• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Dấn thân
  3. Trang 33

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 39
  • Sau

Chương 29

Báo giới đã có cả một ngày bận rộn. Một vụ kháng án tội sát nhân ở Old Bailey và việc tìm được một báu vật quốc gia bị đánh cắp, tất cả đều xảy ra chỉ trong một tuần. Phố Fleet không thể quyết định họ phải đưa câu chuyện nào lên trang đầu vào sáng thứ Hai đó.

Tờ Guardian thích vụ Arthur Rainsford và khả năng đã có một án oan sai xảy ra hơn, trong khi tờ Daily Mail lại quan tâm hơn tới Miles Faulkner, và hỏi độc giả của mình, “Raffles hay Rasputin?”

Tờ Sun đưa cả hai vụ lên trang nhất và tuyên bố tin độc quyền bằng cách hé lộ mối liên quan giữa hai người đàn ông trên: Thanh tra cảnh sát William Warwick đã bắt chúa trộm, đồng thời đã đính hôn cùng con gái của “Kẻ sát nhân ở Marylebone.”

Vài tờ báo đưa bài về hồ sơ của hai luật sư có tiếng tăm liên quan đến hai vụ án, Sir Julian Warwick và ông Booth Watson. The Times tiết lộ họ không bằng lòng với nhau cho lắm, trong khi tờ Mirror tuyên bố họ là những kẻ thù không đội trời chung.

William và Beth cũng bị chia đôi tương tự. Họ cùng rời khỏi căn hộ ở Fullham vào sáng hôm đó nhưng chia tay trên bậc thềm của Toà án Công lý Hoàng gia trên phố Strand để đường ai nấy đi: William tới phòng xử án số mười bốn để theo vụ xử Faulkner, trong khi Beth vào phòng số hai mươi hai để ủng hộ cha mình. Cả hai đều đứng dậy khi các vị thẩm phán bước vào phòng.

CHÍNH QUYỀN KIỆN RAINSFORD

Ba thẩm phán bước vào phòng xử án hai mươi hai và ngồi xuống chỗ của mình trên ghế dài, Thẩm phán Lord Arnott làm chủ toạ, trong khi hai người bạn đáng kính của ông sẽ dự khán và cùng tham gia bàn bạc các điểm phức tạp.

Thẩm phán Lord Arnott ngồi xuống chiếc ghế ở giữa và vuốt lại chiếc áo chùng đỏ trong lúc tất cả những người khác trong phòng xử án ngồi xuống. Sir Julian muốn tin rằng các vị thẩm phán cũng giống như trọng tài trong môn cricket – khách quan và công bằng – và mặc dù ông cùng Thẩm phán Lord Arnott đã từng lời qua tiếng lại vài lần trong quá khứ, ông chưa nghe ai nói ông ấy không công bằng.

“Sir Julian,” thẩm phán nói và nhìn xuống một cách nhân hậu từ bục cao của mình. “Các đồng nghiệp và tôi đã dành kha khá thời gian để xem lại bằng chứng từ phiên xử đầu tiên, trong đó bị cáo đã bị kết tội giết đối tác làm ăn của mình, ông Gary Kirkland. Mối quan tâm duy nhất của chúng tôi trong các tiến trình sau đây là liệu có hay không có bất kì bằng chứng mới nào được đưa ra có thể chứng minh rằng pháp luật đã mắc sai lầm trong vụ án này. Do đó, tôi yêu cầu ông, Sir Julian, hay nhớ kĩ điều này.”

“Quả là tôi sẽ ghi nhớ, thưa quý Toà,” Sir Julian nói trong lúc đứng dậy. “Tuy nhiên, có thể sẽ có những lúc cần phải nhắc lại phiên toà ban đầu. Nhưng tôi sẽ cố gắng làm hết sức có thể để không thử thách lòng kiên nhẫn của quý Toà.”

“Tôi rất cảm kích, Sir Julian,” Thẩm phán Lord Arnott nói, dù giọng không có chút cảm kích nào. “Giờ có lẽ ông nên bắt đầu bài phát biểu mở màn của mình.”

CHÍNH QUYỀN KIỆN FAULKNER

Tại phòng xử án mười bốn, ông Booth Watson đang sắp nói đến cuối bài phát biểu mở màn của mình. Sau ý kiến trình toà của luật sư Adrian Palmer thay mặt Chính quyền, không thể trách bồi thẩm đoàn khi họ nghĩ rằng Miles Faulkner chính là hiện thân của quỷ dữ, nhưng đến khi ông Booth Watson ngồi lại chỗ của mình, họ lại có ấn tượng rằng thân chủ của ông ta chỉ còn cách việc được phong thánh có một bước nhỏ.

