Điện thoại bắt đầu đổ chuông.
“Ai lại gọi điện cho chúng ta vào ngày Giáng sinh kia chứ?” Sir Julian hỏi. “Lại còn ngay trước khi ta định cắt gà tây.”
“Lỗi tại con,” William nói, “con e là có thể con đã cho văn phòng biết con ở đâu.”
“Vậy tốt hơn con nên đi nghe điện trong lúc mọi người trong nhà tận hưởng bữa trưa Giáng sinh. Beth, cháu thích ăn đùi gà hay ức gà?”
William vội rời sang phòng làm việc của cha và cầm điện thoại lên. “William Warwick xin nghe.”
“Christina Faulkner đây. Giáng sinh hạnh phúc, William.”
“Giáng sinh hạnh phúc, Christina. Bà đang gọi từ đâu vậy?”
“Monte Carlo.”
“Chắc hẳn bà đang mở quà nhỉ.”
“Không, đóng gói chứ, đó cũng là lí do tôi gọi. Tôi cần cậu tới đây cùng tôi ngay khi có thể để tôi tặng cho cậu một món quà, thứ mà ngay lúc này tôi đang nhìn vào đây.”
“Tôi sẽ phải gọi điện cho cấp trên trước,” William nói, dù anh sẵn sàng đi ngay lập tức. “Nếu ông ấy cho phép, tôi có thể bay sang ngay chiều mai.”
“Không được muộn hơn nhé,” Christina nói, “vì một khi tôi đóng gói xong, cả sáu mươi chín cái thùng sẽ được chất lên du thuyền của Miles đó.”
“Bà có lên thuyền cùng không?”
“Không, kế hoạch của tôi không phải thế. Một khi chiếc Christina – nó được đặt tên lúc tình cảm đang tốt đẹp – lên đường đến Southampton, tôi sẽ bay về Heathrow. Sau đó tôi sẽ đến Limpton Hall để gói ghém thêm vài món quà, phải làm kịp lúc để khi những người dọn nhà đến vào sáng hôm sau và mang chúng đi Southampton, ở đó chúng cũng sẽ được đưa lên Christina. Tất cả đều phụ thuộc vào thời gian đấy.”
“Tôi có được hỏi chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo không?”
“Tất cả sẽ được tiết lộ khi tôi gặp cậu ở Monte Carlo ngày mai. Gọi cho tôi khi nào cậu biết số chuyến bay, rồi tôi sẽ cử xe ô tô đến đón cậu.”
“Tôi sẽ gọi lại cho bà ngay khi nói chuyện với ngài chỉ huy xong. Tạm biệt, Christina, và chúc mừng Giáng sinh.” William đặt điện thoại xuống và quay lại phòng ăn. Anh muốn kể cho họ biết bao, đặc biệt là Beth, rằng đến giờ này ngày mai anh có thể đã chạm tới bức Rembrandt rồi. Anh ngồi xuống cạnh vị hôn thê của mình và thấy một chiếc đĩa trống trước mặt.
“Con lỡ món chính rồi, cậu bé. Nhưng đừng lo, ta chắc sẽ còn ít bánh pudding thừa cho con.”
“Quên bố đi,” mẹ anh nói. “Chúng ta còn chưa bắt đầu ăn. Joanna đang kể cho chúng ta nghe bà ấy đã làm gì khi Arthur vắng mặt.”
William cười với mẹ của Beth trong lúc anh tự lấy rau cải brussel cho mình.
“Hồi Arthur mới đi tù,” Joanna nói, “tất cả chúng tôi đều đoán là công ty sẽ lụi bại. Nhưng chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra Hamish cứng cỏi hơn khi ông ấy vẫn điều hành văn phòng như thể Arthur vẫn đang được tự do.
Trong lúc ấy thì Arthur lập văn phòng ngay tại buồng giam ở Pentonville, còn tôi thì ngồi ở bàn giấy của ông ấy ở Marylebone. Tôi viết thư cho ông ấy mỗi ngày, để cập nhật tình hình.”
