“Ngày cuối cùng cậu mặc bộ đồng phục này,” Fred nói khi họ rời khỏi đồn và bắt đầu cuộc tuần tra buổi tối.
“Trừ khi cháu không đủ khả năng để làm thanh tra,” William nói. “Trong trường hợp đó, cháu sẽ lại quay về đi tuần ngay thôi.”
“Cứng lên chứ. Cậu đã tạo được danh tiếng cho mình, và tất cả mọi người đều biết điều đó.”
“Chỉ là nhờ có chú thôi, Fred ạ. Chú đã dạy cháu nhiều điều về thế giới thật, hơn mọi thứ cháu học được ở trường đại học.”
“Chỉ là vì cả đời cậu được bao bọc quá thôi, Cậu bé đồng ca. Không như tôi. Vậy cậu sẽ gắn bó với đơn vị nào?”
“Nghệ thuật và Cổ vật ạ.”
“Tôi còn tưởng đó chỉ là một thú vui cho những kẻ quá thừa thời gian và tiền bạc, chứ không phải phạm pháp.”
“Nó có thể trở thành một tội ác sinh lời rất nhiều cho những kẻ tìm ra cách lách luật đấy.”
“Kể tôi nghe xem nào.”
“Hiện giờ đang có một âm mưu,” William nói, “trong đó lũ tội phạm chuyên nghiệp ăn cắp những bức tranh mà không hề có ý định bán chúng.”
“Tôi chẳng hiểu gì cả,” Fred bảo. “Sao lại ăn cắp một thứ mà cậu không định bán hay chuyển cho bọn tàng trữ nhỉ?”
“Đôi khi các công ty bảo hiểm sẵn sàng thoả thuận với một gã trung gian thay vì trả toàn bộ số tiền theo hợp đồng.”
“Một kẻ oa trữ trong bộ vest Armani ư?” Fred nói. “Vậy làm sao cậu bắt được bọn chúng?”
“Chúng ta phải chờ đến khi chúng trở nên quá tham lam, và công ty bảo hiểm không chịu trả thêm.”
“Nghe như phải làm cả núi giấy tờ, thế nên tôi không bao giờ thành thanh tra được.”
“Tối nay chúng ta đi tuần ở đâu vậy?” William hỏi, biết rõ không phải lúc nào Fred cũng tuân theo các mệnh lệnh hàng ngày một cách chuẩn chỉ.
“Tối thứ Bảy mà. Tốt hơn là nên kiểm tra khu dân cư Barton, đảm bảo nhà Sutton và nhà Tuckers không gây sự đánh nhau. Rồi chúng ta sẽ quay lại đường Luscombe trước khi các quán rượu đóng cửa. Có khi còn tìm được một gã say xỉn gây mất trật tự cho cậu bắt vào đêm cuối cùng đi tuần đường phố ấy chứ.”
Mặc dù William đã dành hai năm thử việc bên Fred, anh gần như không biết gì về đời tư của ông. Anh không thể phàn nàn câu nào, bởi bản thân anh cũng kín miệng như thế, nhưng vì đây sẽ là buổi tuần tra cuối cùng của họ với nhau, anh quyết định hỏi Fred một điều thường làm anh khó hiểu.
“Điều gì khiến chú gia nhập lực lượng ngay từ đầu vậy?”
Fred mất một lúc không trả lời, gần như ông đã lờ tịt câu hỏi ấy. “Vì tôi sẽ không bao giờ gặp lại cậu nữa, Cậu bé đồng ca,” cuối cùng ông đáp, “nên tôi sẽ kể cậu nghe. Trước hết, không phải là ngay từ đầu đâu. Đó gần như là chuyện tình cờ hơn là định sẵn.”
William vẫn im lặng khi họ rẽ vào một hẻm nhỏ dẫn ra đằng sau khu dân cư Barton.
“Tôi sinh ra trong một khu nhà tập thể ở Glasgow. Cha tôi dành gần hết cả đời ăn tiền trợ cấp, nên mẹ tôi là nguồn thu nhập duy nhất trong nhà.”
“Bà ấy đã làm gì?”
