• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Dấn thân
  3. Trang 29

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 28
  • 29
  • 30
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 28
  • 29
  • 30
  • More pages
  • 39
  • Sau

Chương 25

Sir Julian, Grace và William tự đến Nhà tù Pentoville bằng các phương tiện vận chuyển khác nhau: William đi xe buýt từ Fulham tới – phải đổi hai tuyến; Grace đi tàu điện ngầm từ Notting Hill – một tuyến; còn Sir Julian thì ngồi ô tô có tài xế riêng chở từ Shoreham ở Kent đến.

Cả ba cha con gặp nhau trong phòng tiếp tân, ở đó một quản giáo cho phép họ vào trong.

“Rainsford đang chờ ông,” quản giáo nói trước khi đi cùng họ vào phòng thẩm vấn. Arthur Rainsford đứng dậy khi họ đi vào buồng kính và bắt tay cả ba vị khách của ông.

“Tôi không biết phải cảm ơn lòng tốt của ông bao nhiêu, thưa Sir Julian,” ông ta nói. “Tôi cảm thấy mình đã quen biết con trai ông rồi bởi vì cứ hễ Beth đến thăm tôi là con bé lại toàn nói về cậu ấy. Dù tôi cảm thấy chuyện con gái mình phải lòng một chàng thanh tra cảnh sát có phần châm biếm, quá khứ của tôi với cảnh sát đã không vui vẻ cho lắm.”

“Cháu nghĩ chú sẽ phát hiện ra chính cháu mới là người phải lòng cô ấy,” William nói, khi hai người bắt tay và cùng ngồi xuống ghế. “Nhân tiện, cô ấy gửi tình yêu của mình đến chú, và đang mong đến lúc gặp chú vào thứ Bảy này.”

“Cảm ơn cậu,” Rainsford nói. “Tôi cũng mong gặp con bé lắm.”

Đến tận lúc này Sir Julian vẫn không nói gì, dù mắt ông không lúc nào rời khỏi tù nhân mà ông đang cố đánh giá, điều ông luôn làm mỗi lần đầu gặp thân chủ tiềm năng. Từ bản án, ông biết Rainsford năm mươi ba tuổi, cao gần một mét tám, và đã bị gãy mũi từ những ngày còn chơi đấm bốc ở trường đại học. Ông đoán tóc Rainsford mới chuyển bạc từ ngày phải ngồi tù. Ông ta có dáng vẻ khoẻ mạnh, điều đó cho thấy rằng ông đã dành những giờ tự do của mình mỗi chiều trong phòng tập thay vì đi dạo vòng quanh sân để hút thuốc, và cũng cho thấy ông ta đã tránh thực đơn thường lệ của tù nhân gồm xúc xích, đậu hầm và khoai tây chiên. Ông ta ăn nói nhẹ nhàng, rõ ràng là có học thức, và chắc chắn không giống kẻ giết người. Tuy nhiên, Sir Julian đã học được từ kinh nghiệm nhiều năm rằng những tên sát nhân có đủ mọi hình dạng và kích cỡ, đôi khi còn có cả những tấm bằng danh dự hạng nhất, vài kẻ khác thì bỏ học từ thưở mười bốn.

“Ông Rainsford ạ, tôi đã…” Sir Julian mở lời.

“Làm ơn gọi tôi là Arthur.”

“Ông Rainsford, tôi đã đọc bản cáo trạng của ông tại toà hết sức cẩn thận, nghiên cứu bằng chứng bên Nguyên đưa ra, cân nhắc lời khai của ông trên bục nhân chứng, và đọc từng chữ một trong bản nhận tội của ông. Tuy nhiên, vì đây là lần đầu tiên tất cả chúng tôi tới gặp ông, tôi mong được nghe câu chuyện từ phía ông. Xin thứ lỗi nếu thi thoảng tôi có cắt ngang để yêu cầu ông làm rõ một điểm nào đó hay để đặt câu hỏi.”