“Ông có thể cho gọi nhân chứng thứ nhất của mình, ông Palmer,” Thẩm phán Nourse nói, nhìn xuống từ bục cao.

“Chúng tôi xin gọi bà Christina Faulkner,” Palmer nói.

Giây phút các nhà báo ngồi trong khoang dành cho báo chí để mắt đến người phụ nữ cuốn hút đang đi vào phòng xử án, vài người trong số họ đã biết chắc ảnh của ai sẽ chiếm trọn các trang nhất báo sáng mai.

Mặc một bộ vest Armani màu xám đơn giản, cắt rất khéo và chỉ đeo một sợi dây chuyền ngọc trai duy nhất, bà Faulkner bước vào bục nhân chứng như thể bà ta sở hữu nó, và đọc lời tuyên thệ trong phong thái lặng lẽ nhưng vững vàng.

Ông Palmer đứng dậy và mỉm cười với nhân chứng chủ chốt của ông ta.

“Bà Faulkner, bà là vợ của bị cáo, ông Miles Faulkner.”

“Hiện nay là như vậy, thưa ông Palmer, nhưng tôi hi vọng là không còn lâu nữa,” bà ta nói trong lúc chồng bà lừ mắt nhìn từ vành móng ngựa.

“Bà Faulkner,” thẩm phán nói, “bà vui lòng chỉ trả lời các câu hỏi của luật sư, không đưa ý kiến cá nhân.”

“Tôi xin lỗi, thưa quý Toà.”

“Bà đã kết hôn với bị cáo bao lâu rồi?” Palmer hỏi.

“Mười một năm.”

“Và gần đây bà đã đệ đơn xin li hôn trên cơ sở ngoại tình và bạo lực tinh thần.”

“Việc này có liên quan không, ông Palmer?” thẩm phán hỏi.

“Thưa Toà, đó chỉ là để cho thấy mối quan hệ giữa hai người họ đã đổ vỡ không thể cứu vãn.”

“Vậy thì ông đã đạt được mục đích của mình rồi, ông Palmer, nên hãy tiếp tục.”

“Theo ý ngài, thưa quý Toà. Phiên toà này, như bà sẽ biết, bà Faulkner, liên quan đến vụ trộm tác phẩm The Syndics of the Clothmakers’ Guild, do họa sĩ Rembrandt vẽ, một tác phẩm vô giá, và được các tín đồ yêu nghệ thuật đánh giá là bảo vật quốc gia. Nên tôi phải hỏi lần đầu tiên bà biết về bức tranh là khi nào?”

“Khoảng hơn bảy năm trước, khi tôi trông thấy bức tranh được treo ở phòng khách nhà chúng tôi tại Limpton Hall.”

“Vậy là hơn bảy năm trước,” Palmer lặp lại, nhìn thẳng vào bồi thẩm đoàn.

“Đúng vậy, ông Palmer.”

“Và chồng bà có kể cho bà nghe ông ta đã có được kiệt tác nghệ thuật ấy như thế nào không?”

“Ngay từ đầu ông ta đã né tránh, nhưng khi tôi thúc giục, ông ta kể cho tôi nghe là mình đã mua nó từ một người bạn đang gặp khó khăn về tài chính.”

“Bà đã bao giờ gặp người bạn này chưa?”

“Chưa, tôi chưa gặp bao giờ.”

“Và khi nào thì bà nhận thức được là thực ra bức tranh ấy đã bị đánh cắp khỏi Viện bảo tàng Fitzmolean?”

“Khoảng vài tuần sau, khi tôi trông thấy nó trên chương trình Tin tức lúc mười giờ.”

“Bà có kể lại cho chồng về bản tin đó không?”

“Chắc chắn là không. Tôi quá sợ hãi, vì tôi biết quá rõ ông ta sẽ phản ứng như thế nào.”

“Cũng dễ hiểu.”

“Ông Palmer,” ngài Thẩm phán nghiêm giọng nói.

“Tôi xin lỗi, thưa quý Toà,” Palmer nói với một cái gật đầu khe khẽ vì biết rõ mình đã nêu bật được ý kiến của mình. Ông ta quay lại với nhân chứng. “Và khi bà không còn chịu đựng được sự dối trá này nữa, bà đã quyết tâm chính mình phải làm gì đó.”

