mải mê với phần trình bày về việc làm thế nào mà khám phá ra một mẫu hoá thạch chưa từng biết đến trước đây vào hồi đầu những năm bảy mươi lại có thể loại bỏ giả thuyết độc loài, đến mức anh cảm thấy thất vọng khi có tiếng chuông reo lúc mười hai giờ, tức là bài giảng đã kết thúc. Anh chờ đến khi tất cả các sinh viên ra về hết và Tiến sĩ Talbot đang thu thập lại các ghi chú của mình rồi mới bình tĩnh bước xuống lối đi giữa để đối mặt với ông trùm tội phạm này.
Talbot ngước lên và nhìn William qua cặp kính Bộ Y tế của ông.
“Tôi có biết cậu không nhỉ?” ông hỏi. William giơ thẻ công vụ của mình, và Talbot tóm lấy gờ chiếc bàn gỗ dài trước mặt. “Nhưng tôi tưởng là mình đã trả vé phạt đỗ xe rồi.”
“Tôi chắc ông đã trả rồi, thưa ông. Nhưng tôi vẫn cần phải hỏi ông vài câu.”
“Tất nhiên rồi,” Talbot nói, lúng túng với chiếc áo choàng.
“Tôi có thể bắt đầu bằng câu hỏi làm thế nào ông sở hữu lọ bụi mặt trăng được không?”
“Thế ra là vì chuyện đó hả?” Talbot thở phào nhẹ nhõm.
“Vâng, thưa ông.”
“Đó là một món quà từ Giáo sư Denning quá cố, ông ấy đã để lại nó cho tôi trong di chúc. Người Mỹ đã tặng nó cho ông ấy sau khi ông xuất bản những khám phá của mình về cấu trúc trên bề mặt mặt trăng.”
“Vậy tại sao ông ấy lại để lại một món đồ mang tính lịch sử quan trọng như vậy cho ông?”
“Tôi từng là trợ lí nghiên cứu của giáo sư khi ông ấy viết luận án, và sau khi ông ấy nghỉ hưu, tôi đã thay vị trí trưởng khoa của ông.”
“Tôi rất tiếc phải thông báo đến ông, Tiến sĩ Talbot, rằng người Mỹ muốn lấy lại bụi mặt trăng của họ.”
“Điều gì khiến họ nghĩ nó là của họ? Họ đâu có sở hữu mặt trăng.”
“Đúng, nhưng chính họ đã mang chỗ bụi đó về trên tàu Apollo 11, và Giáo sư Denning chắc hẳn đã quên rằng ông ấy đã kí một thoả thuận ràng buộc là không được bán nó hay trao lại nó cho một bên thứ ba.”
“Còn nếu tôi từ chối trao trả nó lại thì sao?” Talbot nói, nghe có vẻ tự tin hơn một chút.
“Người Mỹ sẽ thúc đẩy các hành động pháp lí, và tôi cho rằng túi tiền của họ sâu hơn của ông.”
“Thế sao họ không mua cái lọ khốn kiếp ấy khi nó được đấu giá ở Sotheby cơ chứ?”
“Tôi phải thừa nhận đó là một giải pháp dễ dàng,” William nói. “Nhưng họ chắc chắn rằng chỗ bụi mặt trăng đó giờ đây đã là của họ, và Sotheby đã rút lại món hàng đó khỏi danh mục. Và, ông có thể tin được không, chiếc lọ giờ đã được cất giữ trong một chiếc két an ninh cấp cao?”
Talbot cười phá lên, chỉ ngón trỏ cong queo vào William và nói, cố gắng bắt chước Clint Eastwood, “Tiếp đi, làm ngày hôm nay thú vị đi nào!”
“Nếu ông vui lòng kí vào mẫu đơn trả hàng, thưa ông, tôi có thể nhận chiếc lọ từ Sotheby và giao trả lại nó cho đại sứ quán Mỹ, việc đó sẽ giải quyết vấn đề cho cả hai ta.”
“Anh biết không, anh Warwick, nếu tôi mà là một triệu phú tôi sẽ chống lại lũ người Mỹ1 ấy, dù cho chỗ bụi mặt trăng đó có khi chỉ kiếm được vài ngàn bảng.”
1 Nguyên tác là Yanks, tức là Yankee, tiếng lóng chỉ người Mỹ
“Và tôi sẽ đứng về phe ông, nhưng tôi nghĩ chúng ta vẫn sẽ thua thôi.”
“Có thể cậu nói đúng. Vậy, tôi phải kí vào đâu?”
William mở chiếc cặp, lấy ra ba tờ đơn giống hệt nhau và đặt chúng lên bàn.“Ở đây, ở đây, và ở đây.”
Talbot đọc tài liệu cẩn thận trước khi đặt chữ kí của mình lên ba đường kẻ chấm.
“Cảm ơn ông,” William nói, đặt hai tờ đơn lại vào cặp của mình và đưa tờ thứ ba cho Talbot.
“Anh có thời gian ăn trưa cùng với tôi không?” Talbot hỏi, cởi áo choàng và rũ ra cả một đám bụi phấn.
“Nếu như ông biết một quán ăn với phần ăn không quá hai bảng tám mươi thì được.”
“Tôi nghĩ chúng ta có thể tìm được chỗ rẻ hơn thế.”
Trên đường về Euston, William kiểm tra các chữ kí của Tiến sĩ Talbot. Anh đã được hưởng một bữa trưa tuyệt vời trong phòng ăn của khoa cùng vị giáo sư, hoá ra ông ấy cũng là người yêu nghệ thuật, và còn là người ủng hộ nhiệt thành một nghệ sĩ địa phương ông đã gặp hồi còn là nghiên cứu sinh. Tiến sĩ Talbot đã mua một bức tranh của L.S. Lowry vẽ con phố sau ở Salford với giá năm mươi bảng, số tiền ông không có đủ vào lúc đó, và chắc chắn là cũng không thể đủ ngay lúc này, mặc dù ông thú nhận với William là ông sẽ không bao giờ bán nó.
