• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Dấn thân
  3. Trang 34

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 39
  • Sau

Chương 30

Sáng hôm sau Sir Julian đến Toà án Công lý Hoàng gia sớm một tiếng trước khi phiên toà được nối lại. Một thư kí toà đi cùng ông và Grace xuống dãy phòng trong tầng hầm để họ có thể tham vấn với khách hàng.

“Ông xoá sổ Stern rồi,” Arthur nói, bắt tay Sir Julian nồng ấm. “Nếu ông mà là người đại diện cho tôi ở phiên toà đầu tiên thì có lẽ bản án đã rất khác.”

“Ông rất tử tế khi nói vậy, Arthur, nhưng dù tôi cũng đã đánh trúng vài cú, không may là tôi còn chưa hạ đo ván Stern. Và thực tế vẫn là, chúng ta phải đối diện với ba vị thẩm phán Toà đại hình, chứ không phải một bồi thẩm đoàn. Quyết định của các vị quan toà sẽ không dựa trên nghi ngờ mà là những tiêu chí khắt khe hơn nhiều, trước khi họ có thể cân nhắc đến việc đảo ngược quyết định của bồi thẩm đoàn và tuyên bố một vụ án oan. Một phần quan trọng giờ đây phụ thuộc vào lời chứng của Giáo sư Abrahams.”

“Con thì không biết chắc ba vị Solomon đáng kính kia sẽ phản ứng với ông giáo sư thế nào,” Grace nói.

“Ta cũng thế thôi,” Sir Julian thú thật. “Nhưng ông ấy là hi vọng lớn nhất của chúng ta.”

“Ông vẫn còn có thể đối chất với thanh tra Clarkson mà,” Arthur nhắc ông.

“Phụ tá của Stern sẽ chỉ lặp lại những lời sư phụ anh ta đã nói thôi. Ông có thể chắc chắn là đêm qua anh ta cùng Stern đã ở trong một quán rượu để cùng phân tích mọi câu hỏi của tôi.” Sir Julian xem đồng hồ. “Chúng ta nên đi thôi. Không thể để các vị thẩm phán chờ được.”

“Anh đã bắt bẻ được vợ tôi hôm qua đó, BW,” Faulkner nói trong bữa sáng tại nhà hàng Savoy.

“Cảm ơn ông, Miles. Nhưng khi nào Palmer đối chất với ông, ông sẽ vẫn phải giải thích với bồi thẩm đoàn bức Rembrandt đã ở đâu trong suốt bảy năm qua, làm thế nào mà ông lại có được nó ngay từ đầu, và tại sao lại đổi nhãn của hai cái thùng. Tốt hơn ông nên chuẩn bị sẵn những câu trả lời thuyết phục với mọi câu hỏi, và vài câu ngoài lề nữa, vì Palmer sẽ giương hết súng vào ông đó.”

“Tôi sẵn sàng đón ông ta rồi. Và tôi đã quyết định sẽ hi sinh như lời anh gợi ý.”

“Rất khôn ngoan. Nhưng giờ cứ giữ kĩ lá bài đó, và để tôi quyết định khi nào thì nên dùng tới.”

“Hiểu rồi, BW. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?”

“Chính quyền sẽ gọi Chỉ huy Hawksby lên, và chắc chắn ông ta sẽ ủng hộ câu chuyện của vợ ông. Với ông ta, bà ta là người ít xấu xa hơn trong hai người.”

“Vậy anh sẽ phải loại bỏ ông ta thôi.”

“Tôi không định đối chất với ông ta.”

“Sao lại không?” Faulkner hỏi khi một người bồi bàn rót thêm cà phê cho họ.

“Hawksby là dân chuyên đã lớn tuổi, bồi thẩm đoàn sẽ tin ông ta, nên chúng ta cần giữ ngài chỉ huy ở nơi an toàn nhanh nhất có thể.”

“Nhưng việc đó không áp dụng cho Cậu bé đồng ca,” Faulkner nói.

“Đồng ý, nhưng Chính quyền còn lâu mới cho cậu ta đến gần bục nhân chứng. Như thế là quá mạo hiểm.”

“Tại sao anh lại không đòi cậu ta?”

“Cũng quá nguy hiểm. Warwick là một ẩn số, còn các luật sư thì luôn muốn biết câu trả lời trước khi hỏi một câu hỏi. Theo cách đó họ sẽ không bị bất ngờ. Nên nói thật nhé, Miles, tôi cần ông phải sáng bóng không tì vết, bởi vì điều quan trọng nhất trong tâm trí của bồi thẩm đoàn khi họ cân nhắc bản án sẽ là mức độ tín nhiệm của ông.”

