Nếu tất cả đều là vấn đề thời điểm, như Christina Faulkner từng nói với William, thì bà ta đã mắc một sai lầm chết người. Bà ta đã bảo luật sư của mình chuẩn bị đơn li hôn vào ngày 22 tháng Mười hai. Kiến nghị ấy đến được bàn Booth Watson vào ngày 24.
Booth Watson không ngạc nhiên về thời điểm, bởi ông ta đoán bà Faulkner đã chọn cái ngày ấy trong một nỗ lực vụng về muốn làm hỏng kì nghỉ Giáng sinh của thân chủ ông ta. Ông ta đã quyết định không liên lạc với Miles cho đến khi ông ta quay lại văn phòng của mình ngày 28 tháng Mười hai. Rốt cuộc, vài ngày ít ỏi thì có hệ trọng gì? Ông ta khoá kĩ đơn xin li hôn trong két sắt của mình và về nhà.
Mike Harrison gọi cho bà Faulkner từ Melbourne ngày 27 tháng Mười hai, báo cáo rằng chồng bà ta đã dành cả ngày trong khoang khách mời ở MCG, theo dõi trận cầu Test ngày thứ hai. Sau khi xem cricket, ông ta đã đi ăn tối cùng bạn và nhận lại chìa khoá phòng mình ở bàn lễ tân lúc quá nửa đêm.
“Ông ta đi một mình à?” Christina hỏi.
“Không, ông ta đã ở cùng một cô gái trẻ làm nhân viên phục vụ cocktail ở phòng khách danh dự. Tôi có một bức ảnh chụp và cả tên đây.”
“Cảm ơn anh, Mike.”
Sau đó Harrison gọi Chánh thanh tra Lamont ở Yard và cũng lặp lại thông điệp trên trước khi đi ngủ.
Booth Watson quay lại văn phòng ngay sau mười giờ sáng ngày 28, hài lòng vì Giáng sinh đã qua và ông ta có thể quay lại làm việc. Ông đọc đơn xin li hôn lần thứ hai, thấy rõ rằng nội dung tờ đơn là một mối lo thật sự. Vợ của Faulkner rõ ràng đã chuẩn bị tờ đơn này một thời gian rồi, vì có đến mấy tên phụ nữ được nêu ra. Ông ta quyết định gọi thân chủ của mình và báo cho Faulkner biết tin tức về vụ li dị sắp tới, mặc dù ông nghĩ việc này cũng chẳng mấy ngạc nhiên.
Đầu tiên ông ta gọi đến Limpton Hall, nhưng không ai trả lời, nên ông ta đoán Makins chắc vẫn còn đang đi nghỉ. Nếu ông ta gọi muộn một tiếng thôi thì bà Faulkner đã có thể nghe máy. Tiếp theo ông ta gọi sang nhà Faulkner ở Monte Carlo, và một cô hầu gái nghe điện thoại. Rõ ràng tiếng Anh không phải tiếng mẹ đẻ của cô ta.
“Tôi nói chuyện với Monsieur Faulkner được không?” Ông ta hỏi.
“Không có ở đây.”
“Cô có biết ông ấy ở đâu không?” Booth Watson hỏi, phát âm từng từ rõ ràng.
“Không. Người trẻ bảo Australia.”
Booth Watson ghi chú lên giấy: Australia/người trẻ.
“Thế có bà Faulkner đó không?” Ông ta hỏi cũng chậm như thế.
“Không, bà chủ về nhà.”
“Nhà?”
“Angleterre.”
“Cảm ơn cô,” Booth Watson nói. “Rất có ích.”
Ông ta thắc mắc không biết Miles đang làm gì ở Úc, và trong thành phố nào. Reg Bates, thư ký trưởng văn phòng, đã giúp ông ta.
“Chắc là Melbourne đó sếp ạ. Ông ấy hẳn đang xem trận Test thứ hai.”
Booth Watson không quan tâm gì đến cricket, và đơn giản là ra lệnh cho trưởng nhóm của mình đi tìm thân chủ.