“Vâng, tôi cảm thấy nếu tôi không làm gì cả, tôi sẽ thành kẻ đồng loã trong một vụ án. Vậy là khi chồng tôi đi nghỉ ở Úc vào dịp Giáng sinh vừa rồi, tôi đã gói ghém bức tranh và gửi nó về Anh trên du thuyền của chúng tôi, với lời chỉ dẫn rõ ràng là nó nên được trả về Fitzmolean.”

Booth Watson viết vội lời ghi chú trên tập giấy trước mặt ông ta.

“Nhưng chẳng lẽ bà không lo ngại về những hậu quả của việc đó khi chồng bà trở về sao?”

“Cực kì lo ngại, đó là lí do vì sao tôi lên kế hoạch rời khỏi đất nước ngay trước khi ông ta về.”

Booth Watson lại ghi chép thêm.

“Vậy tại sao bà vẫn chưa làm thế?”

“Vì bằng cách nào đó Miles đã biết được kế hoạch của tôi, và đáp chuyến bay tiếp theo về London để cố ngăn cản tôi trả lại bức tranh về với đúng chủ nhân của nó.” Bà ta khẽ cúi đầu e sợ.

“Lần tiếp theo bà gặp chồng mình là khi nào?”

“Ở Southampton, khi ông ấy lên du thuyền của chúng tôi, và cực kì không muốn mất bức Rembrandt đến nỗi đã tráo cái nhãn thùng đó với một thùng khác.”

Booth Watson ghi chú lần thứ ba.

“Nhưng nỗ lực đánh lừa cảnh sát ấy đã thất bại.”

“Ơn trời, nhưng chỉ vì có một thanh tra ở Scotland Yard, người đã đi cùng tới Southampton để thu hồi bức tranh, anh ta thấy nghi ngờ và khăng khăng đòi mở một chiếc thùng khác. Đó là khi họ khám phá ra bức Rembrandt đã bị mất tích.”

Bút chì của các nhà báo không ngừng phút nào.

“Và nhờ vào lòng can đảm cũng như sự ngoan cường của bà, bà Faulkner, bảo vật quốc gia này một lần nữa lại đang được treo trên tường Viện bảo tàng Fitzmolean.”

“Đúng là như vậy, ông Palmer, gần đây tôi đã tới thăm bảo tàng để chứng kiến kiệt tác ấy được treo lại về đúng chỗ của nó. Tôi đã rất hạnh phúc khi thấy có bao nhiêu công chúng, những người giống như tôi, được tận hưởng trải nghiệm này.”

“Cảm ơn bà, bà Faulkner. Tôi không còn câu hỏi nào, thưa Toà.”

Booth Watson nhìn khắp bồi thẩm đoàn, những người như sắp sửa vỗ tay tán thưởng khi ông Palmer ngồi xuống.

“Ông Booth Watson,” thẩm phán hỏi, “ông có muốn chất vấn nhân chứng này không?”

“Chắc chắn rồi, thưa quý Toà,” Booth Watson nói, đẩy người đứng lên và mỉm cười ngọt ngào với nhân chứng.

“Bà làm ơn nhắc tôi, bà Faulkner, lần đầu bà trông thấy bức Rembrandt là khi nào nhỉ?”

“Bảy năm trước, trong nhà chúng tôi ở vùng nông thôn.”

“Vậy thì tôi buộc phải hỏi, điều gì đã làm bà mất thời gian đến thế?”

“Tôi không chắc mình biết ông đang nhắm đến cái gì,” Christina nói.

“Tôi lại nghĩ bà biết quá rõ tôi đang nhắm đến cái gì, bà Faulkner ạ. Nhưng cứ để tôi nói ra cho bà. Khá đơn giản thôi, nếu bà đã biết từ bảy năm trước rằng bức tranh này đã bị đánh cắp, tại sao phải chờ đến tận bây giờ mới báo cảnh sát?”

“Tôi phải chờ đến đúng thời điểm.”

“Và thời điểm đó đã không xuất hiện trong suốt bảy năm ư?” Booth Watson nói, nghe có vẻ khó tin.

Christina ngập ngừng, cho phép Booth Watson thọc dao vào sâu hơn.

“Tôi sẽ gợi ý nhé, bà Faulkner, thời điểm mà bà đang thực sự chờ đợi, là để ăn cắp toàn bộ bộ sưu tập nghệ thuật của chồng bà, trong lúc ông ấy đang an nhàn ngồi phía bên kia địa cầu phải không?”

“Nhưng tôi đã không định…” Bà ta do dự, cho Booth Watson cơ hội để vặn con dao.