“Nhưng chuyện gì xảy ra nếu ai đó xin hẹn gặp chủ tịch, rồi lại phát hiện ông ấy đang ngồi tù?” Grace hỏi.
“Sau một thời gian, tôi thế chỗ chồng và thậm chí còn bắt đầu đi khắp đất nước để ghé thăm công ty khách hàng. Tôi đã ngạc nhiên khi biết chỉ rất ít trong số họ bỏ rơi chúng tôi.”
“Danh tiếng chính là tấm khiên cho sự chính trực trong những lúc khó khăn,” Sir Julian nói.
“Ai đã nói thế đấy ạ?” William hỏi.
“Ta chứ còn ai, nhóc con xấc láo. Nhưng xin bà cứ nói tiếp, Joanna. Bà đã mất kế toán của công ty, mà nhà băng chắc cũng e sợ lắm.”
“Barclays đã làm mọi thứ có thể để giúp đỡ,” Joanna nói, “nhưng chính Kleinwort Benson mới là người giải cứu chúng tôi và cho các nhà đầu tư sự tự tin để tiếp tục ở lại với chúng tôi. Và rồi, khi ít trông đợi nhất, chúng tôi đã có một chút may mắn.”
Tất cả mọi người ngồi ở bàn dừng ăn.
“Gary Kirkland đã không viết di chúc, và con trai ông ta Hugh được thừa hưởng tất cả, bao gồm cả tài năng với các con số của cha mình nữa, nên giờ cậu ấy ngồi ở văn phòng cũ của Gary và tính từng xu mà công ty đã chi ra. Trước khi mọi người hỏi, không giống như cha mình, cậu ấy đã có cuộc hôn nhân hạnh phúc.”
“Vậy là công ty đã quay lại bình thường ạ?” Grace hỏi.
“Không, chúng tôi chỉ vừa đủ hoà vốn thôi, nhưng một khi Arthur quay lại, chúng tôi sẽ nhanh chóng có lợi nhuận.”
“Không áp lực gì đâu,” Sir Julian nói khi điện thoại lại vang lên. “Chúng ta có phải đang ăn bữa trưa Giáng sinh trong Tháp Viễn thông1 không thế?” ông hỏi, thở ra một hơi dài cường điệu. “Vì chắc chắn là cuộc gọi này của con, William, sao con không mời cái người vừa gọi tới ăn cùng luôn với hi vọng chúng ta sẽ không bị cắt ngang lần nữa.”
1 Bản gốc là BT tower, là tòa tháp viễn thông của London. British Telecom tower
William vội lao ra khỏi phòng và quay vào phòng làm việc của cha. Anh chộp lấy điện thoại, đoán chắc đây là ngài chỉ huy. “William Warwick đây ạ.”
“Xin thứ lỗi vì làm phiền anh trong ngày Giáng sinh,” một giọng nói chắc chắn vừa gọi tới từ New York, “nhưng tôi cần nói chuyện với cô Grace Warwick về một vấn đề cá nhân.”
“Tôi có thể hỏi ai đang gọi không ạ?”
“Leonard Abrahams.”
“Xin vui lòng giữ máy, ông Abrahams, tôi sẽ cho chị ấy biết ông đang gọi.”
William nhanh chóng quay về phòng ăn. “Của chị đấy. Leonard Abrahams?”
“Con làm ơn bảo người kia thế này, Grace, chúng ta mong được ăn một món có đầy đủ gia đình hiện diện.”
“Con nghĩ có thể đó là một vị giáo sư đấy,” Grace nói.
“Vậy thì tốt hơn là con nên nói chuyện với ông ta ngay lập tức,” Sir Julian nói, giọng ông đột nhiên thay đổi.
Grace gật đầu và nhanh nhẹn rời khỏi phòng.
“Giáo sư Abrahams, Grace Warwick đây ạ. Tôi rất tiếc làm ông phải chờ.”