Bates dành cả buổi sáng gọi cho khắp các khách sạn hàng đầu ở Melbourne, và đến lúc Booth Watson ăn trưa về, ông ta tìm thấy một mẩu giấy nhớ màu vàng trên bàn làm việc cùng các chi tiết. Ông ta lập tức gọi sang Sofitel và yêu cầu được nối máy tới phòng cao cấp của Miles Faulkner.
“Trước khi tôi làm vậy, thưa ông,” giọng nói ở đầu dây bên kia hỏi, “ông có biết giờ đang là một giờ rưỡi sáng ở đây chứ ạ?”
“Không, tôi không biết,” Booth Watson thừa nhận. “Tôi sẽ gọi lại sau.”
Sau khi ông ta cúp máy, ông ta tính toán một chút và quyết định mình sẽ thử lại sau khi về nhà vào tối hôm đó.
Miles Faulkner đang cạo râu thì điện thoại trong phòng khách sạn đổ chuông, nhưng ông ta làm rơi ngay con dao cạo khi nghe chất giọng vang rền của Booth Watson. Bất kể khi nào BW gọi đến, hiếm khi là có tin tốt lành. Faulkner ngồi xuống giường và nghe luật sư của ông ta nói.
“Có lí do gì khiến tôi phải nhanh chóng quay về không, BW?” Ông ta hỏi sau khi Booth Watson đã thông báo về tờ đơn. “Trận Test đang khá cân bằng. Tôi đã dự định bay sang Sydney để mừng đón năm mới, nên sẽ không về nhà ít nhất là trước ngày mùng ba.”
“Không thành vấn đề. Chúng ta có mười bốn ngày để thông báo đã nhận được đơn xin li dị, nên chúng ta có thể xử lý nó khi ông đã về.”
“Tốt. Vậy tôi sẽ gọi lại cho anh sau hai tuần nữa. Còn gì khác không?”
“Có, có một chuyện này. Có vẻ như vợ ông đã nghỉ lại Monte Carlo cùng một chàng trai trẻ. Đến lúc ông về tôi sẽ có đầy đủ tên tuổi và thông tin chi tiết về anh ta. Nó có thể giúp ích khi ta tiến hành thủ tục giàn xếp tài sản.”
“Thuê ngay một thám tử tư làm việc đó,” Faulkner nói.
“Tôi đã làm rồi,” Booth Watson nói, “và tôi cho rằng vợ ông cũng đang làm việc tương tự.”
“Có tin gì tốt không?” Miles hỏi.
“Tôi đã chuyển bức Renoir cho Standard Life, và họ vừa chuyển nửa triệu đô-la vào tài khoản của ông ở Quần đảo Cayman.”
“Nửa triệu mà Christina sẽ không thể thò tay vào được.”
“Cứ xem nốt trận Test đi, và gọi cho tôi ngay khi ông về.”
Miles đặt điện thoại xuống và cạo râu nốt. Sau khi cô phục vụ cocktail – mà ông ta đã không còn nhớ nổi tên – ra về, ông ta quyết định tìm hiểu xem liệu vợ mình có còn ở Monte Carlo hay không.
Cô hầu gái không thể kể gì hơn so với Booth Watson, nhưng Faulkner lại nói thông thạo tiếng Pháp. Ông ta đã hỏi bà chủ về Anh khi nào, và cô gái trả lời, “Tôi không chắc lắm, thưa ông. Tất cả những gì tôi biết là bà ấy đi theo một chiếc xe tải xuống chỗ du thuyền.”
“Xe tải nào?” Faulkner hỏi.
“Chiếc xe tải chuyển nhà đã đến thu dọn tất cả tranh ảnh của ông.”
Miles dập điện thoại xuống nhưng lập tức nhấc nó lên.
“Tôi trả phòng,” ông ta bảo lễ tân ở dưới nhà. “Kiếm cho tôi chuyến bay đầu tiên về London, tôi không quan tâm hãng nào.”
“Nhưng có vẻ như Úc đang thắng…” cô ta mở lời.
“Cút mẹ nước Úc đi.”