“Tôi nghĩ bà đã lên kế hoạch cho âm mưu ăn trộm táo bạo này một thời gian khá dài rồi, bà Faulkner ạ, và chỉ dùng bức tranh Rembrandt như một vỏ bọc nguỵ trang để cho bà cơ hội trốn thoát tốt hơn thôi.”

Một loạt những tiếng thì thào dâng lên trong phòng xử án, nhưng Booth Watson kiên nhẫn chờ đợi sự im lặng trở lại, trước khi chậm rãi rút con dao ra.

“Bà Faulkner, có phải trong lúc chồng bà đang ở Melbourne, bà đã cho gói ghém tất cả các tác phẩm nghệ thuật ở nhà ông ấy tại Monte Carlo rồi đưa ra cảng, nơi chúng được đưa xuống hầm tàu chiếc du thuyền của chồng bà không?”

“Nhưng đằng nào thì một nửa số đó cũng là của tôi rồi,” Christina phản đối.

“Tôi biết rõ là bà đang đệ đơn li dị chồng mình rồi,” Booth Watson nói, “như người bạn đáng kính của tôi đã nhắc nhở tất cả chúng ta, nhưng ở đất nước này, thưa bà Faulkner, theo truyền thống chúng ta để toà án quyết định bao nhiêu phần trong tài sản của người đàn ông nên được chia cho người vợ của ông ta. Rõ ràng là bà không sẵn lòng chờ rồi.”

“Nhưng đó mới chỉ là khoảng một phần ba bộ sưu tập thôi.”

“Có thể là thế, nhưng sau khi chiếc du thuyền đã giong buồm từ Monte Carlo tới Southampton với một phần ba bộ sưu tập nghệ thuật của chồng bà trên boong, bà đã làm gì tiếp theo?”

Christina vẫn cúi đầu. William cau mày.

“Vì bà có vẻ không sẵn lòng trả lời câu hỏi của tôi, bà Faulkner, cho phép tôi nhắc lại chính xác việc bà đã làm. Bà đáp chuyến bay tiếp theo về London, đi xuống dinh thự thôn quê của bà, và một lần nữa xắn tay gói ghém mọi bức tranh trong nhà.”

Một hay hai thành viên của bồi thẩm đoàn thốt lên ngạc nhiên, trong khi Booth Watson kiên nhẫn chờ nhân chứng trả lời. Khi không có câu nào phát ra, ông ta lật một trang sổ ghi chép của mình và nói tiếp. “Sáng hôm sau, một chiếc xe tải chuyển hàng xuất hiện ở nhà, chất hết số tranh đó lên và theo lời hướng dẫn của bà, họ mang chúng tới Southampton để chờ chiếc du thuyền của bà về, để chúng cũng sẽ được đưa lên tàu. Vậy, giờ bà đã có hai phần ba bộ sưu tập,” Booth Watson nói, lừ mắt nhìn nạn nhân của mình, người chỉ có thể nhìn lại ông ta chằm chằm như một chú thỏ đứng trước đèn pha ô tô.

“Và thậm chí như thế vẫn còn chưa đủ cho bà,” Booth Watson nói tiếp, “bởi vì sau đó bà đã ra lệnh cho thuyền trưởng của chiếc du thuyền là bà sẽ lên tàu với ý định đi New York để tới thẳng căn hộ của chồng bà tại Đại lộ số Năm và tước bỏ phần còn lại trong bộ sưu tập trứ danh của ông ấy. Rồi, giống như con cú và con mèo1, bà hi vọng sẽ giong buồm ra khơi một năm lẻ một ngày trên chiếc tàu màu xanh hạt đậu xinh đẹp của bà, hay nói cho đúng hơn là chiếc du thuyền đẹp đẽ của chồng bà.”

1 Chỉ bài thơ The owl and The pussycat của Edward Lear

“Nhưng không có gì thay đổi được thực tế là Miles đã đánh cắp bức Rembrandt ngay từ đầu, rồi tráo hai cái nhãn trên thùng tranh để cố ngăn việc nó được trả về Fitzmolean.”

William mỉm cười.

Thẩm phán gật đầu nghiêm trang, buộc Booth Watson, như một thợ lái tàu thuần thục, phải thay đổi chiến thuật.

“Cho phép tôi hỏi một câu đơn giản, bà Faulkner,” ông ta nói, gần như thì thầm. “Bà có công nhận chồng mình là một người đàn ông thông minh không?”

“Thông minh, áp đảo người khác và đa mưu túc trí,” câu trả lời lập tức bật ra.