“Không, cô Warwick, tôi mới là người phải xin lỗi. Tôi đã không nghĩ đến chuyện làm phiền cô vào ngày Giáng sinh như thế này nếu đây không phải chuyện khẩn cấp, nhưng tôi nghĩ cô sẽ muốn biết rằng ngày mai tôi sẽ tới London.”
“Một tin tuyệt vời. Ông sẽ ở đâu ạ?”
“Có thể là trong phòng chờ ở sân bay. Tôi chỉ có bốn tiếng nối chuyến trước khi lên chuyến bay sang Warsaw, tôi về thăm mẹ ở đó. Đám Do Thái chúng tôi rất quỷ quyệt,” vị giáo sư nói thêm. “Chúng tôi luôn biết khi nào những người ngoài Do Thái nghỉ lễ, và miễn là chúng tôi quay lại bàn trước ngày Tặng quà1 thì thậm chí các cô còn chẳng biết là chúng tôi đã đi vắng.”
1 Boxing day, tức là 26/12
Grace cười lớn. “Ông đã đọc các bản lời chứng trước toà mà tôi gửi ông chưa?”
“Tôi chỉ mới đọc lướt qua thôi. Nhưng tôi sẽ làm việc kĩ hơn trên chuyến bay, nên đến lúc tới được Heathrow tôi sẽ có thể cho cô biết ý kiến đánh giá ban đầu.”
“Tôi sẽ đặt phòng ở Sân bay Hilton, để chúng ta không bị làm phiền. Khoảng mấy giờ thì ông đến?”
“Tôi bay chuyến Pan Am 716 từ sân bay JFK, hạ cánh khoảng 10 giờ 20 sáng, giờ của cô.”
“Vậy tôi sẽ đứng sẵn ở cổng chờ ông.”
“Cô tử tế quá. Nhưng làm thế nào cô nhận ra tôi được?”
“Đừng lo, tôi đã đọc sách của ông.”
“Bức ảnh ấy chụp được mấy năm rồi,” ông nói với một tiếng cười. “Nhưng tôi rất mong được gặp cô vào ngày mai, cô Warwick, và một lần nữa, xin thứ lỗi vì đã làm phiền cô vào ngày Giáng sinh.”
“Đừng nghĩ ngợi gì cả. Tôi biết cha tôi sẽ rất vui được nghe tin từ ông.”
Grace chạy vào phòng ăn và ngồi xuống ghế mà không nói gì, dù William để ý thấy cái gật đầu nhanh giữa hai vị luật sư.
“Cho phép tôi được cảnh báo tất cả mọi người,” Sir Julian nói lúc bà Marjorie chuyển cho ông đĩa bơ brandy, “rằng nếu có bất kì ai gọi điện đến trong lúc Nữ hoàng đang đọc thông điệp lễ Giáng sinh của người với cả nước hồi ba giờ chiều nay, cuộc điện thoại ấy sẽ không được bắt máy, kể cả đó có là Đức Tổng giám mục Canterbery đi nữa.”
William làm thủ tục ở Heathrow lúc chín giờ hơn sáng hôm sau. Anh đã không kể cho Beth nghe mình sắp đi đâu, và cô cũng không hỏi. Một chiếc vé đi Nice đang chờ anh ở quầy Hàng không Anh.
Dù cha anh hết sức không hài lòng, anh đã gọi lên Scotland Yard chỉ vài phút sau khi bài phát biểu của Nữ hoàng kết thúc. Tổng đài nối máy thẳng tới điện thoại nhà của ngài chỉ huy.
Khi Hawksby nghe tin của William, ông bảo, “Cậu hãy tự đặt một chỗ trên chuyến bay sớm nhất tới Nice. Nếu bà Faulkner đang nắm trong tay bức Rembrandt, chúng ta không thể để bà ta phải chờ. Dù có chuyện gì xảy ra cũng phải báo tôi ngay lập tức, bất kể giờ giấc, ban ngày hay ban đêm, bởi vì tôi cũng không ngủ nghê được gì đâu cho đến khi biết mọi việc đã ngã ngũ.”
William thắt dây an toàn khi chiếc máy bay lăn bánh trên đường băng phía bắc.