Mike Harrison gọi vào số của bà Faulkner ở Monte Carlo và ông ta cũng nhận được lời nhắn của cô hầu gái, “Bà chủ về nhà rồi.” Tiếp theo ông ta cố gọi đến Limpton Hall, nhưng không có ai trả lời. Cuối cùng ông ta gọi cho ngài chỉ huy, ông ấy đang ở bàn làm việc.
“Faulkner đã đặt chỗ trên một chuyến bay của hãng Qantas tới Heathrow, nó sẽ hạ cánh lúc hai giờ chiều mai. Việc này không nằm trong kế hoạch ban đầu của hắn.”
“Lại còn thế nữa,” Hawksby nói. “Mà tôi không có cách nào liên lạc với thanh tra Warwick để báo cho cậu ta được.”
Khi chiếc máy bay của Christina Faulkner hạ cánh xuống sân bay Heathrow, bà ta được tài xế của chồng đón và đưa về Limpton Hall, ở đó bà ta ăn bữa khuya nhẹ trước khi đi ngủ. Rốt cuộc, phía trước bà là cả một ngày bận rộn.
Lúc William đang ngồi trên một chiếc ghế ở boong tàu để tắm nắng và tận hưởng ly Pinot Grigio của mình thì máy bay chở Faulkner đã cất cánh, bắt đầu hành trình dài hai mươi ba tiếng tới London. Từ đó anh có thể nhìn thẳng ra cửa hầm tàu, nơi không có ai bén mảng trong suốt hai ngày vừa qua. Nhưng tại sao họ phải bén mảng kia chứ? Mặt trời toả sáng rạng rỡ, biển thì yên bình, và anh chẳng còn một nỗi lo lắng nào trên đời.
Chín giờ sáng hôm sau, một chiếc xe tải của hãng Vận chuyển Bishop đỗ lại bên ngoài cửa lớn. Các phu khuân vác thủng thẳng đóng gói sáu mươi chín tác phẩm nghệ thuật vào những chiếc thùng trước khi bê chúng lên xe. Sau một quãng nghỉ trưa dài họ lên đường tới Southampton.
“Dù trong hoàn cảnh nào cũng không được đi quá bốn mươi tám kilômét trên giờ,” Christina hướng dẫn người tài xế. “Chúng ta không thể mạo hiểm làm hỏng bất kì bức tranh nào được.”
“Xin nghe theo bà cả, thưa bà,” anh ta hoàn toàn sẵn lòng nghe lời khách, bởi điều đó đảm bảo là anh ta và người của anh ta sẽ được tính thêm tiền ngoài giờ.
Christina thưởng thức một bữa trưa thư thái trong phòng ăn bao quanh bởi những cái móc treo tranh. Bà ta lên đường đi Southampton ngay sau ba giờ chiều, nhưng không cần vội vàng gì cả vì chiếc tàu Christina mãi tối hôm ấy mới cập bến. Bà ta hi vọng Miles thưởng thức trận cricket của lão. Bà ta đã hài lòng biết mấy khi đọc tờ Mail sáng nay thấy trận đấu đã diễn ra rất cân bằng.
Miles Faulkner hoàn tất thủ tục hải quan ở Heathrow lúc hai giờ. Ông ta đã cân nhắc đến chuyện gọi về Limpton Hall từ phòng chờ khoang hạng nhất ở sân bay Melbourne và yêu cầu tài xế đến đón mình, nhưng ông ta quyết định thôi vì điều đó có thể báo động cho Christina lần trở về ngoài dự kiến này.
Ông ta làm cho tài xế taxi hết sức vui mừng vì khi anh ta hỏi “Đi đâu đây, thưa ngài?” thì nhận được câu trả lời, “Limpton Hall ở Hampshire. Và anh có thể tính giá gấp đôi nếu tới được đó dưới một tiếng.”
Mike Harrison đã đi cùng chuyến bay với Faulkner, nhưng không cùng hạng. Ông ta không đi theo mục tiêu của mình ra khỏi nhà ga, vì ông coi việc liên lạc với bà Faulkner và cảnh báo bà ta rằng chồng bà đang trên đường về Limpton Hall là quan trọng hơn. Nhưng không có ai nghe máy.