“Vậy thì tôi buộc phải hỏi bà, bà Faulkner, nếu ông ấy thông minh như thế, áp đảo và đa mưu túc trí như vậy, tại sao ông ấy lại đổi cái nhãn sang một chiếc thùng khác có chứa bức tranh thậm chí còn đắt tiền hơn cả bức Rembrandt mà Chính quyền đang cáo buộc ông ấy đã ăn cắp?” Booth Watson không cho nhân chứng cơ hội trả lời trước khi nói thêm, “Không, bà Faulkner ạ, chính bà mới là người thông minh, áp đảo và đa mưu túc trí, và đó là thứ đã khiến bà có khả năng suýt chút nữa thì thoát tội ăn trộm một trong những bộ sưu tập tranh đắt giá nhất hành tinh, trong lúc ấy còn âm mưu đẩy thân chủ tôi vào tù vì một tội ác mà ông ấy đã không phạm phải. Không có câu hỏi nào thêm, thưa quý Toà.”

CHÍNH QUYỀN KIỆN RAINSFORD

“Sir Julian, ông có thể gọi nhân chứng đầu tiên.”

“Cảm ơn, thưa quý Toà. Tôi mời ông Barry Stern.”

“Đây có phải là vị thanh tra đã từng làm nhân chứng chính của Chính quyền trong phiên toà đầu tiên không?” chủ toạ hỏi thay mặt các đồng nghiệp.

“Vâng, thưa Toà. Và tôi đã phải gửi trát hầu toà đến ông ấy vì ông ấy đã không còn là cảnh sát nữa, do đó cần phải được coi là một nhân chứng thành kiến.”

“Tôi hi vọng ông sắp đưa ra vài bằng chứng mới, Sir Julian ạ, chứ không phải chỉ đưa tất cả chúng ta đi câu một chuyến.”

“Tôi tin là mình sẽ làm được, thưa quý Toà, nhưng, không như ngài, tôi sẵn sàng co kéo những giới hạn pháp lý một chút nếu điều đó có nghĩa là nó mang lại cơ hội dù mong manh nhất để một người đàn ông vô tội tìm được công lý.”

Thẩm phán Lord Arnott trông không có vẻ bị ấn tượng, nhưng chấp nhận với một cái cau mày khi cánh cửa toà án mở ra và một người đàn ông mập mạp, tuổi độ ngũ tuần với mái tóc cắt cua, mặc quần bò và áo khoác da xuất hiện. Stern lên bục nhân chứng và đọc tuyên thệ mà không cần nhìn vào tấm thẻ thư kí toà đã giơ lên. Sau đó ông ta lừ mắt nhìn sang bên luật sư biện hộ như một võ sĩ đấm bốc đang chờ tiếng chuông vang lên.

“Ông đã phục vụ trong ngành cảnh sát bao lâu rồi, ông Stern?”

“Hai mươi tám năm. Những năm đẹp nhất đời tôi.”

“Có thật không?” Sir Julian hỏi. “Vậy thì tại sao ông lại nghỉ hưu sớm, trong khi đáng lẽ ông đã được nhận đầy đủ lương hưu sau khi phục vụ thêm có hai năm nữa?”

“Tôi đã muốn dừng lại trên đỉnh vinh quang, không đúng sao?”

“Bằng cách kết thúc sự nghiệp của mình với một vụ án mạng ư? Nhưng trước khi nói tới đoạn đó, tôi phải hỏi ông, trong suốt những năm tháng đẹp nhất đời ông ấy, ông Stern, đã có bao nhiêu lần ông bị đình chỉ công tác?”

“Hướng thẩm vấn này có liên quan tới vụ án không, Sir Julian?” Thẩm phán Lord Arnott hỏi.

“Nó đi tới trung tâm của vụ việc, thưa quý Toà,” Sir Julian nói trong lúc cầm lên một trong hai tập hồ sơ cá nhân mà William đã từng gặp. Ông mở tập đầu tiên tới một trang được đánh dấu bằng tờ giấy nhớ to màu đỏ một cách khoa trương. “Bao nhiêu lần nhỉ?” ông lặp lại.

“Ba,” Stern nói, không còn vẻ tự tin như trước.

“Và vụ vi phạm đầu tiên là do say trong lúc làm nhiệm vụ?”

“Có thể thi thoảng vào tối thứ Sáu tôi cũng uống vài ba vại bia,” Stern thú nhận.

“Trong khi ông vẫn còn đang làm nhiệm vụ ư?”

