• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Dấn thân
  3. Trang 8

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 39
  • Sau

Chương 4

Khi Cảnh sát Warwick ra khỏi ga tàu ngầm Công viên St James, thứ đầu tiên anh trông thấy ở đầu đường bên kia là tấm biển xoay hình tam giác nổi danh đề New Scotland Yard. Anh nhìn quanh với vẻ choáng ngợp và e dè, như một nam diễn viên đầy tham vọng đang tiến dần tới Rạp hát Quốc gia, hay một nghệ sĩ đang tiến vào sân trường Học viện Hoàng gia lần đầu tiên. Anh kéo cổ áo lên để bảo vệ mình trước cái lạnh cắt da thịt, và gia nhập dòng người đi làm buổi sáng sớm đông như chuột.

William đi ngang Broadway và tiếp tục đi bộ về phía tổng hành dinh của Lực lượng Cảnh sát Đô thị, một toà nhà mười chín tầng đã nhiều năm phủ dày bụi bặm và tội ác. Anh giơ thẻ chứng nhận của mình cho viên cảnh sát canh cửa, và hướng tới bàn lễ tân. Một phụ nữ trẻ mỉm cười với anh.

“Tôi là Cảnh sát Warwick. Tôi có hẹn với Chỉ huy Hawksby.”

Cô ta rà một ngón tay xuống lịch làm việc buổi sáng.

“À, phải. Văn phòng của chỉ huy trên tầng năm, cuối hành lang.”

William cảm ơn cô ta và đi tới chỗ dãy thang máy, nhưng khi anh thấy có quá nhiều người đang chờ ở đó, anh quyết định sẽ đi cầu thang bộ. Khi anh lên được tầng một, MA TUÝ, anh tiếp tục trèo lên. Anh đi qua LỪA ĐẢO ở tầng hai, và ÁN MẠNG ở tầng ba, cuối cùng cũng đến được tầng năm, nơi anh được đón chào bằng tấm biển RỬA TIỀN, NGHỆ THUẬT VÀ CỔ VẬT.

Anh đẩy mở cánh cửa dẫn vào một hành lang dài và sáng sủa. Anh đi thật chậm, ý thức được rằng mình vẫn còn chút ít thời gian để tiêu phí. Đến sớm một chút còn hơn là đến muộn, theo lời răn của Thánh Julian. Đèn chiếu sáng rực ở mọi văn phòng anh đi qua. Cuộc chiến chống lại tội ác không thiết gì đến giờ giấc. Một cánh cửa hé mở, và William nín thở lúc trông thấy một bức tranh được treo trên bức tường đằng xa.

Hai người đàn ông và một cô gái trẻ đang quan sát tỉ mỉ bức tranh.

“Làm tốt lắm, Jackie,” ông già nói bằng giọng Scotland đặc trưng. “Một chiến thắng cá nhân.”

“Cảm ơn ngài,” cô gái đáp lại.

“Hãy hi vọng,” người trẻ hơn nói lúc chỉ vào bức tranh, “cái này sẽ nhốt được Faulkner sau chấn song trong ít nhất sáu năm. Có Chúa mới biết chúng ta đã chờ biết bao lâu để tóm được tên khốn ấy.”

“Đồng ý, thanh tra Hogan,” người già hơn nói, ông quay người lại và trông thấy William đang đứng ở ngưỡng cửa. “Tôi giúp gì cho cậu được nhỉ?” Ông hỏi gằn giọng.

“Không ạ, cảm ơn ngài.”

Trong khi vẫn còn là cảnh sát quèn, Fred đã cảnh báo anh, thì phải gọi bất kì cái gì biết đi là “ngài.” Như thế anh sẽ không thể nói sai được. “Tôi chỉ đang ngắm bức tranh thôi.” Người đàn ông lớn tuổi sắp sửa đóng cánh cửa lại thì William nói thêm, “tôi đã từng trông thấy bản gốc.”

Cả ba sĩ quan đều quay lại để nhìn kĩ hơn kẻ xâm nhập.

“Đây là tranh gốc mà,” cô gái trẻ nói, nghe có vẻ khó chịu.

“Không thể nào,” William nói.

“Điều gì làm cho cậu chắc chắn thế?” Đồng nghiệp của cô ta hỏi.

“Bản gốc từng được treo trong Viện bảo tàng Fitzmolean ở Kensington vài năm trước khi nó bị đánh cắp. Vẫn chưa ai phá được vụ án ấy.”

“Chúng tôi chỉ vừa mới phá vụ án ấy,” người phụ nữ nói vẻ buộc tội.

“Tôi không nghĩ vậy,” William đáp. “Tranh gốc được Rembrant kí ở góc phải bên dưới bằng chữ viết tắt tên ông ấy, RvR.”

Cả ba cảnh sát cùng nhìn vào góc bên phải của tấm vải, nhưng không có dấu hiệu gì của bất kì chữ cái nào hết.