“Tất nhiên rồi, Sir Julian. Tôi sinh ra ở Epsom, cha tôi làm bác sĩ đa khoa, và từ lúc tôi còn nhỏ ông ấy đã hi vọng tôi sẽ nối nghiệp mình. Tôi học đủ giỏi để giành được một suất học y tại trường Đại học1 Bệnh viện, cha tôi đã rất hài lòng. Nhưng chẳng bao lâu tôi đã phát hiện ra mình không hợp để trở thành một bác sĩ. Vì vậy, trước sự thất vọng não nề của cha, tôi treo chiếc áo blouse trắng để đổi lấy một chiếc áo choàng dài màu đen và chuyển sang LSE2 để học kinh tế học, chuyên ngành tôi đã yêu thích ngay từ bài giảng mở đầu.”

1 Từ gốc University College chỉ một loại trường đại học nhỏ hơn nằm trong một trường Đại học đầy đủ chức năng. Trong trường hợp này University College Hospital trực thuộc Đại học London.

2 Trường Kinh tế và Khoa học chính trị London

“Sau khi tốt nghiệp tôi vào Ngân hàng Barclays để thực tập, nhưng một lần nữa tôi nhanh chóng nhận ra mình không có bản năng làm việc trong các tập đoàn lớn. Vậy là tối tôi quay lại LSE và lấy tấm bằng kinh doanh, đó là cách tôi khám phá ra thiên hướng của mình. Với quá nhiều hoá đơn và quá ít thu nhập, tôi vào làm ở một ngân hàng thương mại trong Thành phố.”

“Ngân hàng nào?” Sir Julian hỏi.

“Kleinwort Benson. Tôi bắt đầu cuộc sống trong phòng khách hàng lẻ của họ, và dành ba năm tiếp theo giúp các vị khách của ngân hàng mở rộng công việc kinh doanh. Không có gì đem lại niềm vui cho tôi hơn là được trông thấy họ mỗi ngày một phát đạt.

Lúc đó tôi có hai người bạn thân, Hamish Galbraith, một cậu bạn học cũ, và Gary Kirkland, người tôi đã gặp ở LSE. Hamish vào John Lewis để làm thực tập sinh quản lí sau khi tốt nghiệp. Cậu ấy có mắt nhìn người, và có tài nhận ra ưu điểm của người khác. Gary thì thông minh hơn hai chúng tôi nhiều, nhưng lại dành phần lớn quãng đời sinh viên để uống rượu và chơi bời. Thú thực tôi đã rất ngạc nhiên vì cậu ta tốt nghiệp được, chứ đừng nói là còn gần đứng đầu niên khoá. Cậu ta trở thành kế toán trong Thành phố và thích đọc các bảng biểu hơn cả đọc tiểu thuyết.

Một tối thứ Sáu khi tất cả chúng tôi lỡ uống quá chén, Hamish đã nói rằng chúng tôi nên khởi nghiệp làm ăn riêng. Tôi dành cuối tuần đó tự hỏi liệu cậu ấy có nói đúng không. Rốt cuộc, ba năm qua tôi đã khuyên nhủ những người khác cách để mở rộng công ty họ, vậy thì có lẽ tôi đã sẵn sàng tự khởi nghiệp. Tôi chuẩn bị một bản kế hoạch chi tiết tương tự như thứ tôi mong chờ từ bất kì vị khách hàng tiềm năng nào, với chính mình là người bán hàng, Hamish là giám đốc điều hành của công ty và Gary là kế toán. Rồi tôi trình bày suy nghĩ của mình với hai đối tác tương lai.”

“Kết quả thế nào?” Sir Julian hỏi.

“Tất nhiên cả hai đều muốn biết công ty sẽ làm gì. Tôi nói với họ chúng tôi nên mở một công ty đầu tư vào thời trang và tận dụng kiến thức cũng như các mối quan hệ của tôi trong lĩnh vực y tế. Vào thời điểm đó đã có vài khám phá thú vị xuất hiện, đem lại những cơ hội đầu tư hứa hẹn.

Mất thêm sáu tháng nữa trước khi ba chúng tôi có đủ dũng khí để nộp đơn xin thôi việc, và kể cả khi ấy có thể tôi đã không làm vậy nếu không phải vì sếp của tôi ở Kleinwort đã khuyến khích tôi, và đề nghị góp một khoản vốn ban đầu để đổi lấy năm mươi phần trăm cổ phần của công ty.”

Grace bận bịu ghi chép; William muốn hỏi vài câu; trong lúc đó Sir Julian ngồi và chỉ chăm chú lắng nghe như một chú nhân sư.

