• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Dấn thân
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 39
  • Sau

Chương 6

Chỉ huy Hawksby ngồi ở đầu bàn, một vị trí thích hợp với tư cách chủ tịch hội đồng của ông. Ba nhà lãnh đạo còn lại chờ ông mở màn cuộc họp.

“Tôi muốn bắt đầu bằng cách chào đón người mới gia nhập đội chúng ta. Mặc dù thanh tra Warwick không có nhiều kinh nghiệm điều tra cho lắm” - “nói giảm nói tránh hết mức”, William nghĩ – “cậu ấy có chuyên môn khá trong lĩnh vực nghệ thuật, vốn là chuyên ngành đại học của cậu ta. Thực tế cậu ấy đã từ chối cơ hội làm nghiên cứu Tiến sĩ để có thể gia nhập Cảnh sát Đô thị. Vì vậy tôi ít nhiều hi vọng kiến thức chuyên môn của cậu ấy sẽ tạo nên khác biệt trong việc tóm gọn Miles Faulkner. Bruce,” ông nói và quay sang sĩ quan cao cấp phụ trách vụ án, “có lẽ anh sẽ cập nhật tình hình cho chúng tôi.”

Chánh thanh tra Lamont đã có vài tập tài liệu để trước mặt, nhưng ông ta không cần mở bất kì cái nào vì hầu hết nội dung của chúng đều đã in hằn trong óc ông. Ông ta nhìn thẳng vào thanh tra cảnh sát Warwick, vì ông không có thông tin gì mới cần kể với hai đồng nghiệp kia của mình.

“Trong suốt bảy năm qua chúng tôi đã cố bắt một tên trộm phải gọi là một tên tội phạm bậc thầy theo bất kỳ tiêu chuẩn nào, và đến nay hắn vẫn luôn lẩn trốn khỏi chúng ta. Miles Faulkner đã phát triển một hệ thống gần như không có sai sót cho phép hắn ăn cắp những tác phẩm nghệ thuật lớn và kiếm một núi tiền mà không bị lộ ra là phạm pháp.” Vài câu hỏi đã xuất hiện trong đầu William, nhưng anh quyết định sẽ không cắt lời sếp mới của mình.

“Đầu tiên, cậu sẽ cần phải nhận ra, Bill ạ…”

“William ạ, thưa ngài.”

Lamont cau mày. “Cậu sẽ cần phải nhận ra rằng nếu cậu từng xem bộ phim The Thomas Crown Affair thì cậu nên bỏ qua nó đi vì đó chỉ là phim thôi. Hoàn toàn là hư cấu. Mua vui thì được, tôi đồng ý, nhưng dù sao cũng là hư cấu. Miles Faulkner chẳng phải là Steve McQueen. Hắn không ăn cắp các bức danh hoạ chỉ vì niềm say mê thuần tuý và rồi giấu chúng trong tầng hầm để mình hắn có thể dành nhiều giờ ngưỡng mộ chúng. Cái đó chỉ dành cho những khán giả muốn tận hưởng vài giờ đồng hồ tưởng tượng ra việc lừa được các cảnh sát ở Boston thôi, trong lúc ngủ với một người phụ nữ xinh đẹp vô tình lại là người môi giới bảo hiểm phụ trách vụ việc. Tuy nhiên, cô đó lại là nhân vật duy nhất trong phim có đôi chút tương đồng với thế giới thực: người môi giới bảo hiểm – chỉ có điều trong trường hợp của chúng ta thì nhiều khả năng sẽ là một gã trung niên, một quản lí cấp trung chuyên làm việc giấy tờ, người sẽ về nhà mỗi tối vào lúc sáu giờ cùng vợ và hai con. Và quan trọng hơn, ông ta chẳng đáng là đối thủ của Faulkner.”

“Vẫn theo được đấy chứ, Warwick?” Hawksby hỏi.

“Vâng, thưa ngài.”