Sau đó ông ta gọi sang Scotland Yard, và yêu cầu được nối máy với chánh thanh tra Lamont.
“Thanh tra Roycroft đây,” một giọng cất lên.
“Chào, Jackie, Mike Harrison đây. Tôi nói vài lời với Bruce được không?”
“Ông ấy đã đi Southampton cùng Chỉ huy Hawksby từ hơn một tiếng trước rồi, Mike.”
“Cảm ơn cô,” Harrison nói. “Mừng vì cô đã về, Jackie,” ông ta nói thêm.
“Giống thử việc hơn,” Jackie nói rồi cúp máy.
Harrison lại khiến một anh lái taxi khác vui khi nói, “Southampton”.
Mất hơn một tiếng Faulkner mới đến được Limpton Hall, nhưng ông ta cũng đã biết chiếc taxi không tài nào về được đây trong chưa đầy một tiếng.
“Chờ đấy,” ông ta nói trong lúc nhảy ra khỏi xe. “Có thể tôi không đi lâu đâu.”
Ông ta chạy lên bậc tam cấp và mở cửa trước. Khi vào sảnh, ông ta bỗng thấy buồn nôn. Không Constable, không Turner. Thậm chí mụ còn dỡ cả Henry Moore. Ông ta chậm rãi đi khắp nhà, hoảng hốt vì mức độ cướp phá của bà vợ, đâu đâu ông ta cũng chỉ bắt gặp những khoảng tối hình chữ nhật và hình vuông nơi những bức tranhtừng được treo, và những cái cột trống nơi các bức tượng điêu khắc từng được trưng bày đầy tự hào. Nhưng sự sỉ nhục cuối cùng đã đến khi ông ta vào phòng khách, và trông thấy bức tranh duy nhất mụ để lại. Bức tranh nhái Rembrandt của Eddie Leigh vẫn còn nằm trên bệ lò sưởi. Nếu đúng giây phút này Christina bước vào phòng, ông ta hẳn sẽ rất vui mừng được bóp chết mụ. Ông ta chạy ra khỏi nhà và hét lên với tài xế, “Cổng trước.”
Chiếc taxi tăng tốc đi xuống lối lái xe, dừng phắt lại ở cổng. Faulkner nhảy ra và chạy vào nhà chòi.
“Hôm nay anh có trông thấy bà Faulkner không?” ông ta hỏi.
“Có, thưa ông,” người bảo vệ nói, sau khi kiểm tra danh sách người đến và đi. “Bà ấy mới rời đi hơn một tiếng trước.”
“Đi đâu?”
“Tôi không biết, thưa ông.”
“Thế còn bọn họ,” Faulkner chỉ một ngón tay vào dòng chữ, “Vận chuyển Bishop, đến 8 giờ 55 sáng, đi 2 giờ 4 phút chiều.”
“Bọn họ đã đi đâu?”
“Tôi không biết, thưa ông,” người bảo vệ lặp lại.
Faulkner chộp lấy điện thoại và phải mất hai cuộc gọi cùng rất nhiều lời đe doạ thì một quản lý khu vực mới miễn cưỡng cho ông ta thông tin ông ta muốn. Ông ta lại nhảy lên taxi và nói, “Southampton,” mà không buồn nhìn vào đồng hồ tính tiền. Tài xế taxi không thể tin nổi vận may của mình.
Ngài chỉ huy ngồi một mình ở ghế sau chiếc xe dẫn đầu đoàn. Theo sau họ là một chiếc Black Maria với sáu cảnh sát và một trung sĩ. Đi sau chót là một chiếc Wolseley do Chánh thanh tra Lamont cầm lái. Lamont đã mô tả hoạt động này như một cuộc xử lý đám du côn, nhưng Hawk thì không muốn mạo hiểm một tí nào.
Đoàn quân nhỏ duy trì đi ở làn đường trong của quốc lộ, và dù họ chưa hề vượt tốc độ cho phép, họ vẫn đến được lối ra của cầu cảnh Southampton sớm khoảng hai tiếng.