“Chúng tôi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn RGK năm 1961, và thuê vài phòng ở Marylebone, nhưng chỉ đủ trả lương cho một thư kí chung. Tôi đi khắp đất nước để gặp gỡ các bác sĩ và bệnh viện, đồng thời tham dự những buổi hội thảo y khoa. Công ty chỉ vừa hoà vốn trong năm năm đầu tiên, nhưng tất cả đã thay đổi sau một đêm khi tôi đầu tư ít tiền của khách hàng vào một hãng dược nhỏ chẳng bao lâu trước khi nó phát triển được các loại thuốc chặn beta. Năm tiếp theo chúng tôi thu về mười bốn phần trăm lợi nhuận cho các nhà đầu tư, và đột nhiên chúng tôi thành người được săn đón, với những nhà đầu tư tiềm năng cũng như các nhà nghiên cứu cần vốn.

Chúng tôi kỉ niệm mười năm thành lập công ty bằng cách mua lại năm mươi phần trăm cổ phần từ Kleinwort và thuê thêm một tầng nữa ở Marylebone.”

Giờ thì William đã có vài câu mà anh tha thiết muốn hỏi, nhưng một cái liếc nhìn của chị gái đã nhắc anh nhớ rằng làm thế là không khôn ngoan chút nào.

“Trong mấy năm tiếp theo, Beth là điều duy nhất lớn nhanh hơn công ty. Bất chấp những bất ổn kinh tế trong thập kỉ bảy mươi, chúng tôi vẫn cảm thấy tự tin vào tương lai. Tuy nhiên, tôi đã không thấy được vấn đề, kể cả khi nó hiện lồ lộ trước mắt. Tôi đã biết hôn nhân của Gary có trục trặc, và đáng lẽ không nên ngạc nhiên khi nó kết thúc bằng một vụ li dị đắt đỏ. Trong những năm sau đó tôi chứng kiến biết bao người phụ nữ đến và đi nhưng không phải lúc nào cũng nhớ được tên của họ. Nhưng tôi đã không nói gì cả, thậm chí khi hành vi của anh ta ở văn phòng làm cho một cô thư kí trẻ phải nghỉ việc, và một người khác thì doạ sẽ kiện công ty, chúng tôi rốt cuộc phải dàn xếp bên ngoài toà án.

Tôi vẫn còn rong ruổi năm ngày mỗi tuần để thúc đẩy việc kinh doanh, nên tôi không nhận thức được trọn vẹn vấn đề cho đến tối hôm có tiệc Giáng sinh ở văn phòng, lúc ấy Gary đã say khướt và tấn công cô thư kí của tôi, người đã có gia đình. Cô ấy từ chức ngay ngày hôm sau, và công ty phải đưa ra một số tiền bồi thường thoả đáng sau khi cô ấy đồng ý kí thoả thuận giữ kín bí mật.

Hamish và tôi đã nói rõ với Gary rằng nếu ông ta còn đi quá giới hạn một lần nữa, ông ta sẽ phải từ chức. Công bằng mà nói, chúng tôi chưa từng nghe thêm một lời phàn nàn nào nữa kể từ lúc ấy, và vài năm sau Gary tuyên bố ông ta đã đính hôn với tình yêu của đời mình, và mong chờ được tái hôn, và cuối cùng là ổn định cuộc sống.

Hôn thê của ông ta, Bridget, là người quyến rũ và thông minh, làm người ta có ấn tượng rằng cô ta yêu Gary hết lòng. Nhưng hoá ra cô ta chỉ quan tâm đến tiền của ông ta, và chẳng mấy chốc đã lột sạch tài khoản ngân hàng của vị hôn phu. Sau đó cô ta huỷ hôn và lên đường tìm kiếm nạn nhân tiếp theo, bỏ lại Gary thu gom từng mảnh vụn cuộc đời. Buồn thay, chẳng mấy chốc văn phòng lại bắt đầu phàn nàn về hành vi của ông, kể cả khi ông ta tỉnh táo. Nhưng khi Beth kể với tôi sau lần bỏ về từ một bữa tiệc rằng giờ con bé đã hiểu tại sao ông ta nổi tiếng trong văn phòng là ‘bàn tay lang thang’, cuối cùng tôi đã mất kiên nhẫn và chấp nhận rằng ông ta phải ra đi.