Grace đến Heathrow lúc mười giờ hơn, và kiểm tra các bảng thông tin để biết chuyến bay 716 của Pan Am bị trễ hai mươi phút. Cô mua một tờ Guardian và một cốc cappuccino, ngồi xuống và đợi.
Khi đèn ĐÃ HẠ CÁNH bật sáng trên bảng thông báo cạnh chuyến bay số 716, cô chọn chỗ sau hàng rào cùng những người đang sốt ruột khác.
Giáo sư Abrahams là một trong những hành khách đầu tiên đi qua cổng, vì hành lý của ông đã được chuyển thẳng sang chuyến bay nối tới Warsaw. Ông dừng phắt lại và nhìn khắp đám đông. Khi trông thấy ông, Grace đã rất ngạc nhiên. Bức ảnh ở bìa sách của ông không cho biết ông chỉ cao tầm hơn mét rưỡi. Nhưng cái trán gồ lên và cặp kính gọng sừng dày cộp đã khiến cô nhận ra ông ngay tắp lự, dù cho bộ quần áo thể thao màu vàng và đôi giày Nike mẫu mới nhất quả là đáng ngạc nhiên.
“Lúc nào bay đường dài tôi cũng mặc đồ thể thao,” ông giải thích khi cả hai bắt tay nhau. “Tôi lấy ý tưởng đó từ Joan Collins, nhưng không như cô ta, tôi không thay lại quần áo để chụp ảnh trước khi xuống máy bay.”
“Tôi nghĩ chúng ta sẽ đi bộ sang bên Hilton,” Grace nói. “Nó không xa đây lắm, và vì lúc nào cũng có cả hàng dài chờ taxi, có khi chúng ta còn tới đó nhanh hơn.”
“Và tiết kiệm được vài đô la,” vị giáo sư nói trong lúc họ đi bộ một đoạn ngắn tới khách sạn, vừa đi vừa trò chuyện về mọi chủ đề trừ chuyện chính trong tâm trí cả hai. Grace đã đặt một buồng cao cấp trong hai giờ, và nhân viên lễ tân đưa cô chìa khoá phòng dù cô nghĩ họ quả là một đôi khác thường khi đặt phòng riêng vào cái giờ này buổi sáng.
Trong lúc Grace pha một ly cà phê đen nóng hổi cho vị giáo sư, ông lấy hồ sơ ra khỏi cặp và đặt nó lên bàn giữa họ. Ông bắt đầu lật trang trong lúc nhận xét từ trên xuống dưới cho cô, như thể ông đang dạy một sinh viên rất sáng dạ, người đã tham dự các bài giảng của ông, về việc chuyên môn của ông đã có thể - ông liên tục lặp lại từ “có thể” – giúp ích cho vụ Rainsford thế nào. Khi đã lật đến trang cuối cùng, ông giải đáp mọi câu hỏi của Grace với một vẻ quả quyết không cho phép phản bác. Đến lúc ông trả lời xong câu cuối, Grace biết là mình đã tìm được đúng người.
Abrahams xem đồng hồ và nhét lại tập hồ sơ vào cặp. “Tôi nên đi ngay nếu muốn kịp chuyến bay,” ông nói trong lúc đứng dậy. “Không thể đến gặp mẹ muộn được. Có khi bà ấy đã đang chờ tôi ở sân bay rồi cũng nên.”
Grace đưa Abrahams quay lại ga số hai, và trước khi ông đi qua cửa khởi hành cô đã cảm ơn ông một lần nữa và hỏi, “Tôi có thể nói với cha rằng ông sẵn sàng làm nhân chứng chuyên môn được không, nếu có xử lại?”
“Tôi sẽ không phí hoài thời gian của cô nếu tôi không sẵn sàng làm thế, cô gái trẻ ạ. Tuy nhiên, tôi vẫn cần xem bằng chứng là tờ khai gốc hai trang của Rainsford trước khi biết được mình có đang hoài phí thời gian của bản thân hay không.”