Hawksby lập tức báo với nhà điều hành cảng biển, ông ta xác nhận tàu MV Christina sẽ cập bến tàu số hai mươi chín vào khoảng bảy giờ tối hôm đó. Ngài chỉ huy liền cung cấp cho bên quản lý cảng một lệnh toà án đặc biệt cho phép dỡ một chiếc thùng duy nhất xuống khỏi tàu, mà không bị bên hải quan hay thanh tra nào can thiệp.
“Chắc là Báu vật Hoàng gia đấy,” nhà điều hành cảng nói, sau khi đọc tờ lệnh.
“Cũng không kém mấy,” Hawksby nói. “Nhưng tôi chỉ có thể cho ông biết nó phải được vận chuyển hết sức khéo léo, và các thứ bên trong không được để lộ ra ngoài.”
“Nghe như Dracula vậy.”
“Không, chủ nhân hiện tại của nó mới là Dracula,” Hawksby nói.
“Tôi có giúp được gì không?”
“Cho vài người của ông gác quanh đó cũng không có hại gì, phòng khi có bất kì rắc rối nào.”
“Chọn người có trí hay có lực?”
“Mỗi loại hai người đi, nếu có thể được.”
“Coi như xong nhé. Họ sẽ đến chỗ ông nửa tiếng trước khi tàu Christina cập bến. Tôi nghĩ chính tôi cũng sẽ đi cùng,” ông ta nói. “Nghe có vẻ thú vị.” Hawksby vào lại xe và đoàn tuỳ tùng nhỏ tìm đường ra cầu cảng hai mươi chín để chờ sáu vị Quan đang nghỉ ngơi yên bình trong hầm tàu Christina trở về.
Tất cả mọi người vào chỗ và kiên nhẫn chờ đợi thì một chiếc Bentley xuất hiện ở cầu tàu và đỗ lại cách đó năm mươi mét.
“Cái quái gì…?” Lamont thốt lên.
“Chắc là bà Faulkner đấy,” Hawksby nói. “Cứ lờ đi. Miễn là bức Rembrandt được trao trả, việc bà ta làm gì với phần còn lại trong bộ sưu tập nghệ thuật của chồng bà ta không liên quan gì đến chúng ta cả, dù tôi mong bà ta biết là hắn đã về nước, vì lợi ích của chính bà ta.”
“Chúng ta có nên thông báo cho bà ta biết không?” Lamont hỏi.
“Cũng không liên quan gì đến ta cả,” Hawksby nói.
“Còn bọn họ đang làm gì ở đây?” Lamont hỏi khi một chiếc xe tải lớn của hãng Vận chuyển Bishop từ từ đi dọc cầu tàu và dừng lại đằng sau xe Bentley.
“Không khó để đoán có gì bên trong,” Hawkby nói lúc người lái xe bước xuống và đi tới chỗ chiếc Bentley.
Bà Faulkner hạ kính xe xuống.
“Đám kia đang làm cái quái quỷ gì ở đây vậy?” tài xế hỏi, chỉ vào ba chiếc xe cảnh sát.
“Họ đến nhận một chiếc thùng trên du thuyền của chồng tôi trước khi trả nó về cho chính chủ ở London. Khi nào cái đó đã được chuyển giao, họ sẽ đi đường họ và các anh có thể bắt đầu đưa tranh lên tàu.”
“Thứ gì mà cảnh sát lại quan tâm thế?”
“Sáu quý ông đến từ Amsterdam, những người đã rời đất nước vài năm trước mà không có thị thực.”
“Hài hước nhỉ,” người lái xe nói rồi quay lại xe tải mà không thêm lời nào.
Christina đang kéo cửa sổ lên lại thì một chiếc taxi màu đen xuất hiện. Mike Harrison trả tiền cho tài xế rồi nhanh chóng chui vào ghế sau chiếc Bentley cùng khách hàng của mình, không nhìn tới bất kì người đồng nghiệp cũ nào.
“Tôi nghĩ tôi có thể trông thấy mấy ông bạn Hà Lan của mình rồi,” Lamont nói, ông đang chĩa cặp ống nhòm ra lối vào cảng. Ông chuyển nó sang cho Hawksby.