“Không áp lực gì đâu,” Miles nói.

“Trước đây ông đã từng lâm vào cảnh cam go rồi.”

“Chưa từng cam go đến mức này.”

“Chính vì thế ông sẽ phải chơi ván bài đỉnh nhất.”

“Nếu không thì sao?”

Booth Watson uống cạn cốc cà phê của mình trước khi trả lời, “Ông sẽ không được ăn thịt hun khói và trứng ở Savoy trong khoảng thời gian khá dài đấy.”

CHÍNH QUYỀN KIỆN RAINSFORD

“Thưa quý Toà, theo truyền thống ngành luật hình sự nước ta, một luật sư có thể yêu cầu trợ lí của mình tiến hành thẩm vấn trong phiên toà. Với sự cho phép của các ngài, tôi sẽ mời luật sư trợ lí hỏi nhân chứng tiếp theo.”

“Toà cho phép, Sir Julian,” Thẩm phán Lord Arnott nói sau khi tham vấn nhanh với hai đồng nghiệp. Rồi ông ta dành cho Grace nụ cười ấm áp nhất suốt từ đầu phiên toà đến giờ.

Grace loạng choạng đứng dậy, biết rõ không chỉ tất cả mọi người đều đang nhìn vào mình, mà số phận của Arthur Rainsford cũng đang nằm trong tay cô. Từng ấy năm học tập và rèn luyện, chưa kể biết bao nhiêu giờ ngồi dưới chân cha cô trong lúc ông phân tích luật và giải thích các quy trình của toà án cho cô nghe. Giờ là lúc ông đang truyền lại trách nhiệm cho cô, kì vọng cô hoàn thành nốt phiên cuối cùng.

Sir Julian ngồi thẳng lại, hi vọng không để lộ rằng mình cũng đang căng thẳng không kém gì con gái. Việc mẹ cô đang ngồi kẹp giữa Beth và Joanna Rainsford ở cuối phòng xử án, trong lúc hai người họ nghiêng người về phía trước và nhìn như những cổ động viên bóng đá đang chờ đợi bàn thắng đầu tiên càng không giúp gì được cho Grace.

Grace đặt tập hồ sơ của mình lên cái giá nhỏ mà cha cô đã tặng vào ngày cô gia nhập văn phòng ông. Cô mở nó ra, nhìn xuống trang đầu tiên và tâm trí cô trống rỗng.

“Cô đã sẵn sàng gọi nhân chứng tiếp theo chưa, cô Warwick?”

“Chúng tôi xin gọi Giáo sư Leonard Abrahams,” Grace nói, ngạc nhiên vì giọng mình lại nghe chắc chắn như vậy, vì chân cô đang không được tự tin như giọng nói.

Nếu không phải vì cánh cửa phòng xử án đã được mở ra rồi đóng lại, những người quan sát hẳn sẽ được tha thứ vì vẫn còn thắc mắc nhân chứng tiếp theo đã vào phòng hay chưa. Abrahams chớp mắt, nhìn quanh, cuối cùng trông thấy bục nhân chứng ở góc xa của căn phòng. Khi ông đi đến nơi, ông ngạc nhiên khi phát hiện ra không có cái ghế nào để ngồi, mà ông sẽ đứng suốt buổi thẩm vấn của mình. Đúng là kiểu của người Anh, ông nghĩ bụng.

Thư kí toà giơ lên một tấm thẻ, không hề ngạc nhiên khi nhân chứng đang mặc chiếc áo choàng ngắn của phòng thí nghiệm và một chiếc áo sơ-mi xanh lục hở cổ. Abrahams đặt một tay lên cuốn Kinh thánh – à thì, ít nhất cũng là Cựu ước – trước khi đọc từng lời, “Nhân danh Chúa toàn năng tôi xin thề rằng bằng chứng mà tôi sẽ đưa ra là sự thật, toàn bộ sự thật và không gì ngoài sự thật,” trước khi nói thêm, “cầu Chúa phù hộ cho tôi.”

Sau đó ông ta nhìn quanh phòng xử án, nhẹ nhõm khi thấy chiếc hộp nhỏ kì diệu của mình đã được đặt trên sàn giữa bục nhân chứng và ba vị thẩm phán, đúng như ông đã yêu cầu.