“Vậy thì cậu sẽ có thể cho chúng tôi biết chánh thanh tra Lamont sắp sửa nói gì tiếp theo đấy chứ.”

“Rằng Faulkner đã đánh cắp những bức tranh vô giá khỏi các phòng trưng bày và nhà sưu tập hòng kiếm thoả thuận với các công ty bảo hiểm có liên quan, những người sẵn lòng chấp nhận một cái giá thấp hơn nhiều so với số tiền bồi thường.”

“Thường là một nửa,” Lamont nói. “Nhưng Faulkner vẫn thu được một khoản lợi nhuận rất lớn.”

“Dù có thông minh thế nào,” William nói, “hắn cũng không thể tự biên tự diễn một âm mưu phức tạp như vậy được.”

“Không, hắn không làm một mình. Hắn hành động cùng một đội nhỏ thôi nhưng rất chuyên nghiệp, nhưng bất kể khi nào có tên đồng đảng nào bị bắt thì bọn chúng lại câm như hến.”

“Có lần,” trung sĩ thanh tra Roycoft nói, “thậm chí chúng tôi còn bắt quả tang được hai tên trộm. Ấy thế mà Faulkner lại đang ở Monte Carlo vào thời điểm xảy ra vụ trộm, ngủ ngon lành trên giường cùng với một cô vợ xác nhận bằng chứng ngoại phạm cho hắn.”

“Và chúng ta có nghi ngờ rằng vợ hắn cũng là một trong những đồng đảng đáng tin cậy nhất của hắn không?” William hỏi.

“Trong quá khứ cô ta từng che giấu cho hắn vài lần,” Hawksby nói, “nhưng gần đây chúng tôi khám phá ra Faulkner có một nhân tình.”

“Việc đó chưa hẳn là phạm tội,” William nói.

“Đúng. Nhưng nếu cô ta bị phát hiện ra…”

“Chẳng lẽ các vị không thể đàm phán với một trong những kẻ các vị đã bắt được và đưa ra thoả thuận nhận tội với chúng à?” William hỏi câu tiếp theo.

“Không đời nào,” Lamont nói. “Faulkner đã có hợp đồng bất thành văn với cả hai, và không có điều khoản rút lui.”

“Cả hai đều đã bị tuyên án sáu năm tù,” Hawskby nói, tiếp tục mạch chuyện, “và gia đình chúng ở bên ngoài đã được chăm lo tử tế, mặc dù chúng tôi không bao giờ có thể liên kết được tội ác của chúng với Faulkner. Một kẻ phạm pháp thứ ba, tên này có liên quan đến vụ đột nhập bảo tàng Fitzmolean, đã bị khâu kín môi lại chỉ để nhắc nhở hắn điều gì sẽ xảy ra nếu hắn định bép xép gì cho cảnh sát.”

“Nhưng nếu Faulkner là kẻ tàng trữ…”

“Faulkner, theo hồ sơ hoàn thuế của hắn,” Lamont nói, “là một nông dân. Hắn sống trong một trang viên chín phòng ngủ ở vùng Hampshire, bao quanh là ba trăm mẫu đất mà chỉ có vài con bò nhởn nhơ gặm cỏ. Chúng không bao giờ bị mang ra chợ bán.”

“Nhưng hẳn là phải có kẻ nào đó tiến hành các cuộc đàm phán với các công ty bảo hiểm chứ?”

“Faulkner để việc đó cho một trong các tên đệ của hắn,” Lamont nói. “Luật sư cố vấn Booth Watson. Một luật sư luôn luôn hành động nhân danh một thân chủ giấu tên. Dù chúng tôi có thúc ép thế nào đi nữa, lão chỉ đơn giản nhắc chúng tôi nhớ quyền riêng tư của luật sư và thân chủ.”