“Anh đánh giá bao lâu nữa thì họ sẽ đến chỗ chúng ta?” Hawksby hỏi người quản lý cảng, trong lúc vẫn tập trung nhìn con tàu Christina.
“Hai mươi, cùng lắm là ba mươi phút nữa.”
“Tôi vừa trông thấy Warwick đứng trên buồng lái,” Hawksby nói. “Anh có nghĩ cậu ta đã giành quyền kiểm soát không?”
“Hoặc đã bị kẹt vào song sắt,” Lamont nói. “Dù thế nào, tốt hơn tôi nên báo cả đội sẵn sàng.”
Ngài chỉ huy, viên quản lý cảng, chánh thanh tra Lamont, một trung sĩ và sáu cảnh sát, cùng bà Faulkner, Mike Harrison, một đám phu khuân vác từ chiếc xe tải cùng theo dõi chiếc tàu MV Christina tiến lại mỗi lúc một gần hơn, cho đến khi nó quay dọc cầu tàu và buộc neo. William là người đầu tiên chạy xuống cầu tàu.
“Chúng tôi sẵn sàng cả rồi, thưa sếp. Thùng hàng sẽ được chuyển xuống trong mấy phút nữa.”
“Vậy thì chúng ta sẽ…” Hawksby định nói thì một chiếc taxi thứ hai đã lao rầm rập qua chỗ họ và thắng kít lại bên cạnh chiếc du thuyền. Faulkner nhảy ra, chạy lên cầu tàu, dừng lại và trao đổi vài lời với vị thuyền trưởng trước khi họ biến mất vào hầm.
“Đừng di chuyển,” Hawksby nói với William, người đang định chạy lại tàu. “Nếu chiếc thùng của chúng ta còn chưa được dỡ xuống, chúng ta sẽ bắt quả tang hắn.”
“Nhưng…”
“Cứ bình tĩnh, William. Hắn không đi đâu được. Quản lý cảng, nếu chúng định bỏ chạy…”
“Chúng sẽ không đi được quá lối vào cảng trước khi người của tôi chặn lại.”
“Vậy kể cả chúng chỉ mới nghĩ đến việc thả dây neo,” Hawksby nói với William, “cậu được phép trở lại tàu và bắt Faulkner.”
“Có vẻ chuyện ấy là không cần thiết nữa,” Lamont nói, khi bốn thuỷ thủ trồi lên từ trong hầm tàu, ôm theo một cái thùng lớn. Họ mất một lúc mới mang được nó qua sàn tàu, đi xuống cầu tàu vào cầu cảng.
Hawksby nhẩn nha kiểm tra nhãn dán: “Tài sản của Bảo tàng Fitzmolean, Cánh Hoàng tử Albert, London SW7. Chờ thu hồi.” Ông gật đầu và bốn cảnh sát tới thế chỗ bốn thuỷ thủ. “Đưa nó vào trong xe tải,” Hawksby ra lệnh, “và đừng để nó rời khỏi tầm mắt các cậu.”
Bốn cảnh sát trẻ nhấc cái thùng lên và bắt đầu di chuyển như cua, từ từ tiến về chiếc Black Maria.
“Được rồi, Bruce,” Hawksby nói. “Tôi nghĩ anh xứng đáng nhận quyền dẫn phái đoàn về lại London. Warwick, cậu có thể đi cùng tôi. Có đôi điều tôi cần bàn với cậu.”
William không nhúc nhích. Anh vẫn đang nhìn Miles Faulkner, hắn đang đứng trên buồng lái, nhìn xuống với vẻ hợm hĩnh khi các thành viên của thuỷ thủ đoàn bắt đầu chuẩn bị cho chuyến du hành sắp tới.
“Đi thôi, Warwick. Chúng ta đã lấy được thứ ta cần rồi.”
“Tôi không chắc là thế, sếp ạ.”
“Nhưng chúng ta đã lấy đúng cái thùng rồi. Cậu trông thấy nhãn dán rồi đấy thôi.”
“Có, tôi thấy nhãn dán rồi, nhưng tôi không tin chúng ta đã lấy đúng thùng? Sếp có thẩm quyền được mở bất kì cái thùng nào trên tàu không ạ?”