Ánh mắt ông hướng về phía Grace, một trong những cô gái thông minh nhất mà ông từng biết trong suốt những năm dạy dỗ các cô gái trẻ thông minh của mình. Ông đã thích cô ngay từ giây phút họ gặp nhau ở Heathrow, nhưng phải mãi sau này ông mới cảm thấy tôn trọng khả năng nắm bắt chi tiết và sự kiên trì theo đuổi các dữ kiện của cô, cũng như niềm tin đầy nhiệt huyết vào công lý. Ông tự hỏi liệu Sir Julian có nhận ra con gái mình tài năng đến đâu hay không.

“Giáo sư Abrahams,” Grace nói, “tôi xin bắt đầu bằng cách hỏi ông về tiểu sử của ông, để các vị thẩm phán đánh giá cao kĩ năng và chuyên môn đặc biệt mà ông đã mang tới cho vụ án này.” Ông đã quá quen với việc Grace gọi mình là Len, đến nỗi ông giật mình khi cô gọi ông là giáo sư. “Ông mang quốc tịch gì, thưa giáo sư?”

“Tôi là người Mỹ, mặc dù tôi sinh ra ở Ba Lan. Tôi nhập cư vào Hoa Kỳ năm mười bảy tuổi, khi giành được một học bổng môn vật lý học tại trường Đại học Columbia ở New York. Tôi hoàn tất bằng tiến sĩ của mình ở Brown, và viết luận án về việc sử dụng ESDA trong các vụ án hình sự.”

“ESDA à?” Grace lặp lại, vì lợi ích của mọi người khác trong khán phòng, ngoài hai người họ.

“Bộ dụng cụ dò sóng tĩnh điện.”

“Kể từ đó ông đã viết thêm hai công trình khoa học lớn nữa về đề tài này, và gần đây đã được trao Huân chương Quốc gia về Khoa học.”

“Chính xác.”

“Thêm vào đó, ông đã…”

“Tôi nghĩ là cô đã nói đủ rõ rồi, cô Warwick,” Thẩm phán Lord Arnott cắt ngang, “rằng vị giáo sư này là người xuất sắc trong lĩnh vực của ông ấy. Có lẽ đã đến lúc cô cho chúng tôi xem chuyên môn của ông ấy có liên hệ gì với vụ án cụ thể này. Tôi chỉ hi vọng,” ông nói thêm, quay sang đối diện nhân chứng, “rằng các đồng nghiệp của tôi và tôi sẽ theo kịp ông, giáo sư.”

“Đừng lo, thưa quý Toà,” Abrahams nói. “Tôi sẽ coi như cả ba vị đều là các tân sinh viên.”

Sir Julian nín thở, trong lúc Grace nhìn đăm đăm lo lắng vào các vị thẩm phán, chờ một lời đáp trả nghiêm khắc, nhưng không có lời nào phát ra. Ba thẩm phán chỉ cười rồi Thẩm phán Lord Arnott nói, “Ông rất chu đáo, giáo sư ạ, và tôi hi vọng ông sẽ tha thứ nếu thi thoảng tôi thấy cần thiết phải hỏi ông vài câu.”

“Cứ việc hỏi lúc nào cũng được, thưa quý Toà. Và để trả lời câu hỏi đầu tiên của ngài, về sự liên quan giữa ESDA với vụ án cụ thể này, tôi phải thú nhận, tôi sẽ không cân nhắc đến chuyện nhận trọng trách này nếu nó không cho tôi một cơ hội để ghé thăm mẹ tôi.”

“Mẹ ông sống ở Anh ư?” Ngài Thẩm phán Arnott hỏi.

“Không, thưa quý Toà, ở Warsaw. Nhưng nước Anh nằm trên đường đi.”

“Tôi chưa từng nghĩ nước Anh lại nằm trên đường đi đến bất kì đâu cả,” thẩm phán nói, “nhưng vui lòng nói tiếp, giáo sư.”

“Để làm vậy, thưa quý Toà, đầu tiên tôi phải giải thích tại sao giờ đây Hiệp hội Luật sư Mỹ đã coi ESDA là một vũ khí quan trọng trong kho vũ trang của họ. Trước đây không phải lúc nào cũng vậy. Sự thay đổi chỉ mới xảy ra gần đây, khi một ông nghị mà tôi cực kì ghét nói với toà án giữa phiên xét xử ông ta tội lừa đảo rằng ông ta đã đọc từng trang một trong một tài liệu quân sự rất nhạy cảm, và nghi ngờ là vài trang đã được thêm vào sau này. Tôi đã chứng minh ông ta nói dối với toà, dẫn đến kết quả không những ông ta phải từ chức, mà còn phải ngồi tù một thời gian dài nữa.”