“Nhưng nếu Booth Watson biết ông ta đang giao dịch trực tiếp với một tên tội phạm, chẳng phải ông ta có ràng buộc trong nghề nghiệp là phải báo cáo với…”

“Đây không phải là cha cậu, Warwick,” Hawksby nói, “mà là một kẻ đã hai lần phải đứng trước Hội đồng Luật sư vì hành vi không đúng chuẩn mực hành nghề. Trong cả hai trường hợp, lão chỉ suýt soát thoát được việc bị tước bằng.”

“Nhưng ông ta vẫn hành nghề,” William nói.

“Đúng, nhưng gần đây ông ta hiếm khi xuất hiện trước tòa,” Hawksby nói, “sau khi đã tìm ra một cách để thu được những khoản phí khổng lồ mà không bao giờ cần phải rời khỏi văn phòng của mình nữa. Bất kể khi nào có một tác phẩm nghệ thuật lớn bị đánh cắp, việc các công ty bảo hiểm sẽ gọi tới chỗ ông Booth Watson đầu tiên, và yêu cầu làm người trung gian, chẳng có gì là ngẫu nhiên cả. Ngạc nhiên chưa kìa, bức tranh ấy sẽ xuất hiện trở lại vài ngày sau đó trong tình trạng tuyệt hảo, và công ty bảo hiểm trả tiền thoả thuận, thậm chí còn không buồn báo cho chúng ta biết.”

“Tôi thấy thật khó tin,” William nói, “rằng Faulkner lại thành công liên tục mà không để lại dấu vết gì như thế. Việc này nghe chẳng khác gì hư cấu như trong Tay trộm hoàn hảo vậy.”

“Khá đúng,” Hawksby nói. “Ít nhất một trong các hãng bảo hiểm lớn hơn đã từ chối trả tiền cho người trung gian, và nếu phòng trưng bày liên quan không thể tìm được nguồn lực để chi trả khoản tiền thưởng, thì Faulkner sẽ bị mắc kẹt với bức tranh.”

“Trong trường hợp đó,” William nói, “bức của Rambrandt đã bị đánh cắp khỏi bảo tàng Fitzmolean có thể vẫn còn đang ở ngoài đó.”

“Trừ khi Faulkner đã phá huỷ nó, để đảm bảo không còn bằng chứng là hắn đã gây ra vụ trộm nữa.”

“Chắc không ai lại đi phá huỷ một bức tranh của Rembrandt chứ?”

“Nếu là tôi thì sẽ chờ đến khi gặp trực tiếp gã rồi mới kết luận câu đó. Kẻ mà chúng ta đang phải đối đầu không phải là một người yêu nghệ thuật, mà là kẻ sẵn sàng bán cả mẹ mình, nếu điều đó có thể giúp hắn thoát tội.”

“Chúng ta còn biết gì về Faulkner nữa?” William hỏi sau khi bị mắng.

Lần này thanh tra Roycroft là người mở hồ sơ. “Sinh năm 1942 ở Sevenoaks, con duy nhất của một chuyên viên bất động sản và một thợ làm tóc. Mặc dù đó không phải là điều hắn kể với các bạn mình ở câu lạc bộ golf. Được thưởng học bổng Harrow ở tuổi mười một, và năm cuối tại trường hắn đã đạt một giải thưởng về nghệ thuật. Sau khi rời Harrow, hắn ghi danh vào Trường Nghệ thuật Slade, nhưng nhanh chóng nhận ra dù mình là một trong những sinh viên xuất sắc nhất toàn khoá, hắn sẽ, trích nguyên văn bản báo cáo tốt nghiệp của thầy hiệu trưởng, không bao giờ kiếm sống được với tư cách nghệ sĩ. Họ đã khuyên hắn nên cân nhắc sự nghiệp làm giáo dục. Hắn lờ đi lời khuyên của họ.”