Giáo sư Abrahams hạ cánh xuống Warsaw ngay khi William đáp xuống Nice. Vì William chỉ có hành lý xách tay, anh đi thẳng tới bàn kiểm tra hộ chiếu và là một trong những người đầu tiên bước vào đám đông, ở đó anh được một người đàn ông giơ tấm bìa có tên WARWICK chào đón.
Anh ngồi sâu vào ghế sau của một chiếc Bentley và cố điều hoà các ý nghĩ của mình trước cuộc gặp gỡ với Christina Faulkner lần thứ hai. Tuy nhiên, tài xế lại có suy nghĩ khác.
Đến lúc họ tới được biệt thự Rosa, William đã biết quan điểm của anh tài xế về tất cả mọi chuyện từ Trung tâm Pompidou, do một người Anh thiết kế, đến Chợ Chung, mà đáng lẽ người Anh không bao giờ nên tham gia ngay từ đầu. Tuy nhiên, anh ta không hề nhắc một lần nào tới chủ đề William sẽ muốn biết thêm: ông bà Faulkner.
Một cánh cổng đôi bằng sắt mở toang khi chiếc xe vẫn còn cách lối vào khoảng một trăm mét. Họ rẽ vào con đường dài với hai hàng cây bách trồng ở hai bên, con đường kết thúc trước một dinh thự cổ kính xinh đẹp khiến Limpton Hall thành một túp lều thôn quê.
Khi William bước ra khỏi xe, cửa trước mở và Christina ra ngoài chào anh. Anh hôn lên cả hai má bà ta như thể bà ta là một vị tướng người Pháp. Bà ta nắm tay anh và dẫn vào một đại sảnh rộng rãi chất đầy thùng gỗ đủ mọi kích cỡ. Anh chỉ cần nhìn vào những đường viền mờ trên tường là tưởng tượng ra thứ gì đã được treo ở đó chỉ mới một ngày trước. Anh bắt đầu hiểu tại sao Christina lại cần chồng mình phải đi xa một tháng nếu muốn thực hiện kế hoạch.
“Vẫn còn phải gói một bức nữa,” bà ta nói lúc anh đi theo bà ta qua phòng khách, nơi chỉ còn duy nhất một tấm vải bọc trong khung vẫn ngự tại chỗ của nó trên bệ lò sưởi.
William há hốc miệng nhìn bức tranh mà thậm chí cả một tay mơ như anh cũng lập tức nhận ra là tác phẩm của một thiên tài. Anh lấy một tấm bưu thiếp ở Fitzmolean ra khỏi túi áo và kiểm tra góc bên phải tấm vải vẽ để xác nhận rằng chữ kí riêng của Rembrandt, RvR, ở đúng chỗ. Sau khi đã xác nhận, ánh mắt anh quay về với sáu vị Quan khoa trương trong vị trí cao quý của họ với tư cách là thành viên của giới quý tộc Amsterdam.
“Tôi có thể thấy là cậu rất thích món quà Giáng sinh của mình,” Christina nói.
Grace gọi điện cho cha cô vài phút sau khi về căn hộ ở Notting Hill, và kể ông nghe chi tiết cuộc gặp với vị giáo sư.
“Cha nghĩ đã đến lúc phải gọi cho Viện trưởng Viện kiểm sát và đặt hẹn gặp ông ấy trước khi các đồng nghiệp của cha đi nghỉ Giáng sinh về,” Sir Julian nói. “Ta cần một ngày xử án được ghi chú vào lịch của toà sớm nhất có thể.”
“Việc ấy có thể không dễ thế đâu,” Grace gợi ý.
“Lúc nào cũng có những buổi bị huỷ cần phải trám vào. Ta chỉ cần đảm bảo tên mình hiện lên ở gần đầu danh sách thôi.”
“Nhưng tại sao ngài Viện trưởng phải chọn cha thay vì bất kì một ứng cử viên nào khác?”
“Ta sẽ cho con biết tại sao, Grace, nhưng không phải là qua điện thoại.”