“Bà ấy làm người phục vụ quán rượu, nhưng đã sớm học được rằng mình có thể kiếm bộn tiền khi làm vài chuyện ngoài lề. Vấn đề là, tôi vẫn chưa chắc mình có phải là kết quả của cái việc ngoài lề ấy hay không.”
William không bình luận gì.
“Nhưng tiền cạn dần khi bà bắt đầu đánh mất vẻ ngoài của mình, và lâu lâu cha tôi lại tặng cho bà một bên mắt bầm dập nếu tối thứ Bảy đó bà không mang đủ tiền mặt về để trả cho chai whisky tiếp theo của ông ta.”
Fred lặng thinh, trong lúc William nghĩ về cha mẹ của chính mình, họ thường ra ngoài ăn tối và đi nghe nhạc vào mỗi buổi tối thứ Bảy. Anh vẫn thấy khó mà hiểu được sự bạo ngược trong vấn đề bạo lực gia đình. Anh chưa từng nghe thấy cha lớn giọng một lần nào trước mặt mẹ.
“London cách Glasgow rất xa,” William giục, hi vọng biết được thêm.
“Không đủ xa với tôi,” Fred nói và chiếu ngọn đèn pin của mình xuống đường ngõ rồi cười toe khi một cặp thanh niên lẩn tránh đi. “Tôi bỏ nhà đi khi mười bốn tuổi. Tôi nhảy lên chuyến tàu chở hàng đầu tiên chịu chứa chấp tôi. Tôi đã nhìn ngắm được nửa thế giới khi đến tuổi mười tám và cập cảng ở London.”
“Đó là lúc ông gia nhập lực lượng à?”
“Không. Tôi vẫn còn nhìn họ như kẻ thù. Vài tháng sau đó tôi đi chất hàng lên giá siêu thị rồi trở thành người bán vé xe buýt. Chẳng mấy chốc là tôi chán việc đó nên quyết định đi bộ đội hoặc làm cảnh sát. Nếu bên cảnh sát mà không phỏng vấn tôi trước thì giờ có khi tôi thành một ông tướng rồi ấy.”
“Hoặc đã chết,” William nói khi họ bước vào khu dân cư.
“Trong công việc này cậu cũng mất mạng như chơi như khi cậu ở trong quân đội thôi,” Fred nói. “Tôi đã mất bảy đồng nghiệp trong hai mươi năm vừa qua, và còn quá nhiều những người bị thương hay tàn tật mà phải chuyển sang ngành khác nữa. Và ít nhất trong quân đội cậu còn biết kẻ thù của mình là ai, và cậu được phép giết họ. Người ta muốn chúng ta xử lí đám buôn ma tuý, tội phạm dùng dao và các cuộc chiến bang hội, trong khi phần lớn công chúng lại không thích biết nhiều về những việc đó.”
“Vậy tại sao chú lại bám lấy nó trong khi đã có thể chọn một cuộc đời dễ dàng hơn?”
“Có thể chúng ta đến từ hai cuộc đời đối ngược, Cậu bé đồng ca ạ,” Fred nói, “nhưng chúng ta có một điểm chung – hai ta đều điên điên, nhưng ít nhất chúng ta đang làm công việc mà định mệnh đã dành cho ta. Và cũng phải công nhận, tôi sẽ không bao giờ kiếm được công việc nào thú vị hay được tưởng thưởng bằng nửa như khi làm cảnh sát London.”
“Tưởng thưởng ư?”
“Ý tôi không phải nói về mặt tài chính, mặc dù nếu cậu tính thêm tiền làm ngoài giờ thì lương lậu cũng không phải là quá tệ. Deprehendo Deprehensio Vitum,” Fred nói. “Làm thêm phá án đấy.”
William không thể ngừng cười, và Fred nói thêm, “Đừng lo, đấy là câu tiếng La-tinh duy nhất tôi biết. Điều tôi thích nhất ở công việc này là không có hai ngày nào giống hệt nhau. Và, quan trọng hơn nữa, cả khu này là dinh thự của tôi, và tôi biết gần như tất cả những người sống ở đây. Có thể không phải lúc nào họ cũng là một gia đình lớn hạnh phúc, nhưng họ là gia đình của tôi và mặc dù tôi chưa bao giờ thừa nhận, tôi thích tự huyễn hoặc mình rằng tôi đã tạo ra sự khác biệt.”