“Đến lúc rời khỏi Slade,” Lamont nói tiếp, “hắn đã nghĩ ra chính xác vai trò của mình trong thế giới nghệ thuật. Nhưng hắn cần thêm chút kinh nghiệm trước khi có thể tự lập. Làm thực tập sinh tại một phòng trưng bày hàng đầu ở Bờ Tây, nơi hắn đã biết được thu nhập mà một người trong giới nghệ thuật có thể kiếm được, đặc biệt là nếu người đó vô liêm sỉ. Vài năm sau hắn bị sa thải, tình huống thế nào thì chúng ta chưa thực sự hiểu rõ, mặc dù đã biết rằng không có phòng trưng bày nào khác chịu thuê hắn. Hắn bặt vô âm tín một thời gian, cho đến khi bức Salvador Dalí mất tích khỏi Học viện Courtauld, rất lâu trước khi đội Nghệ thuật và Cổ vật được thành lập.”

“Điều gì khiến ông nghĩ hắn có liên quan đến vụ trộm ấy?” William hỏi.

“Chúng tôi bắt được hình ảnh hắn đứng chụp ảnh bức tranh ấy trên camera giám sát một tháng trước khi nó bị lấy cắp. Một sai lầm hắn chưa bao giờ lặp lại kể từ ngày đó,” Hawksby nói.

“Và chắc hắn đã kiếm được rất khá từ thoả thuận đó, cùng với nhiều thỏa thuận khác, bởi một lần nữa hắn lại biến mất khỏi tầm giám sát của chúng ta cho đến khi bức Rembrandt bị lấy cắp khỏi Bảo tàng Fitzmolean khoảng bảy năm về trước. Nhưng lần đó ông Booth Watson đã không thể thoả thuận được với các nhà bảo hiểm, có vẻ như tới nay, đó là thất bại duy nhất của hắn. Mặc dù cái cách hắn thực hiện vụ trộm chắc hẳn sẽ làm cả Thomas Crown thán phục.”

William không cắt ngang.

“Một chiếc xe tuần tra xuất hiện bên ngoài Bảo tàng Fitzmolean vào chiều thứ Bảy ngay sau giờ phòng trưng bày đóng cửa. Hai người đàn ông ăn mặc như cảnh sát đi vào viện bảo tàng và tuyên bố chuông báo động đã được kích hoạt, đánh và trói người gác cửa bảo tàng lại. Mười phút sau, bọn chúng bước ra khỏi cửa trước với bức tranh Rembrandt kẹp bên nách.”

“Các bảo vệ khác đâu hết rồi?”

“Họ kể rằng họ đang tuần tra trên tầng thượng và không quay lại tầng một cho đến tận nửa tiếng sau đó, lúc 4 giờ 48 phút.”

“4 giờ 48 thì có liên quan gì không?” William hỏi.

“Cậu ta tinh ý đấy,” Lamont nói.

“Manchester United đã đá với Liverpool tranh cúp FA vào chiều hôm đó, và trận đấu được tường thuật trực tiếp trên kênh BBC1. Tiếng còi mãn cuộc vang lên lúc 4 giờ 46.”

“Tivi để ở đâu?” William hỏi.

“Trong phòng ăn của nhân viên dưới tầng hầm,” Lamont nói, “điều mà tôi nghi là Faulkner biết rất rõ, bởi vì bọn trộm đã đến ngay sau khi trọng tài thổi còi bắt đầu hiệp đấu thứ hai, và sau này chúng tôi phát hiện ra cả hai bảo vệ đều là cổ động viên của Manchester United, cả điều này tôi cũng không hề nghi ngờ là Faulkner biết rất rõ.”

“Nếu quỷ dữ mà là kẻ tỉ mỉ, thì hắn chính là quỷ dữ,” Hawksby nói thêm.

“Vậy là giờ cậu đã biết chúng ta đang phải đối đầu với kẻ như thế nào,” thanh tra Roycroft nói. “Một tên tội phạm chuyên nghiệp, có tổ chức, kẻ chỉ cần ăn trộm một bức tranh quý mỗi vài năm để sống sung túc như Riley1, và có thể tiến hành cả chiến dịch chỉ trong vài phút.”