“Chỉ sau khi chúng tôi đã bắt được một kẻ xấu thôi.”

“Và chính xác thì ông đã bị phạt vì uống rượu trong lúc làm nhiệm vụ bao nhiêu lần, sau khi vừa bắt một tên tội phạm vào tối thứ Sáu?”

“Tôi nghĩ là hai lần.”

“Nghĩ lại xem, ông Stern,” Sir Julian nói, cho nhân chứng thời gian để cân nhắc lại.

“Có thể là ba lần.”

“Tôi nghĩ ông sẽ tìm ra tổng cộng là bốn lần cơ, ông Stern ạ. Và còn bao nhiêu lần khác khi ông cũng say trong lúc làm nhiệm vụ, nhưng không bị phạt?”

“Chưa bao giờ,” Stern nói, giọng ông ta to lên. “Chỉ có bốn lần ấy trong suốt hai mươi tám năm.”

“Và lúc nào cũng là vào tối thứ Sáu sao?”

Stern có vẻ bối rối.

“Và lần thứ hai ông bị kỉ luật, ông có thể kể cho toà nghe ông đã bị mắc lỗi gì không?”

“Tôi không nhớ. Chuyện đã lâu quá rồi.”

“Vậy thì để tôi nhắc ông nhé, ông Stern. Ông đã bị bắt quả tang đang giao cấu với một cô gái điếm trong khi cô ta đang ở trong buồng giam. Giờ ông nhớ chưa?”

“Tôi nhớ. Nhưng cô ta là…”

“Cô ta là gì cơ, ông Stern?”

“Có lẽ tôi nên nhắc ông điều ông đã nói vào dịp ấy.” Sir Julian nhìn xuống hồ sơ, trong lúc Stern vẫn tiếp tục im lặng. “Cô ta chính là một con điếm nhỏ, và đã nhận đúng phần đáng phải nhận, không hơn không kém.”

Một loạt những tiếng xì xào vang lên sau đó, và Thẩm phán Lord Arnott chờ cho dịu đi rồi hỏi, “Đó không phải là tin đồn sao, Sir Julian?”

“Không, thưa quý Toà, tôi chỉ đơn giản đang đọc lời khai của ông Stern trong bản báo cáo của toà thôi.”

Vị thẩm phán gật đầu nghiêm nghị.

“Ông Stern, vừa mới lúc nãy ông khai với toà rằng ông chỉ bị phạt ba lần, nhưng đó đã là lần thứ năm rồi, và tôi vẫn còn chưa nói xong.”

Cả ba thẩm phán đều nhìn thẳng vào nhân chứng.

“Ý tôi là ba lần phạm lỗi khác nhau.”

“Vậy là không phải lúc nào lời nói và ý định của ông cũng giống nhau.”

Stern nhìn như thể ông ta sắp đáp trả, nhưng chỉ siết chặt hai nắm tay của mình.

“Vậy ta hãy chuyển sang lần vi phạm thứ sáu, sau đó cả một cuộc điều tra đầy đủ đã được tiến hành, và ông bị đình chỉ sáu tháng liền.”

“Vẫn nhận lương đầy đủ, sau đó các cáo buộc ấy cũng bị bãi bỏ.”

“Việc đó không hoàn toàn chính xác, đúng không ông Stern? Thực ra ông đã xin nghỉ hưu sớm chỉ vài tuần trước khi cuộc điều tra đó hoàn tất. Và trong dịp này, ông đã bị cáo buộc ăn cắp bốn ngàn bảng từ một tù nhân trong khi anh ta đang bị giam.”

“Hắn là một tên buôn ma tuý.”

“Có đúng vậy không?” Sir Julian nói. “Vậy là ông coi việc một sĩ quan cảnh sát ăn cắp tiền của một tên buôn ma tuý là chấp nhận được à?”

“Tôi có nói thế đâu. Ông đang nhét chữ vào mồm tôi. Dù thế nào đi nữa, ngay hôm sau hắn cũng đã rút lại đơn tố cáo rồi.”

“Tôi chắc hắn ta đã làm vậy. Tuy nhiên…”

“Tôi nghĩ chúng ta nên đi tiếp, Sir Julian,” Thẩm phán Lord Arnott cắt ngang, “tới vai trò của vị cảnh sát này trong phiên toà của ông Rainford.”

“Theo ý ngài, thưa quý Toà,” Sir Julian nói và gật đầu với Grace, cô đưa cho ông tập hồ sơ thứ hai. “Tại phiên toà của ông Rainsford, ông Stern, tôi có đúng không khi nghĩ ông là sĩ quan cảnh sát cấp cao đã điều tra vụ án đó?”