“Và chú còn có hai bằng khen để chứng minh điều đó nữa.”
“Chưa nói đến ba lần đình chỉ, nhưng vì chỉ còn có vài tháng nữa là gác dùi cui được rồi nên tôi sẽ không vượt quá ranh giới lần nào nữa. Tôi không muốn làm điều gì ảnh hưởng đến lương hưu của mình cả,” ông nói thêm lúc họ rời khỏi khu Barton.
“Đêm nay yên ắng nhỉ,” William nói.
“Bọn chúng đã thấy ta đến đây và lủi ngay xuống cái cống gần nhất, y như lũ chuột vậy. Chúng sẽ lại xuất hiện ngay khi ta rời khỏi tầm mắt. Nhưng rồi, chúng ta cũng không muốn có rắc rối gì vào đêm đi tuần cuối cùng của cậu nhỉ, thanh tra?”
William cười phá lên và định hỏi một câu nữa thì Fred liếc mắt qua đường và nói, “Mụ bò già ngốc nghếch. Nhưng tôi đoán là bà ta cũng chẳng biết gì hơn.”
William nghi là một mẩu triết lý khác nữa lại sắp sửa được đưa ra, mặc dù anh không hiểu Fred đang nói về chuyện gì.
“Số hai mươi ba,” Fred nói. “Bà Perkins.”
“Bị trộm vài tuần trước,” William nói. “Mất một cái tivi và một đầu VCR, nếu cháu nhớ chính xác.”
“Năm điểm trên mười,” Fred nói. “Và giờ thì kiếm nốt năm điểm kia đi.”
William nhìn chằm chằm vào số nhà 23 nhưng vẫn không hiểu gì.
“Cậu thấy gì, Cậu bé đồng ca?”
“Hai thùng các-tông rỗng.”
“Và điều đó nói gì với cậu?”
William thử nghĩ như một người chuyên bắt trộm, một đặc quyền chỉ được trao cho những người giống như Fred, có thể ngửi thấy mùi tội ác trước cả khi nó xảy ra.
Fred thở ra một tiếng cường điệu. “Chắc hẳn công ty bảo hiểm của bà Perkins đã trả tiền, nên giờ bà ta là người chủ sở hữu đầy tự hảo của một chiếc tivi và đầu VCR mới. Nhưng điều bà ta không biết là tên trộm vẫn thường vòng lại hiện trường vài tuần sau đó, chúng biết rõ rằng ở đó có thể sẽ có hẳn một bộ tivi mới để chúng lại ăn trộm. Và trong trường hợp này, bà ta thực sự đã quảng cáo chuyện đó. Tất cả những gì tên thủ ác phải làm chỉ là chờ đến khi bà ta ra ngoài để thăm bà bạn Cassidy ở số nhà chín mươi mốt, rồi đột nhập vào và cướp của bà ấy lần thứ hai.”
“Vậy chúng ta nên làm gì?” William hỏi.
“Nói đôi lời với bà ấy, khuyên bà ấy huỷ bằng chứng đi,” Fred nói khi ông gõ cánh cửa nhà số 23. Bà Perkins mở cửa gần như ngay lập tức, và khi Fred đã giải thích xong tại sao có hai cảnh sát lại đang đứng trên ngưỡng cửa nhà bà, bà ta vội vã dời mấy cái hộp đi, cảm ơn ông và mời họ một tách trà.
“Bà tử tế quá, bà Perkins, nhưng tốt hơn hết là tôi nên đi tiếp.” Ông chạm vào viền mũ của mình trước khi họ tiếp tục cuộc tuần tra.
“Khi nào cậu bắt đầu công việc mới?” Fred hỏi sau khi họ đã đi được vài mét nữa.
“Cháu xin nghỉ phép hai tuần đi Ý trước khi báo cáo với Scotland Yard vào mùng Một tháng Mười.”
“Tôi nghe nói ở Ý nhiều gái xinh lắm.”
“Hầu hết bọn họ đều được đóng khung rồi.”
“Đóng khung?”
“Bằng vàng ấy.”