1 Chỉ chương trình radio Life of Ridley của Anh

“Chắc hẳn tôi đã bỏ lỡ điểm nào đó,” William nói. “Tại sao Booth Watson lại không giao dịch với các nhà bảo hiểm và đạt thoả thuận ngay sau khi Faulkner đánh cắp bức Rembrandt?”

“Bảo tàng Fitzmolean mua bảo hiểm thấp đến thảm hại. Một vấn đề mà vài phòng tranh lớn đang phải đối mặt ngay lúc này. Giá trị của các bức tranh và tượng điêu khắc của họ tăng vọt qua nhiều năm, đến mức họ không trả nổi một con số tử tế để bảo hiểm cho chúng nữa.”

“Tuy nhiên,” Lamont chen vào, “việc trì hoãn này sẽ dạy cho Faulkner một bài học. Đừng ăn trộm ở các phòng tranh không được bảo hiểm đầy đủ hoặc không có những nguồn lực đầy đủ để trả tiền thưởng.”

“Có câu hỏi nào không, Warwick?”

“Có, thưa ngài,” William nói. “Giờ chúng ta đã biết bức Rembrandt mà ngài tưởng là tranh gốc thực tế lại là một bức tranh giả.”

“Ý cậu là gì?” Jackie hỏi, vẫn còn cáu vì sai lầm của mình.

“Ai đó chắc hẳn đã chép lại bức tranh đó.”

“Faulkner chăng?” Lamont gợi ý. “Dù gì thì hắn cũng đã khởi nghiệp từ một sinh viên hội hoạ mà.”

“Không thể nếu ý kiến của trường Slade về tài năng của hắn là đáng tin cậy. Nhưng không có nghĩa là hắn không quen biết một hoạ sĩ có khả năng làm việc đó. Có khi bọn họ còn học cùng khoá ở Slade.”

“Nếu là như thế,” Lamont nói, “hiển nhiên cậu chính là người sẽ tìm ra kẻ đó.”

“Đồng ý,” chỉ huy Hawksby nói và xem đồng hồ. “Cậu còn câu hỏi nào nữa không, thanh tra Warwick?”

“Chỉ một thôi, thưa ngài. Các vị đã thu được bức tranh nhái như thế nào?”

“Chúng tôi đã thuyết phục được một quan toà địa phương rằng cảnh sát có lí do để tin rằng Faulkner có thể đang sở hữu một tác phẩm nghệ thuật quan trọng đã bị đánh cắp từ Fitzmolean. Ông ấy đã kí lệnh khám nhà, và chúng tôi lục soát nhà Faulkner ngay trong đêm đó. Cho đến khi cậu xuất hiện, chúng tôi đã nghĩ mình trúng độc đắc rồi.”

“Các vị có quan sát được những tác phẩm còn lại trong bộ sưu tập của hắn lúc ở trong nhà không?”

“Có,” Lamont nói, “và không có bức nào nằm trong danh sách các bức tranh bị mất cắp cả, và hắn cũng đã trưng được ra hoá đơn mua tất cả các bức tranh khác của mình.”

“Vậy là hắn tái đầu tư những nguồn thu nhập bất hợp pháp của mình vào các tác phẩm nghệ thuật. Điều đó khiến tôi càng tin chắc rằng hắn sẽ không huỷ hoại bức Rembrandt.”

“Đừng đánh cược lương hưu của cậu vào đó,” Hawksby nói khi ông đóng tập hồ sơ. “Vậy là chúng ta đều đã biết tình hình mới nhất, và tôi không cần phải nhắc nhở các anh chị rằng đây không phải vụ duy nhất chúng ta đang điều tra. Vì vậy đừng để mặc những vụ khác bị phủ bụi trên bàn các anh chị. Tôi thấy việc phê duyệt thêm bất kì chi phí phát sinh nào với cảnh sát trưởng là đã đủ khó khăn rồi. Chính phủ hiện nay có vẻ quan tâm tới các con số nhiều hơn là bắt được lũ tội phạm thực sự. Vậy nên hãy quay lại làm việc.”