“Đúng, là tôi,” Stern nói, nhìn như thể ông ta nghĩ mình đã lại về vùng đất an toàn.

“Trong quá trình điều tra của mình, đã bao giờ ông cân nhắc đến việc tìm kiếm người đàn ông thấp lùn, đậm người như thân chủ của tôi đã kể đi kể lại với ông, rằng hắn đã chạy qua ông ấy trong hành lang văn phòng, vào cái đêm có án mạng?”

“Ý ông là người bí ẩn đó ư?” Stern nói. “Sao phải nhọc công vậy, khi mà hắn ta chẳng là gì ngoài một nhân vật tưởng tượng của Rainsford.”

“Vậy là ông cũng đã không mất công sức truy tìm người gọi nặc danh đã báo cáo cái chết của ông Kirkland với cảnh sát.”

“Đó chẳng phải là ý nghĩa của từ nặc danh ư?” Stern nói và cười khẩy, nhưng không ai khác cười theo.

“Ông Stern, chẳng lẽ ông không nghĩ ra là một cuộc gọi nặc danh chỉ có thể tới từ ai đó đã thực sự chứng kiến tội ác?”

“Nhưng Rainsford đã thú tội. Ông còn muốn gì hơn nữa?”

“Tôi muốn công lý,” Sir Julian nói. “Và cùng với lời nhận xét vô tư đó, ông Stern, ông vừa mới đưa ra một câu hỏi mấu chốt chưa được trả lời trong vụ án này. Ai là người nói thật – ông, hay ông Rainsford?”

“Tôi,” Stern nói, “như bồi thẩm đoàn đã kết luận.”

“Vậy ông sẽ không gặp rắc rối gì trong việc thuyết phục ba vị thẩm phán, đúng không nào?”

Stern nhìn lên bục cao, vào ba người đàn ông đang không hề lộ ra họ nghĩ gì.

Sir Julian cho các vị thẩm phán vài giây trước khi ông nói tiếp, “Liệu ông Rainsford có đang nói sự thật khi bảo rằng lời khai ban đầu của ông ấy, như ông đã ghi chép, bao gồm ba trang giấy, một trong số đó sau này đã bị mất? Hay chúng tôi phải tin rằng, như ông đã tuyên thệ trên bục nhân chứng suốt phiên toà, từ đầu đến cuối chỉ có hai trang giấy?”

“Chưa bao giờ có trang giữa cả,” Stern nói.

“Trang giữa ư, ông Stern? Tôi có nhắc gì đến trang giữa đâu nhỉ.”

“Có gì khác nhau?”

“Sự khác biệt nằm ở chỗ nó cho thấy ông biết trang nào là trang bị mất. Để tôi hỏi nhé, ông có đánh số các trang lời khai của ông Rainsford không?”

“Tất nhiên là có, một và hai, và Rainsford đã kí vào cả hai. Hơn thế nữa, thanh tra Clarkson và tôi cùng làm chứng chữ kí của ông ta.”

“Nhưng thanh tra Clarkson chứng kiến lời khai đó khi nào, ông Stern?”

Stern do dự trước khi nói, “Sáng hôm sau.”

“Vậy là ông có thừa đủ thời gian vứt bỏ trang giữa.”

“Tôi phải nói với ông bao nhiêu lần là chưa từng có trang ở giữa nữa.”

“Chúng tôi chỉ có mỗi lời khai của ông cho câu hỏi đó thôi, ông Stern.”

“Thế còn thanh tra Clarkson, người sau đó đã được thăng chức, ấy là còn chưa kể đến cả bồi thẩm đoàn, những người đã chắc chắn khách hàng của ông có tội.”

“Tôi phải nói là họ nghi ngờ đáng kể đấy,” Sir Julian cắt lời ông ta, “bởi vì họ đã phải mất tới bốn ngày mới đưa ra được phán quyết, mà tỷ lệ đồng thuận cũng suýt soát.”

“Với tôi thế là đủ tốt rồi,” Stern nói, giọng hơi cao lên.

“Tất nhiên là thế,” Sir Julian nói, “bởi vì việc đó cho phép ông kết thúc sự nghiệp ở đỉnh cao, như ông đã kiêu ngạo nói vậy, và ra đi mà không cần phải đối mặt với một cuộc điều tra nào nữa.”

Luật sư tư vấn Alun Llewellyn thay mặt Chính quyền miễn cưỡng đứng dậy từ đầu bên kia bục và nói, “Xin được nhắc nhở người bạn uyên bác của tôi rằng người đang bị xử là thân chủ của ông ấy, chứ không phải ông Stern.”