“Không,” Hawksby nói. “Chúng ta cần phải xin lệnh khám mới được làm thế.”
“Nhưng tôi thì có quyền,” vị quản lý cảng nói và đi về phía cầu tàu, William chỉ cách ông ta một bước phía sau. Hawksby và Lamont bị bỏ lại phải đuổi theo họ.
William đi thẳng xuống hầm và đối diện với tám mươi cái thùng có kích cỡ khác nhau. “Có một cái chắc hẳn đã được dán nhãn lại,” anh tuyên bố.
“Nhưng cái nào?” Hawksby hỏi.
“Xin mời tự nhiên,” Faulkner nói trong lúc thủng thẳng bước vào hầm, thuyền trưởng đi sát gót phía sau. “Nhưng nếu cậu làm hỏng bất kì món nào trong số những tác phẩm vô giá của tôi, tôi có thể đảm bảo lương của tất cả các người gộp lại cũng không đủ trả hóa đơn đền bù đâu,” hắn nói thêm với một cái cười mỉa.
William nhìn Faulkner kĩ hơn. Nếu anh nghĩ mình sẽ gặp một tên côn đồ mũi gãy, cơ bắp cuồn cuộn và hình xăm đầy người thì anh đã quá nhầm. Faulkner cao ráo, lịch lãm, với mái tóc dày lượn sóng và cặp mắt xanh dương sâu thẳm. Nụ cười ấm áp của hắn giải thích lí do vì sao quá nhiều phụ nữ lại dễ dàng đổ gục đến thế. Hắn mặc một chiếc áo vest và quần thụng, một chiếc áo sơ mi trắng hở cổ và đi giày lười, tất cả mang lại ấn tượng về một tay chơi quốc tế thay vì một tên tội phạm rắn mặt.
Lần đầu tiên, William hiểu ra ngài chỉ huy đã có ý gì khi nói anh phải chờ đến khi gặp trực tiếp hắn.
“Có lẽ các vị sẽ khôn ngoan hơn khi nhớ lại điều gì đã xảy ra lần cuối các vị lục soát tài sản của tôi,” Faulkner nhắc. “Tôi có thể cung cấp cho các vị đầy đủ hoá đơn của từng bức tranh một. Và phòng khi các vị đã quên, lần đó các vị cũng đã tưởng mình lấy được bức Rembrandt.”
William ngập ngừng trong lúc mắt anh đảo khắp tầng hầm, nhưng anh vẫn chưa biết được thêm gì.
“Vậy cậu muốn mở cái nào, thanh tra cảnh sát?” Hawksby nói một cách kiên quyết.
“Cái này,” William nói, đi ngang hầm tới một cái thùng lớn và gõ vào nó quả quyết.
“Cậu có tuyệt đối chắc chắn là đúng nó không?” Faulkner hỏi.
“Có,” William nói, vì lòng can đảm nhiều hơn là tin tưởng.
“Ngài chỉ huy, tôi hiểu cậu lính mới tò te kia giờ là người lãnh đạo phòng ông nhỉ,” Faulkner bảo.
“Mở nó ra,” Hawksby nói.
Viên quản lý cảng bước tới trước và được hai người trong đội mình hỗ trợ, họ bắt đầu tháo từng cái đinh một cho đến khi cuối cùng cũng mở được chiếc thùng ra. Khi đã tháo bỏ vài lớp giấy bọc, họ được sáu vị Quan của Amsterdam chào đón, lúc này cả sáu vị cùng đang nhìn vào họ.
“Tôi đã muốn làm việc này nhiều năm rồi,” Hawksby nói. Ngài chỉ huy bước tới và bảo Faulkner hắn đã bị bắt, rồi đọc to các quyền của hắn. Lamont giật hai cánh tay Faulkner ra sau lưng, chụp còng và lôi hắn xuống khỏi du thuyền trong lúc bốn cảnh sát từ từ bê chiếc thùng thứ hai xuống cầu tàu, trước khi đặt chúng thật cẩn thận lên khoang sau chiếc Black Maria, cạnh người bạn đồng hành chưa biết tên của nó.