“Giám đốc bảo tàng Fitzmolean là Tim Knox mấy phút nữa sẽ đến gặp chúng tôi, chàng trai ạ,” ông già bảo. “Tôi nghĩ tôi sẽ dựa vào đánh giá của ông ta thay vì của cậu.”

“Tất nhiên rồi, thưa ngài,” William nói.

“Cậu có biết bức tranh này đáng giá bao nhiêu không đấy?” Cô gái hỏi.

William bước hẳn vào phòng và nhìn kĩ hơn. Anh nghĩ tốt nhất không nên nhắc cô ta nhớ lại lời nhận xét của Oscar Wilde về sự khác biệt giữa giá trị và giá cả.

“Tôi không phải chuyên gia,” anh nói, “nhưng tôi đoán rằng đâu đó giữa hai tới ba trăm ngàn bảng.”

“Thế còn tranh gốc?” Người phụ nữ trẻ nói, không còn quá tự tin nữa.

“Không biết, nhưng mọi phòng trưng bày lớn trên trái đất này sẽ đều muốn thêm một kiệt tác như thế vào bộ sưu tập của họ, đó là còn chưa kể tới vài nhà sưu tập hàng đầu, những người mà tiền không phải là vấn đề với họ.”

“Vậy là cậu không biết tí gì về giá trị của nó?” Sĩ quan trẻ hơn hỏi.

“Không, thưa ngài. Một tác phẩm của Rembrandt với chất lượng như thế này hiếm khi xuất hiện ở thị trường mở. Bức cuối cùng từng được đem ra đấu giá là ở Sotheby Parke Bernet ở New York.”

“Chúng tôi biết nhà Sotheby Parke Bernet là ở đâu,” người già hơn nói, không hề che giấu vẻ giễu nhại của mình.

“Vậy thì ngài hẳn sẽ biết nó đã được bán với giá hai mươi ba triệu đô la,” William nói, lập tức thấy hối hận vì những lời của mình.

“Tất cả chúng tôi đều biết ơn ý kiến của cậu, chàng trai trẻ, nhưng đừng để chúng tôi giữ chân cậu lâu hơn nữa, vì tôi chắc chắn cậu có nhiều việc quan trọng hơn phải làm,” ông ta nói và hất đầu về phía cửa.

William cố rút lui một cách lịch thiệp khi bước trở lại hành lang, nhưng chỉ nghe thấy tiếng cửa đóng sập lại sau lưng mình. Anh xem đồng hồ: 7 giờ 57. Anh vội vã đi về cuối hành lang, không muốn bị muộn trong cuộc hẹn của mình.

Anh gõ cánh cửa có gắn hàng chữ mạ vàng, “Chỉ huy Jack Hawksby OBE1”, và bước vào trong thì thấy một cô thư kí đang ngồi sau chiếc bàn giấy. Cô ngừng tay đánh máy, nhìn lên và nói, “Cảnh sát Warwick?”

1 Huân chương Đế quốc Anh

“Vâng,” William hồi hộp trả lời.

“Ngài chỉ huy đang chờ anh. Mời đi thẳng vào trong,” cô ta nói và chỉ vào một cánh cửa khác.

William gõ cánh cửa thứ hai, chờ đến khi nghe thấy tiếng, “Vào đi.”

Một người đàn ông trung niên ăn mặc gọn gàng với cặp mắt xanh xuyên thấu và vầng trán nhiều nếp nhăn, khiến cho ông có vẻ già hơn tuổi thật, đứng dậy từ đằng sau bàn làm việc. Hawksby bắt tay William và chỉ vào một cái ghế ở bên kia bàn. Ông mở một tập tài liệu rồi đọc nó vài phút trước khi cất lời. “Hãy để tôi bắt đầu bằng cách hỏi có khi nào anh có quan hệ gì đấy với Cố vấn của Nữ hoàng, Sir Julian Warwick không?”

Tim William trùng xuống. “Ông ấy là cha tôi,” anh nói, đoán rằng cuộc phỏng vấn này rồi sẽ sớm kết thúc.

“Một con người tôi hết sức ngưỡng mộ,” Hawksby nói. “Không bao giờ phá luật, không bao giờ lách luật, nhưng vẫn biện hộ cho những kẻ bịp bợm đáng ngờ nhất như thể chúng là những vị thánh, và tôi đoán là ông ấy đã không gặp được nhiều vị thánh cho lắm trong sự nghiệp của mình.” William cười lo lắng.

“Tôi đã muốn gặp cậu,” Hawksby nói tiếp, rõ ràng ông không thuộc tuýp người thích tán gẫu, “vì cậu đã đỗ điểm cao nhất trong kì thi thanh tra, và còn có khoảng cách đáng kể nữa.”

William thậm chí không nhận ra mình đã đỗ.

“Chúc mừng cậu,” ngài chỉ huy nói thêm. “Tôi cũng đã để ý thấy cậu là một cử nhân, nhưng lại chọn không tận dụng cơ chế vượt cấp của chúng ta.”