Một cái nhìn tự đắc hiện trên mặt Stern.

“Ông có tỉnh táo lúc bắt Arthur Rainsford vào 5 giờ 30 phút chiều thứ Sáu ấy không?” Sir Julian hỏi.

“Tỉnh táo như một thẩm phán vậy,” Stern nói, cười toe toét với ba vị thẩm phán, không ai trong số họ đáp lại lời khen.

“Và cả khi đã tạm giam ông ấy vào lúc 6 giờ 42 phút nữa?” ông hỏi, kiểm tra các ghi chép của mình.

“Như một thẩm phán,” Stern lặp lại.

“Và khi nhốt ông ấy vào buồng giam lúc 6 giờ 49 phút, rồi bỏ lại ông ấy một mình trong đó suốt gần hai tiếng nữa?”

“Tôi nên cho ông ta dành thời gian để nghĩ về những gì mình sẽ nói, đúng không nào?” Stern nói và cười với ba vị thẩm phán.

“Và cũng cho phép mình đủ thời gian để uống vài vại, vì vừa mới tóm được một kẻ xấu nữa vào tối thứ Sáu chứ.”

Stern siết chặt hai nắm tay và ương ngạng nhìn thẳng vào địch thủ của mình. “Tôi có uống vài vại bia thì đã sao nào? Tôi vẫn đủ tỉnh táo để…”

“Đủ tỉnh táo để ghi lời khai của ông Rainsford vào lúc 8 giờ 23 phút.”

“Đúng, đúng, đúng,” Stern nói, giọng ông ta to lên theo từng chữ một. “Tôi phải kể với ông bao nhiêu lần nữa hả?”

“Và đủ tỉnh táo để loại bỏ tờ ở giữa trong lời khai của thân chủ tôi trong đêm đó để đảm bảo mình được nghỉ hưu trong vinh quang?”

“Đêm đó tôi chẳng loại bỏ cái gì cả,” Stern quát lại.

“Vậy có lẽ là sáng hôm sau chăng?” Sir Julian bình tĩnh hỏi lại. “Tôi cho là ông đã đủ tỉnh táo để bỏ nó vào sáng hôm sau.”

“Đêm hôm trước đó tôi cũng đã đủ tỉnh để đảm bảo là tên khốn nạn nhận đúng nhận đủ thứ hắn xứng đáng nhận rồi,” Stern hét lên, chĩa một ngón tay vào luật sư biện hộ.

Một sự im lặng nặng nề bao trùm khắp phòng xử án, tất cả mọi người đều nhìn chằm chằm vào nhân chứng.

“Đêm hôm trước đó tôi cũng đã đủ tỉnh để đảm bảo là tên khốn nạn nhận đúng nhận đủ thứ hắn xứng đáng nhận rồi,” Sir Julian lặp lại, đáp trả cái lừ mắt của Stern. “Không còn câu hỏi nào khác, thưa quý Toà.”

“Ông có thể bước xuống, ông Stern,” Thẩm phán Lord Arnott uể oải nói.

Trong lúc Stern đang rời phòng xử án, Sir Julian nhìn lên ba vị thẩm phán lúc này đang say sưa thảo luận. Grace cắt ngang suy nghĩ của ông khi cô vươn người sang và nói, “Con phải rời đi một lúc. Con không đi lâu đâu.”

Sir Julian gật đầu khi luật sư trợ thủ của mình nhanh chóng đi ra khỏi phòng, chạy xuống cầu thang cẩm thạch và chạy ra phố, ở đó một đám phóng viên đang chờ chụp bức ảnh “hôm nay” lúc Faulkner rời toà. Cơ hội duy nhất để họ chụp được một bức ảnh Arthur Rainsford là nếu ông được rời toà án với tư cách người tự do.

Grace nhìn họ từ đằng xa một lúc, rồi chọn người có cặp mắt không ngừng tìm kiếm một bức ảnh trang bìa. Cô băng qua đường và thì thầm với anh ta, “Tôi nói riêng vài lời được không?”

Tay săn ảnh tách ra khỏi đám người và lắng nghe yêu cầu của cô.

“Tôi sẵn lòng mà,” anh ta nói khi được Grace dúi cho một tờ năm bảng. “Cái này không cần thiết đâu, cô gái,” anh ta nói và đưa tiền trả lại. “Arthur Rainsford không đáng bị vào tù ngay từ đầu.”