Tất cả mọi người ngồi quanh bàn đều thu thập hồ sơ và hướng ra cửa. Nhưng trước khi William rời khỏi phòng, Hawksby đã nói, “tôi muốn nói đôi lời, Warwick.”

Ngài chỉ huy chờ đến khi cửa đã đóng lại rồi mới nói.

“William, tôi biết cậu thông minh, đồng nghiệp của cậu cũng biết cậu thông minh, nhưng cậu không cần phải liên tục nhắc họ nhớ rằng cậu đã biến điều họ tưởng là một thành công trở thành một thảm hoạ. Nếu cậu muốn được ngồi lên chiếc ghế này một ngày nào đó, đừng tốn thêm thời gian chọc tức những người cậu sẽ làm việc cùng nữa. Tôi khuyên cậu thi thoảng nên xin lời khuyên, chứ không phải lúc nào cũng đi ban phát chúng. Có lẽ cậu nên dành nhiều thời gian hơn nữa trong phòng bi-da, vì có vẻ như việc ấy đã không làm cậu bị thiệt thòi gì ở Lambeth.”

William nhớ lại lời cha mình. Không phải kiểu người mà ta có thể đánh giá thấp được.

Anh lặng lẽ rời khỏi phòng, đầu cúi xuống. Anh nghĩ về những lời nói của ngài chỉ huy lúc chậm rãi đi dọc hành lang. Anh chưa ghé vào phòng bi-da ở Scotland Yard bao giờ. Khi quay lại văn phòng chung cùng các đồng nghiệp, anh tìm thấy hai tập hồ sơ đã bị ném lên bàn mình. Anh mới đọc được một nửa tập có tiêu đề “Churchill” thì thanh tra Roycroft xuất hiện bên cạnh. “Cô nghĩ tôi nên bắt đầu từ cái nào, trung sĩ?” Anh hỏi cô.

“Nhắc tôi xem có những cái nào,” Jackie nói.

“Winston Churchill, hay bụi mặt trăng?”

“Bụi mặt trăng sẽ dễ xử lí hơn. Rõ ràng vị giáo sư đó không phải là tội phạm, và thực tình mà nói, ông Underwood, phó bí thư ở Đại sứ quán Hoa Kỳ, đã làm quá lên. Nhưng chúng tôi không muốn gặp vấn đề ngoại giao, nên hãy đảm bảo là cậu làm việc thật thận trọng.”

“Còn Churchill?”

“Churchill sẽ khó khăn hơn một chút, nhưng như ông Hawksby đã nhắc chúng ta, ngày nay tất cả là về vấn đề con số, nên cậu phải đảm bảo sẽ tóm được thủ phạm và buộc tội hắn ta, mặc dù tôi nghi là hắn sẽ chỉ bị sáu tháng tù treo. Ít nhất thì cũng thêm một vụ được ghi nhận. Quan trọng hơn, tôi tin rằng cậu chưa quên rằng cậu sẽ phải một mình đi tìm người vẽ nhái tranh Rembrandt, hi vọng hắn sẽ dẫn chúng ta tới chỗ Faulkner. Tôi khuyên cậu một câu, Bill,” cô ta nhấn mạnh. “Đừng có nghĩ đến chuyện về nhà trước khi đèn dưới cánh cửa văn phòng ông Hawksby tắt.”

“Cảm ơn vì lời khuyên,” William nói, mở tập hồ sơ về bụi mặt trăng ra. Sau khi đọc tất cả chi tiết về vụ án ấy, anh đồng tình với Jackie rằng vị giáo sư có thể đã quá ngây thơ, có khi còn đáng trách, nhưng chắc chắn ông ta không phải là tội phạm.”

Khi đồng hồ Big Ben đổ sáu hồi chuông, William quyết định rằng giờ đã quá muộn, không nên gọi điện cho ngài phó bí thư Đại sứ quán Mỹ, vì ông Underwood thì không cần phải chờ đến lúc đèn trong văn phòng Hawksby tắt mới đi về nhà.