William trông chừng nhân viên chuyển hàng khi đoàn hộ tống cẩn thận hạ bức Rembrandt nặng nề vào chiếc thùng đã được đặt làm sẵn cho nó, trước khi mang ra sảnh để cất cùng những người bạn đồng hành khác.
Mọi chiếc hộp đều gắn một miếng dán hình vuông lớn, ghi “Tài sản của bà Christina Faulkner. Để lại trên thuyền.” Ngoại lệ duy nhất là bức Rembrandt, trên đó còn có một miếng dán hình tròn to hơn nữa ghi, “Tài sản của Viện bảo tàng Fitzmolean, Chái nhà Hoàng tử Albert, London SW7. Chờ thu hồi.”
“Cậu có tin chắc,” Christina hỏi, “là ngài chỉ huy sẽ chờ sẵn ở cầu tàu để đón những vị khách đặc biệt trên con tàu Christina khi chúng tới Southampton không?”
“Ông ấy sẽ là người đầu tiên bước lên boong ngay khi chúng ta cập bến, cùng đoàn kỵ binh không xa phía sau,” William nói. “Tôi sẽ gọi cho ông ấy vào ngày mai, ngay khi tất cả các bức tranh đã lên tàu.”
“Ông ấy sẽ chỉ quan tâm tới một trong số chúng thôi.”
“Điều gì sẽ xảy ra với những thứ còn lại?” William hỏi, mặc dù anh đoán Christina sẽ khó mà tiết lộ đích đến cuối cùng của chúng.
“Điểm đến tiếp theo, New York, ở đó chúng sẽ gia nhập cùng một bộ sưu tập đáng giá của các hoạ sĩ Mỹ hiện đại, lúc này đang trú ngụ trong căn hộ ở Manhattan của chúng tôi.”
“Nhưng đến lúc chiếc du thuyền cập bến, chồng bà có thể đã chờ sẵn ở cầu tàu rồi.”
“Không, tôi không nghĩ vậy. Sau Melbourne, Miles định bay sang Sydney để trở thành một trong những người đầu tiên được đón năm mới, đến lúc đó thì tất cả tranh của ông ta đều đang treo trong ngôi nhà mới của chúng rồi – nhà mới của tôi.”
William không tốn thời gian hỏi xem nơi đó có thể là nơi nào.
Grace và cha cô dành cả buổi tối ngồi lì trong phòng làm việc của ông.
“Điều tiếp theo mà Giáo sư Abrahams cần làm,” Grace nói, “là xem xét bản gốc tờ khai hai trang giấy đã được đưa ra tại phiên toà của Arthur. Ông ấy đã cảnh báo con rằng việc đó cũng có thể chứng minh Arthur đang nói dối và bồi thẩm đoàn đã đúng.”
“Nếu sự việc là như thế,” Sir Julian nói, “chúng ta sẽ không nói gì với Joanna và Beth ngoài chuyện chúng ta đã không thể kiếm được bằng chứng mới nào để xin được mở xử lại.”
“Còn nếu Arthur đang nói thật?”
“Cuộc gọi tiếp theo của cha sẽ là tới văn phòng Viện kiểm sát để yêu cầu xử lại.”
“Cha vẫn chưa cho con biết, tại sao ngài Viện trưởng lại phải ưu tiên cho vụ này?”
“Desmond Pannel và ta cùng đi học ở Oxford với nhau. Ta chính là giám đốc chiến dịch của ông ấy lúc ông ấy tranh cử chủ tịch Hội Luật khoa của trường đại học, và con không bao giờ tin đối thủ chính của ông ấy là ai đâu. Dù chức chủ tịch ấy là công việc vác tù và hàng tổng, nhưng Desmond vốn là kiểu người luôn thích nhận những nhiệm vụ không được đền đáp, đó là lí do vì sao ông ấy lại thành Viện trưởng Viện kiểm sát. Và giờ, sau ba mươi năm, ta dự định sẽ nhận lại ân huệ của mình.”
Chẳng bao lâu sau khi nằm lên giường, William nghe tiếng cửa mở. Đột nhiên anh tỉnh như sáo. Một bóng đen mang dáng dấp nữ thần trong ánh trăng băng ngang phòng, chui xuống dưới tấm chăn và bắt đầu hôn vào gáy anh.