Fred cười phá lên. “Tôi đã đến Ý bao giờ đâu, hay Scotland Yard cũng thế, nhưng tôi nghe nói họ có phòng bi-da đẹp nhất lực lượng.”
“Cháu sẽ quay lại và kể cho chú nghe nó như thế nào…”
“Cậu sẽ không bao giờ quay lại, Cậu bé đồng ca ạ. Lambeth chỉ như một cái ngáng đầu tiên trên chiếc thang mà tôi hi vọng là sẽ rất dài với cậu. Nhưng cẩn thận nhé, trên đường trèo lên cậu sẽ gặp phải kha khá bọn rắn rết, những kẻ sẵn sàng đẩy cậu ngã xuống dưới, và một vài kẻ trong số đó còn mặc đồng phục xanh,” ông nói, đẩy thử một cánh cửa cửa hàng để đảm bảo là nó đã được khoá.
William cười khúc khích. Chưa có ca trực nào mà anh không nhận được một bài học gì đó từ Fred.
“Chào Jacob.”
“Chào ông, Fred.”
William nhìn người đàn ông đang ngồi bắt chéo chân trên vỉa hè, tu chai whisky còn một nửa. Khi anh mới đi tuần, Fred đã dạy anh rằng có bốn loại dân bợm: loại ngủ như chết khi say, và dần dà những người này sẽ tỉnh dậy đi về nhà; loại vô hại, thường là những người đang nhấn chìm nỗi buồn của mình và hiếm khi gây rắc rối; loại tình nhân, những cô muốn đưa anh về nhà và thử áo đồng phục của anh; và loại bạo lực, những kẻ tìm kiếm một cuộc ẩu đả và coi cảnh sát như đối thủ xứng tầm. Fred có thể xác định ai thuộc loại nào chỉ trong vòng chục bước chân, đặc biệt là những kẻ đang tìm cớ đánh nhau. Thường thì đêm của chúng sẽ phải kết thúc trong nhà giam, và sáng hôm sau chúng thường sẽ biến thành một người khác. William đã gặp qua cả bốn loại trên trong hai năm qua, và nhờ có cảm giác của Fred cùng cánh tay phải mạnh mẽ, anh chỉ phải mang về một hai vết bầm làm minh chứng cho điều đó.
“Loại nào đây?” William hỏi.
“Đang nhấn chìm nỗi buồn. Chắc chiều nay đội Spur thua.”
“Sao chú biết được?”
“Mỗi lần họ thắng thì Jacob lại ngoan như cún, nhưng nếu họ thua, anh ta lại nẫu hết cả người.”
Họ rẽ vào đường Luscombe và thấy vài người dân địa phương đang trên đường từ Marlborough Arms về.
“Thất vọng thật đấy,” Fred nói. “Đường Luscombe không còn được như trước từ khi hội đồng quét sạch nó. Tôi đã hi vọng bắt gặp tay bán ma tuý nào đó, hay thậm chí là một gã xì-ke để cậu có gì mà nhớ đến trong đêm cuối đi tuần.”
“Chúng ta vẫn luôn có thể bắt cô ta mà,” William nói và chỉ vào một cô gái mặc chiếc váy da ngắn cũn cỡn, đứng tán gẫu với một người đàn ông qua cửa sổ xe.
“Để làm gì mới được? Cô ta sẽ chỉ trải qua một đêm trong nhà giam, trả ít tiền phạt sáng ngày mai, rồi tối mai lại quay về chốn cũ. Tôi không thích tóm bọn con gái, mà là tụi ma cô hút xương tuỷ của họ hơn kìa. Và cụ thể là thằng kia,” Fred nói thêm.
Chiếc xe bỏ đi khi người lái xe trông thấy hai cảnh sát trong gương chiếu hậu. Họ tiếp tục rảo bước tới trung tâm thị trấn, Fred chiêu đãi William bằng vài mẩu chuyện, có chuyện anh từng nghe rồi nhưng vẫn đáng nghe lại lần hai, còn các chuyện khác anh không chắc có phải đã được thêm mắm dặm muối theo năm tháng hay không.