Đáng lẽ tôi đã yêu cầu ông ta từ chức ngay hôm sau nếu không phải vì có cái hẹn ở Coventry với một nhà đầu tư tiềm năng, người đã nằm trong sổ nhật kí của tôi cả tháng trước đó. Tôi gọi Hamish để cho ông ấy biết ý định của mình, và chúng tôi nhất trí rằng nên chờ đến khi về lại văn phòng vào ngày hôm sau, để cùng đưa ra tối hậu tư cho Gary. Từ chức hay bị sa thải.

Tôi đã có một cuộc họp tốt đẹp với khách hàng mới tiềm năng, và mời ông ta đi ăn trưa sau đó. Trong lúc uống cà phê ông ta có nhắc đến con số ông dự định đầu tư vào RGK, một con số nhiều hơn mức tôi đã dự đoán.

Nhưng khi tôi đưa thẻ tín dụng công ty ra để trả tiền cho bữa ăn, một anh bồi bàn ngại ngần đã trở lại vài phút sau đó và thì thầm là nó bị từ chối. Không phải một tình huống hay trước mặt nhà đầu tư hứa hẹn. Tôi trả bằng thẻ cá nhân, nhưng sự việc đã không thể cứu vãn. Tôi gọi cho quản lý ngân hàng của mình từ nhà ga và đòi giải thích. Rốt cuộc, công ty đã báo lãi hơn một triệu bảng năm trước. Ông ta báo với tôi là chúng tôi đã dùng vượt hạn mức tín dụng, và rằng ông ta đã nói chuyện với ông Kirkland về tình hình này mấy lần rồi.

Tôi lập tức gọi cho Gary và ông ta chối bay chối biến. Ông ta bảo tôi ghé qua trên đường về nhà, và ông ta sẽ giải thích mọi chuyện. Ngay khi xuống tàu ở Euston, tôi đã bắt taxi tới văn phòng.

Khi tôi đang mở cửa trước, một người đàn ông thấp lùn mập mạp mà tôi tưởng là mình biết rõ đã chạy ào qua tôi và lao ra phố. Tôi chạy lên văn phòng Gary ở tầng một và thấy ông ta đang nằm thẳng cẳng trên thảm.

Tôi vội chạy đến, nhưng không cần bằng y khoa tôi cũng nhận ra rằng ông ta đã chết. Cằm ông ta đã bị vỡ, và có một vết nứt sâu ở sau đầu ông ta. Tôi định gọi cảnh sát thì nghe thấy một hồi còi hụ bên ngoài, và chỉ vài giây sau nửa tá cảnh sát đã lao vào trong phòng, thấy tôi đang quỳ bên thi thể. Điều tiếp theo tôi biết là một trong số họ đọc quyền của tôi lên.”

“Lúc ấy ông có nói gì không?” Sir Julian hỏi.

“Chỉ nói rằng họ đã bắt nhầm người. Tôi đã tưởng toàn bộ vấn đề sẽ nhanh chóng được làm sáng tỏ. Tôi được đưa đến đồn cảnh sát gần nhất, bỏ mặc một mình trong buồng giam vài tiếng. Cuối cùng tôi được mang vào một phòng thẩm vấn, nơi có sẵn hai thanh tra đang đợi tôi.”

“Đó có phải là thanh tra Stern và thanh tra Clarkson không?” Sir Julian hỏi.

“Đúng vậy, tôi kể cho họ nghe chính xác chuyện gì đã xảy ra, nhưng hiển nhiên là họ đã có phán quyết trong đầu rồi, và không có điều gì thuyết phục được họ. Nhưng họ đã lỡ lời trong buổi thẩm vấn rằng họ nhận được tin báo từ một người gọi nặc danh, điều đó giải thích tại sao cảnh sát lại tới nhanh như vậy.”

Grace ghi một lời nhắn rồi đẩy nó qua bàn về phía cha mình, ông đọc nó chăm chú.

“Và trong phiên toà ông đã chỉ ra rằng đây chính là bằng chứng không thể chối cãi rằng chắc hẳn phải có kẻ nào khác đã giết cộng sự của ông.”

“Đúng, tôi cũng nói rằng có thể chính kẻ đã chạy ra khỏi toà nhà là người gọi điện cho họ, nhưng họ không chịu lắng nghe.”

“Rồi chuyện gì xảy ra?”