Anh không có nhiều thời gian để cân nhắc việc nên làm. Bật đèn lên và lịch sự mời bà ta ra về là ý nghĩ đầu tiên của anh, hay chỉ việc hùa theo mà không kể cho Beth, là ý nghĩ thứ hai. Nhưng rồi anh tự hỏi Beth sẽ nói gì nếu anh kể cho cô nghe chuyện anh đã từ chối lời mời gọi của Christina và hi sinh bức Rembrandt. Tình một đêm để đổi lấy một kiệt tác. Anh biết cô sẽ mong anh chọn hướng nào.
Giáo sư Abrahams dừng chân lần thứ hai ở London trên hành trình trở lại New York, và một lần nữa ông lại bắt gặp Grace ở cổng đến. Lần này ông đang ôm chặt lấy thứ mà ông gọi là hộp kì diệu của mình.
Sáng hôm sau Sir Julian và Grace đi cùng ông tới một căn phòng ở tầng hầm của Scotland Yard, trong đó, trước sự hiện diện của một nhân chứng độc lập, ông dành mấy tiếng tiếp theo nghiên cứu kĩ lời khai dài hai trang giấy đã được nộp ở phiên toà của Arthur.
Sir Julian và Grace đã quay lại văn phòng, ở đó họ sốt ruột chờ đợi kết quả các phát hiện của vị giáo sư. Chính Grace là người trông thấy ông ta thong thả đi ngang Lincoln’s Inn, một tay ôm chiếc hộp kì diệu còn tay kia thì cầm một chai sâm-panh. Cô nhảy lên và hò reo.
Sau khi im lặng lắng nghe tuyên bố của vị giáo sư, cả hai cha con dội xuống đầu ông cả loạt câu hỏi mà ông luôn luôn có sẵn câu trả lời. Cuối cùng Sir Julian cầm điện thoại lên và gọi một số riêng tư. Khi vị Viện trưởng Viện kiểm sát nghe máy, tất cả những gì ông nói là, “Desmond này, tôi cần xin một ân huệ.”
Một chiếc xe tải chuyển hàng lớn đỗ lại bên ngoài Biệt thự Rosa lúc chín giờ sáng ngày hôm sau, và đoàn bốc vác phải mất gần hai tiếng mới đưa được hết sáu mươi chín cái thùng lên xe. Sau đó họ lái đi thật chậm, thật chậm, trên đường xuống cảng, rồi mất thêm ba giờ nữa để chuyển chúng vào hầm tàu Christina. sau khi đã chứng kiến cánh cửa hầm được khoá và chốt lại, William lên bờ và gọi cho Chỉ huy Hawksby để cho ông biết anh sẽ lên chuyến máy bay tiếp theo về nhà.
“Không, cậu không được về,” Hawksby nói chắc nịch. “Lên lại con tàu đó và không để bức tranh Rembrandt rời khỏi mắt cậu cho đến khi đã cập bến Southampton.”
“Nhưng chẳng lẽ tôi không nên để mắt đến bà Faulkner à?”
“Không. Cậu phải để mắt đến sáu vị Quan đến từ Amsterdam cơ, những người không được phép để cho đi lang thang lần nữa.”
William không cãi.
“Khi cậu cập cảng vào tối mai, tôi sẽ chờ sẵn trên bến tàu,” Hawksby nói, “cùng một đội quân để đảm bảo bức tranh được an toàn trở về Fitzmolean.”
Christina đã rất thất vọng khi ngài chỉ huy khăng khăng đòi William ở lại tàu, vì bà ta đã có phần hi vọng anh sẽ để mắt trông chừng mình. William cúi người trên lan can và vẫy tay chào bà ta khi chiếc du thuyền rời bến. Ngay khi nó ra khỏi tầm mắt Christina đã bảo lái xe của bà đưa bà ra sân bay, để bà có thể tiếp tục phần thứ hai trong kế hoạch.