William đang định hỏi Fred về kế hoạch nghỉ hưu của ông thì ông thầy tóm lấy cánh tay anh và lôi vào ngưỡng cửa gần nhất, đột nhiên ông không còn dáng vẻ chú cảnh sát thân thiện nhà bên nữa mà đã biến thành một tay cảnh sát ngửi thấy mùi tội phạm thực thụ.
“Đêm may mắn của chúng ta đây rồi,” Fred nói và hất đầu về phía gã khổng lồ đang tóm cổ một cô gái đang sợ chết khiếp. “Tôi đã nhắm thằng khốn kia hàng năm nay. Khỏi cần đọc quyền cho hắn nghe. Việc đó có thể chờ đến khi hắn dập đầu trong buồng giam.”
Fred lôi dùi cui của mình ra, nhảy khỏi bóng tối và bắt đầu chạy về phía kẻ tấn công, khiến vài cô gái khác tản đi các hướng như bầy bồ câu ngay khi trông thấy ông. William chạy theo và nhanh chóng vượt qua bậc tiền bối, một người không chỉ già hơn anh ba mươi tuổi mà còn không phải là quán quân môn chạy một trăm mét thời năm cuối trung học.
Tên ma cô nhìn quanh, và khi trông thấy William đang lao về phía mình, hắn thả cô gái, làm cô ngã đập đầu gối xuống đất khóc thút thít. Đó là lúc William trông thấy con dao, nhưng anh chỉ còn cách hắn vài bước chạy và đã quyết tâm lao vào gã. Anh thụp xuống thật thấp, đạp vào gã kia ngay dưới đầu gối, khiến cả hai ngã ra vỉa hè. Đến lúc William hồi lại được thì gã kia đã đứng dậy. William giơ một cánh tay theo bản năng để bảo vệ mình khỏi con dao đang chém tới. Điều cuối cùng anh nhớ được là cú sốc khi lưỡi dao chém vào ngực anh.
“Cảnh sát bị thương, cảnh sát bị thương! Cần hỗ trợ khẩn cấp ở đường Luscombe!” Fred thét lên trong điện đàm khi ông lao vào kẻ tấn công.
Mắt anh choàng mở. Anh chớp mắt và nhìn quanh căn phòng lạ lẫm. Cha mẹ và chị gái anh đang đứng ở bên cạnh giường, một sĩ quan cảnh sát mà anh không nhận ra đang đứng canh cửa. Hai ngôi sao ở mỗi bên cầu vai cho anh biết rằng ông ta là một chánh thanh tra.
William dành cho gia đình mình một nụ cười yếu ớt khi anh cố ngồi dậy, nhưng chỉ gượng được vài phân, đột nhiên nhận ra ngực mình đang được băng bó dày khừ. Anh lại thả người xuống.
“Fred thế nào rồi?” Là những lời lắp bắp đầu tiên của anh.
Không ai trong số họ có vẻ muốn trả lời câu hỏi. Cuối cùng sĩ quan cảnh sát kia cũng bước tới và nói, “Tôi là Chánh thanh tra Cuthbert, và tôi rất tiếc vì điều này Cảnh sát Warwick, nhưng tôi phải hỏi cậu vài câu về chuyện đã xảy ra đêm thứ Bảy, vì như cậu đã biết rõ, chúng tôi không thể giữ nghi phạm quá hai mươi tư giờ trừ khi có đủ bằng chứng để buộc tội chúng.”
“Tất nhiên rồi, thưa ngài,” William nói, một lần nữa cố ngồi dậy.
Chánh thanh tra mở một chiếc phong bì lớn màu nâu và lấy ra vài bức ảnh đen trắng chụp những người đàn ông khác nhau, một trong số chúng là kẻ William sẽ không bao giờ quên.
“Đây có phải là người cậu đã cố bắt giữ vào đêm thứ Bảy không?” Cuthbert hỏi.
Wlliam gật đầu. “Nhưng tại sao ông lại cần hỏi tôi, Fred có thể đích thân nhận diện gã mà?”
Chánh thanh tra Cuthbert vẫn im lặng khi ông nhét những bức ảnh vào lại phong bì.