“Stern hỏi tôi liệu tôi có sẵn sàng kí vào tờ khai không. Tất nhiên là tôi kí, vì tôi đâu có gì phải giấu. Ông ta ghi lại lời tôi kể, tôi đã kiểm tra từng trang một trước khi kí nó, càng thận trọng hơn bởi tôi có thể ngửi thấy mùi cồn trong hơi thở ông ta.”

Grace lại ghi một lời nhắn khác.

“Trong suốt phiên toà ông tuyên bố lời khai gốc của mình dài ba trang, trong khi đó phiên bản được đọc ở toà chỉ có hai. Vậy tôi phải hỏi, ông Rainsford, ông có kí cả ba trang không?”

“Có chứ. Hai trang đầu với các chữ cái A R, nhưng tôi đã viết tên đầy đủ của mình vào trang thứ ba.”

“Ba trang đó có được đánh số không?”

“Tôi không nhớ được.”

“Tiện thật đấy. Khi cảnh sát nộp tờ lời khai của ông ra làm bằng chứng trước toà, họ chỉ có hai trang, được đánh số một và hai, và ở cuối trang thứ hai, hai trên hai, là chữ kí đầy đủ của ông, cùng với chữ kí của thanh tra Stern và Clarkson. Ông giải thích chuyện đó như thế nào?”

“Lời giải thích duy nhất tôi có thể nghĩ tới,” Rainsford nói, “là chắc hẳn có ai đó đã lấy mất mấy trang giữa rồi thêm số vào sau.”

“Người đàn ông bí ẩn nọ chăng?” Sir Julian hỏi. “Chuyện gì đã xảy ra tiếp theo?”

“Tôi xuất hiện trước quan toà sáng hôm sau và đơn xin bảo lãnh của tôi bị từ chối. Tôi bị tạm giam và gửi tới Pentonville để chờ phiên toà.”

“Phiên toà ấy diễn ra năm tháng sau đó, trong khi ông vẫn còn phải ngồi tù.”

“Vâng. Nhưng tôi vẫn tự tin là bồi thẩm đoàn sẽ chấp nhận lời khai ba trang giấy của mình, chứ không phải hai, bởi vì tôi đã có thể đọc lại từng lời tôi đã từng viết trên trang giấy bị mất ấy.”

“Tuy nhiên, Thẩm phán Melrose sẽ không cho phép ông nộp thêm trang bị mất ấy để làm bằng chứng. Vào cuối phiên toà, ông có cảm thấy thẩm phán đã tổng kết vụ án một cách công bằng, không có thiên vị và định kiến không?”

“Tôi thấy vậy. Lời tổng kết của ông ấy công tâm và công bằng, điều đó chỉ càng làm tôi tin rằng bồi thẩm đoàn sẽ đứng về phía tôi.”

“Nhưng họ đã không làm vậy.”

“Không, họ ra ngoài bốn ngày, và thậm chí là thêm bốn đêm nữa. Vào ngày thứ năm, họ tuyên bố tôi phạm tội giết người với số phiếu mười trên hai. Sáng hôm sau, Thẩm phán Melrose tuyên tôi án chung thân, nói rằng tôi có thể được cân nhắc ân xá sau mười hai năm. Đến nay tôi đã thực thi được cái án đó hai năm.”

Grace lại ghi thêm lời nhắn nữa và gạch dưới chữ “mười hai,” trước khi chuyển sang cho cha.

“Đã có lúc nào ông cân nhắc thay đổi lời khai của mình thành thú tội giết người chưa?” Sir Julian hỏi. “Đánh ông ta trong cơn nóng giận, không hề định giết ông ta, và sẽ hối hận suốt phần đời còn lại?”

“Nhưng tôi có đánh ông ta đâu, Sir Julian. Lúc ấy luật sư của tôi cũng đã khuyên tương tự, và bảo tôi ông ta tự tin nếu tôi thay đổi lời khai tôi sẽ chỉ phải nhận bốn năm, rồi được thả sau hai năm, nhưng tôi đã từ chối.”

“Tại sao?”

“Bởi vì luật sư của tôi, cũng như ông, đã không tin là tôi vô tội.”