“Không, thưa ngài. Tôi chỉ muốn…”

“Tự chứng tỏ bản thân. Như chính tôi đã làm. Nào, như cậu đã biết, Warwick ạ, nếu cậu muốn được làm thanh tra, cậu sẽ phải được chuyển tới một đơn vị khác. Sau khi cân nhắc đến chuyện đó, tôi đã quyết định sẽ cử cậu tới Peckham để học hỏi mấy điều căn bản. Nếu cậu làm tốt, tôi sẽ gặp lại cậu vài năm tới, rồi tôi sẽ quyết định liệu cậu đã sẵn sàng gia nhập với chúng tôi ở Scotland Yard hay chưa, và nhận nhiệm vụ ở các phòng tội phạm cấp cao, hay là cậu vẫn nên ở lại vòng ngoài và tiếp tục học việc.”

William mỉm cười và ngồi thẳng lại trên ghế, nhưng anh lại bị sốc trước câu hỏi tiếp theo của ngài chỉ huy.

“Cậu có tuyệt đối chắc chắn muốn làm thanh tra không?”

“Có, thưa ngài. Từ thuở lên tám.”

“Cậu sẽ không phải đối phó với loại tội phạm cổ cồn trắng như cha cậu thường gặp phải đâu, mà là những kẻ cặn bã nhất trên mặt đất này. Người ta sẽ cần cậu phải quen với tất cả mọi chuyện từ vụ một bà mẹ bụng mang dạ chửa tự tử vì không thể chịu nổi cảnh bị bạn đời bạo hành thêm nữa, tới việc tìm thấy một gã nghiện tuổi không lớn hơn cậu là bao với mũi kim tiêm vẫn còn thò ra trên cánh tay. Thú thực nhé, không phải lúc nào cậu cũng sẽ ngủ ngon được đâu. Và lương của cậu còn thấp hơn cả một quản lí ở Tesco nữa.”

“Ngài nói nghe giống hệt cha tôi, thưa ngài, và ông ấy đã không thể làm tôi chùn bước.”

Ngài chỉ huy đứng dậy. “Quyết định thế nhé, Warwick. Tôi sẽ gặp cậu trong hai năm nữa.” Họ cùng bắt tay nhau; cuộc phỏng vấn bắt buộc đã xong.

“Cảm ơn ngài,” William nói. Sau khi lặng lẽ đóng cánh cửa lại, anh đã muốn nhảy cẫng lên và hét Hallelujah, cho đến khi trông thấy ba bóng người đang đứng ở văn phòng bên ngoài nhìn thẳng vào mình.

“Tên và cấp bậc?” Người già hơn mà anh vừa gặp lúc nãy hỏi.

“Warwick, thưa ngài. Cảnh sát William Warwick.”

“Hãy đảm bảo là Cảnh sát Warwick không đi đâu hết, trung sĩ,” ông già nói với cô gái trẻ, rồi gõ cửa phòng chỉ huy và đi vào.

“Chào anh, Bruce,” Hawksby nói. “Tôi nghe nói anh sắp sửa bắt được Miles Faulkner. Cũng không sớm sủa lắm nhỉ.”

“Tôi e là không, thưa ngài. Nhưng đó không phải lí do tại sao tôi muốn gặp ngài…” là tất cả những gì William nghe được trước khi cánh cửa đóng lại.

“Ông ấy là ai vậy?” William hỏi cô gái.

“Chánh thanh tra Lamont. Ông ấy phụ trách đội Nghệ thuật và Cổ vật và nhận lệnh trực tiếp từ Chỉ huy Hawksby.”

“Cô cũng làm việc cho đội nghệ thuật à?”

“Phải. Tôi là thanh tra Roycroft, ngài chánh thanh tra là sếp của tôi.”

“Tôi đang gặp rắc rối à?”

“Đến tận cổ rồi, cảnh sát ạ. Cứ cho là tôi mừng vì không lâm vào cảnh của cậu.”

“Nhưng tôi chỉ đang cố giúp…”

“Và nhờ vào sự giúp sức ấy, một tay cậu đã vừa đánh chìm một điệp vụ ngầm kéo dài sáu tháng.”

“Như thế nào kia?”

“Tôi nghĩ là cậu sắp biết rồi đó,” thanh tra Roycroft nói khi cánh cửa mở toang và chánh thanh tra Lamont trở ra, lừ mắt nhìn William.

“Mời vào, Warwick,” ông ta bảo. “Ngài chỉ huy muốn nói thêm đôi lời với cậu.”

William ngập ngừng bước vào văn phòng Hawksby, đoán là mình sắp được bảo phải quay về làm nhiệm vụ ngoài đường. Nụ cười của ngài chỉ huy đã được thay thế bằng một cái nhìn u ám, và lần này ông ta còn không buồn bắt tay với CS 565LD.

“Cậu thật rắc rối, Warwick,” ông ta nói, “và tôi có thể nói cho cậu biết ngay bây giờ, cậu sẽ không tới Peckham.”