Nhà thờ giáo xứ Thánh Michael và Thánh George hiếm khi đông đủ, kể cả trong dịp hoà nhạc Giáng sinh thường niên của ngài thị trưởng đi chăng nữa, nhưng vào dịp này các hàng ghế đã đầy chặt người từ rất lâu trước khi dàn đồng ca tiến vào gian giữa. Cảnh sát Fred Yates QGM1 đã được hưởng một tang lễ theo nghi thức cảnh sát trọn vẹn, trong khi các sĩ quan danh dự mặc đồng phục đứng xếp hàng hai bên lối vào nhà thờ.
1 Huân chương Cao thượng của Nữ hoàng
Đám rước linh cữu được những cảnh sát đau buồn hộ tống, và quan tài Fred được phủ trong lá cờ màu xanh dương và bạc của lực lượng Cảnh sát Đô thị, cùng với Huân chương Cao thượng của Nữ hoàng và một chiếc cúp bạc đặt bên trên. Bên trong nhà thờ, các sĩ quan cấp cao ngồi hàng đầu, trong khi những người không tìm được chỗ ngồi đành phải đứng ở đằng sau. William được cha anh đẩy dọc lối đi trên một chiếc xe lăn, và cả giáo đoàn đứng dậy chào đón anh. Người trông coi nhà thờ dẫn lối cho họ tới chỗ đã được dành sẵn ở hàng ghế đầu.
Ông ấy là tượng đài của lòng dũng cảm…
William đã rất cố gắng, cho đến khi cỗ quan tài được tám sĩ quan kê vai từ từ đưa xuôi lối đi về phía thánh đường, thì anh đã không thể nén được những giọt nước mắt nữa. Tu sĩ đứng trên cung thánh và đọc những lời cầu nguyện cho người dân ở khu Fred từng sống, rất nhiều người trong số họ hiếm khi, ấy là nếu có, tham dự một buổi lễ nhà thờ. Họ đã tới để tỏ lòng biết ơn, mặc dù vài người trong số họ thậm chí không biết tên đệm của Fred. William nhìn quanh và nhận ra bà Perkins trong số những người đến đưa tang.
Nay thành kẻ hành hương…
Khi giáo đoàn quỳ xuống đề cầu nguyện, William cúi đầu và nhớ lại những lời Fred nói: “Tôi thích tự huyễn rằng mình đã tạo ra một sự khác biệt.” Anh chỉ ước gì Fred đã có thể chứng kiến sự khác biệt mà ông đã tạo ra.
Các bài thánh ca được đồng nghiệp và bạn bè của Fred hát nhiệt thành, một điều mà William biết rằng Fred sẽ rất biết ơn, mặc dù ông sẽ mô tả bài điếu văn do cảnh sát trưởng đọc là nói quá lên. William có thể nghe thấy tiếng Fred đang cười khùng khục khi ngài sĩ quan nói về những lần được tuyên dương của ông. “Thế còn những lần tôi bị đình chỉ thì sao?” Anh có thể nghe tiếng ông đang hỏi.
Sau khi linh mục đã cầu nguyện lần cuối cùng, giáo đoàn đứng dậy và những người hộ tang quay về với nhiệm vụ của họ, chở cỗ quan tài quay lại lối đi và ra khỏi nhà thờ tới huyệt mộ. William cố đứng lên khi quan tài đi qua, nhưng anh còn chưa tự gắng sức được cho đến khi trung sĩ và chỉ huy đồn đến bên trợ giúp.
Khi họ về nhà vào tối đó, cha anh gợi ý nếu William cảm thấy mình phải rời khỏi ngành thì đó cũng không phải là việc gì đáng xấu hổ. Ông chắc chắn các đồng nghiệp của anh sẽ hiểu. “Con có thể đi học lớp buổi tối, học luật, và gia nhập văn phòng luật sư với ta, nơi con vẫn tiếp tục chiến đấu với tội phạm, nhưng là trong vòng an toàn của toà án vào ban ngày, chứ không phải ở trên phố vào ban đêm.”
William biết cha mình đã đúng. Nhưng chính Fred mới là người được nói lời cuối cùng.
“Có thể chúng ta đến từ hai cuộc đời đối ngược, Cậu bé đồng ca ạ,” Fred nói, “nhưng chúng ta có một điểm chung – hai ta đều điên điên, ít nhất chúng ta cũng đang làm công việc mà định mệnh đã dành cho ta.”