“Nhưng ông không thể chối cãi được, ông Rainsford, chuyện ông đã mất bình tĩnh khi biết con gái ông bị ông Kirkland tấn công tình dục, và ông thậm chí càng tức giận hơn nữa khi phát hiện ra ông ta đã biển thủ tiền của công ty để trả cho nhiều người đàn bà khác nhau. Vậy tại sao bồi thẩm đoàn lại phải tin rằng có ba trang trong lời khai của ông thay vì hai, và rằng vụ án mạng đã được thực hiện bởi một kẻ kì bí không biết từ đâu xuất hiện và rồi lại biến mất, không ai trông thấy lại lần nữa?”

“Bởi vì đó là sự thật, Sir Julian,” Rainsford nói. Ông chống hai khuỷu tay lên bàn và gục mặt vào lòng bàn tay. “Nhưng tất nhiên tôi có thể hiểu tại sao ông không tin tôi.”

Một khoảng im lặng dài tiếp nói, trong lúc cả ba người kia chờ Sir Julian cầm chiếc cặp Gladstone lên và đứng dậy đi mất, không bao giờ quay lại lần nữa.

“Nhưng tôi tin ông, Arthur,” ông nói khẽ. “Giờ thì tôi không còn nghi ngờ gì chuyện ông đã không giết cộng sự của mình.”

Arthur không thể tin nổi, ngước nhìn khi ngài Luật sư cố vấn đang mỉm cười với ông.

“Rốt cuộc điều gì đã thuyết phục cha vậy?” William hỏi, phớt lờ ánh mắt sắc lẻm của chị gái.

“Ba việc, hoàn toàn không liên quan gì đến nhau, mà nếu lúc đó đã được đưa ra để lôi kéo sự chú ý của bồi thẩm đoàn thì rất có thể đã khiến họ đi tới một phán quyết khác.” Sir Julian không thể cưỡng lại việc nói tới lui khi đưa ra kết luận chung cuộc. “Trong từng ấy năm hành nghề Luật sư, tôi chưa từng thấy kẻ sát nhân nào không chịu nhận tội giết người để được giảm án cả.”

“Và điều thứ hai?” Grace hỏi.

“Khoảng thời gian trước khi Arthur đủ tư cách xin giảm án.”

“Mười hai năm,” William nói.

“Chính xác. Bởi vì Thẩm phán Melrose nổi tiếng trong giới là Melrose ‘Một mạng đổi một mạng’. Tôi đã xem hồ sơ của ông ấy đêm qua, và ông ấy đã làm chủ toạ cho hai mươi bốn phiên toà xử án mạng mà bên bị nhận tội trong suốt khoảng thời gian ngồi ở Toà đại hình của ông. Arthur là trường hợp duy nhất ông ấy cho phép mức thời gian tối thiểu mười hai năm. Tại sao Melrose ‘một mạng đổi một mạng’ lại phá vỡ qui tắc cả đời mình như thế? Có thể nào là vì ông ấy cũng không hoàn toàn tin rằng Arthur có tội không?”

“Còn điều thứ ba ạ?” Grace hỏi.

“Chúng ta biết được điều đó là nhờ William.”

Một lần nữa, Sir Julian không thể cưỡng lại việc đi dạo quanh phòng trước khi chia sẻ những suy nghĩ của mình. Ông kéo vạt chiếc áo choàng mà ông đang không mặc trước khi nói.

“Con đã kể với ta, William, rằng khi con mới nhắc đến tên Arthur với Quản giáo Rose, phản ứng tức thời của ông ta là, ‘Nếu ông ấy mà là kẻ sát nhân thì tôi là Jack Đồ tể à.’ Theo kinh nghiệm của ta, một sĩ quan cảnh sát cao cấp sẽ không bao giờ thừa nhận, kể cả trong lúc trò chuyện riêng tư, bất kì tù nhân nào có thể là người vô tội cả.”

“Vậy điều đó có nghĩa là cha sẽ nhận vụ án này ạ?” Grace hỏi.

“Chúng ta đã nhận rồi, con gái. Và cùng với nó, chúng ta đã chấp nhận một thử thách khó khăn, đó là đào bới thêm bằng chứng mới để thuyết phục bên Viện kiểm soát rằng họ nên yêu cầu xử lại. Bởi vì nếu họ không làm vậy thì ý kiến của chúng ta cũng chẳng ích gì.”

“Không hẳn đâu, Sir Julian,” Arthur nói, “bởi vì tôi đã rất mãn nguyện khi con rể tương lai của tôi biết rằng tôi vô tội.”