“Vậy thì giờ tôi nên tìm kiếm hoạ sĩ nào nhỉ, lưu ý mức lương của tôi nhé?” William hỏi.
“Diana Armfield, Craigie Aitchison, và Sydney Harpley. Cậu sẽ tìm được tất cả bọn họ trong Triển lãm Mùa hè của RA.”
William ghi lại mấy cái tên.
Trong bữa trưa William đã gợi ý bông đùa rằng họ nên tráo mấy nhúm cát trên bờ biển Blackpool lấy chỗ bụi mặt trăng, vì anh tin chắc ông phó bí thư người Mỹ sẽ chẳng nhận ra sự khác biệt đâu. Talbot đã cười, nhưng nói thêm rằng người đồng cấp của ông ta ở thư viện Smithsonian chắc chắn sẽ biết, dù có thể là ông ta chưa bao giờ đến Blackpool.
Cuối cùng William cũng mở tờ tạp chí RA để kiểm tra các cuộc triển lãm sắp tới mà anh không thể bỏ lỡ. Anh chọn ra ba cái, khoanh tròn chúng và ghi ngày tháng vào sổ: Picasso, những năm đầu; California hay là tượng bán thân của Hockney; và cuộc Triển lãm Mùa hè thường niên ở RA, nơi anh sẽ xem xét cả ba hoạ sĩ mà Tiến sĩ Talbot đã đề xuất. Nhưng tất cả đều nhanh chóng bị lãng quên khi anh lật trang và phát hiện ra rằng trong vài tuần tới Tiến sĩ Tim Knox, giám đốc Bảo tàng Fitzmolean, sẽ có bài giảng về lịch sử viện bảo tàng, kèm theo một chuyến tham quan. Vé vào cửa giá năm bảng, và chỉ có năm mươi người được tham gia. Anh tự hỏi liệu Walters có chấp nhận đó là một khoản chi hợp lý hay không. Dù thế nào anh cũng không định bỏ lỡ buổi triển lãm.
Đêm đó William đã không ngủ, mặc dù bạn đồng hành duy nhất của anh chỉ là chiếc cặp táp đã khoá. Anh muốn được xé toang cả hai bản tờ đơn trả hàng hơn, nhưng anh chấp nhận rằng rốt cuộc người Mỹ vẫn sẽ đạt được mục tiêu của họ.
Willam đã không đi thẳng tới Scotland Yard sáng hôm sau, mà bắt chuyến tàu điện ngầm tới Công viên Green rồi đi bộ băng qua đường sang phố New Bond. Anh đã đứng trước mặt toà nhà đấu giá từ rất lâu trước khi người bảo vệ mở cửa vào lúc chín giờ.
Melanie Clore xem xét chữ kí của Tiến sĩ Talbot thật cẩn thận và so sánh nó với mẫu trên hợp đồng mua bán, trước khi cô ta sẵn sàng chia tay với lô số mười chín. Sau đó cô ta biến mất để đi lấy chiếc lọ từ trong két an toàn, và trở lại vài phút sau đó.
William không thể tin nổi khi lần đầu trông thấy chiếc lọ. Nó còn nhỏ hơn cả ngón út của anh. Anh quấn nó trong một lớp giấy ăn trước khi nhét lại vào hộp. Lại thêm nhiều tờ đơn cần kí trước khi anh có thể ra về và tìm đường tới Quảng trường Grosvenor. Mười lăm phút sau, anh bước lên các bậc thềm của Đại sứ quán Hoa Kỳ và báo với một trung sĩ lính thủy đánh bộ ngồi bàn lễ tân. Anh yêu cầu được gặp ông Underwood.
“Anh có hẹn không, thưa anh?”
“Không,” anh nói và đưa thẻ công vụ ra.
Anh lính bấm ba phím trên điện thoại của mình, một giọng nói vang lên ở đầu dây bên kia lúc anh ta lặp lại yêu cầu của William.
“Tôi e là lúc này ngài phó bí thư đang dự một cuộc họp, nhưng ông ấy có thể gặp anh Warwick lúc bốn giờ chiều nay.”
“Bảo ông ta tôi đã lấy được bụi mặt trăng về,” William nói.
Anh có thể nghe thấy một giọng nói, “Đưa anh ta lên.”
William đi cầu thang máy lên tầng bốn, tìm thấy ông phó bí thư đang đứng sẵn ở hành lang chờ anh. Họ bắt tay nhau rồi Underwood nói, “Chào buổi sáng, thanh tra,” nhưng không nói thêm gì cho đến khi ông ta đóng cửa văn phòng. “Anh hành động khá nhanh nhẹn so với một người Anh.”
William không đáp lại, nhưng anh mở cặp táp của mình và lấy ra chiếc hộp nhỏ. Anh mở nó, từ tốn tháo lớp giấy ăn và trưng ra lọ bụi mặt trăng như một thầy phù thuỷ.
“Thế thôi à?” Underwood nói một cách khó tin.
“Vâng, thưa ông,” William nói lúc anh chuyển giao căn nguyên của biết bao rắc rối.
“Cảm ơn anh,” Underwood nói, đặt chiếc hộp lên bàn mình. “Chắc chắn tôi sẽ liên hệ lại với anh nếu có bất kì vấn đề gì khác xuất hiện.”
“Đừng, trừ khi có kẻ nào đó đánh cắp một trong những đầu đạn hạt nhân của các ông,” William nói.