“Làm sao cậu có thể nhận ra được bức Rembrandt nằm trong thùng nào?” Lamont hỏi William khi họ đã lên bờ lại.
“Tôi không chắc hoàn toàn,” William thú nhận, “nhưng đó là cái thùng duy nhất có một dấu ấn hình tròn to ở chỗ chắc hẳn đã có cái nhãn ban đầu. Rõ ràng Faulkner đã đổi hai cái nhãn, nhưng hắn không để ý là thùng hắn chọn to hơn nhiều so với chiếc đã đựng bức Rembrandt, hay việc một dấu ấn hình tròn vẫn còn lại trên thùng đựng Rembrandt, ở chỗ chiếc nhãn ban đầu đã bị giật ra.”
“Rốt cuộc cậu cũng xứng làm một thanh tra,” Hawksby.
“Vậy cái gì ở trong chiếc thùng kia?” Lamont hỏi.
“Tôi không biết,” William nói. “Chúng ta sẽ chỉ biết được sau khi nó được đưa đến Fitzmolean, đúng như cái nhãn đã hướng dẫn thôi.”
Bà Faulkner vẫn còn ở lại trong chiếc Bentley quan sát toàn bộ hoạt động từ một khoảng cách xa. Bà ta không cử động cho đến khi trông thấy Miles đã bị bắt, rồi bà nhảy ra khỏi xe và vừa chạy về phía cầu cảng vừa hét, “Ngăn họ lại! Ngăn họ lại!”
Mike Harrison chỉ cách bà ta một mét phía sau khi cả hai cùng nhìn chiếc Christina đi ra khỏi cảng, về phía biển rộng.
“Nhân danh cái gì kia?” Harrison hỏi ngay khi bắt kịp bà ta.
“Trên tàu vẫn còn tranh của tôi.”
“Việc đó sẽ khá khó chứng minh đấy,” Harrison nói, “khi mà ông thuyền trưởng có thể chỉ nghe lệnh chồng bà thôi.”
“Ông đứng về phía ai đấy?” Christina hỏi.
“Phía bà, bà Faulkner, và một khi chồng bà đã bị nhốt lại, tôi cảm thấy chắc chắn bà sẽ có cách thu hồi tất cả chúng.”
“Nhưng lão sẽ đuổi theo tôi,” Christina phản đối.
“Tôi không nghĩ vậy,” Harrison nói. “Chồng bà sẽ bị đưa tới Pentonville, và tôi không nghĩ rằng hắn ta sẽ được thả trong vài năm tới.”
“Được rồi, các chàng trai,” Hawksby nói. “Đã đến lúc trao trả bức Rembrandt về cho chủ nhân chân chính của nó, cùng với thứ ở trong chiếc thùng còn lại, dù nó có là gì.”
“Xin lỗi làm phiền các vị,” một người đàn ông trông còn buồn hơn cả bà Faulkner nói. “Nhưng cái gã các ông vừa bắt kia nợ tôi 274 bảng tiền taxi.”
“Mà tôi e là anh sẽ không thể gặp lại hắn trong một thời gian nữa,” Lamont nói. “Tôi khuyên anh nên liên hệ với luật sư của hắn, ông Booth Watson ở Lincoln’s Inn. Tôi chắc ông ta sẽ rất vui lòng được đền bù cho anh.”
“Làm tốt lắm, thanh tra Warwick,” Hawksby nói lúc William vào ngồi cùng ông ở ghế sau xe, và đoàn tuỳ tùng khởi hành về London. “Cậu có thể tự hào với việc làm hôm nay.”
William không đáp lại.
“Có việc gì thế?” ngài chỉ huy hỏi. “Chúng ta đã bắt được Faulkner và lấy lại bức Rembrandt, lại còn một khoản thưởng thêm ở chiếc thùng còn lại mà chúng ta không ngờ tới nữa. Cậu còn đòi hỏi gì thêm nào?”
“Có gì đó sai sai,” William nói.
“Như là cái gì?”
“Tôi không biết. Nhưng Faulkner đã mỉm cười khi sếp bắt hắn.”