“Nhưng trong trường hợp này, như tôi hiểu,” Thẩm phán Lord Arnott nói, “ông sẽ cố gắng chứng minh điều ngược lại hoàn toàn, tức là một tờ giấy đã bị bỏ ra, chứ không phải thêm vào.”

“Chính xác, thưa quý Toà. Và nếu ngài cho phép tôi giám định vật chứng trước sự hiện diện của ngài, tôi tin rằng mình cũng có thể xác minh liệu Arthur Rainsford hay thanh tra Stern là người đã dối trá trước lời tuyên thệ. Bởi vì không thể có chuyện cả hai cùng đang nói thật được.” Giờ thì vị giáo sư đã được toàn thể mọi người trong phòng xử án chú ý sát sao.

“Vượt trên cả nghi ngờ hợp lí ư?” Arnott hỏi, nhướng một bên chân mày.

“Các nhà khoa học không làm việc với sự nghi ngờ, thưa Toà. Hoặc thực tế hoặc hư cấu thôi.”

Điều này làm vị thẩm phán im phăng phắc.

“Nhưng để chứng minh luận điểm của tôi, thưa quý Toà, tôi sẽ cần xin phép ngài được rời bục nhân chứng và thực hiện một thí nghiệm.”

Thẩm phán gật đầu. Giáo sư Abrahams bước khỏi bục và đi tới chỗ một chiếc máy trông như máy photo để bàn. Ông đeo cặp găng tay cao su vào và quay sang đối mặt với ba vị thẩm phán.

“Thưa quý Toà, tôi có thể nhờ ngài và hai đồng nghiệp tới chỗ chúng tôi để tất cả cùng theo dõi thí nghiệm này gần hơn được không ạ?” Grace hỏi.

Thẩm phán Lord Arnott gật đầu và cả ba vị quan toà rời bục của họ, đi xuống khoảng trống giữa phòng xử án, ở đó họ đứng cùng hai vị luật sư để tạo thành một vòng tròn quanh cỗ máy ESDA.

“Xin hãy chú ý,” Abrahams nói như ông vẫn luôn làm lúc bắt đầu gọi các sinh viên vào giờ giảng của mình. Ông bắt đầu, “Không ai có thắc mắc gì về chuyện ông Rainsford không phải là người viết trang đầu tiên trong tờ lời khai của mình, mà sau đó sẽ được dùng làm bằng chứng trước toà. Tranh cãi chỉ nổ ra xung quanh chuyện liệu có ba trang hay là hai. Và nếu tôi phải chứng minh điều đó, tôi sẽ cần bản lời khai gốc.”

“Việc này đã được cả hai bên đồng ý, thưa các ngài,” Grace chen ngang.

Arnott gật đầu với thư kí toà, anh này đưa tờ lời khai gốc cho Giáo sư Abrahams.

“Giờ, theo tôi thì,” Abrahams nói, “tất cả chúng ta sẽ đều cần được nhắc lại từng từ trên tờ lời khai gốc. Tôi lặp lại, không có tranh cãi nào liên quan đến trang một từ cả hai phía.” Ông bắt đầu đọc.

“Tên tôi là Arthur Edward Rainsford. Tôi năm mươi mốt tuổi và hiện trú tại số 32 Fulham Gardens, London SW7. Tôi là giám đốc kinh doanh của một công ty tài chính nhỏ chuyên về mảng đầu tư cho các công ty dược phẩm đang phát triển.

Vào ngày mùng 5 tháng Năm năm 1983 tôi đã đi tàu tới Coventry để gặp một nhà đầu tư tiềm năng. Sau buổi họp đó, chúng tôi ăn trưa cùng nhau. Khi tờ hoá đơn ra, tôi đưa thẻ tín dụng của công ty và bị bẽ mặt khi nó bị từ chối, vì đây gần như là cách tồi tệ để gây ấn tượng với một khách hàng tiềm năng. Tôi đã cực kì giận dữ, và liên lạc ngay với giám đốc tài chính của chúng tôi, Gary Kirkland, để tìm hiểu xem tại sao lại có chuyện đó. Ông ta đảm bảo với tôi rằng không có gì phải lo lắng cả, rằng đây chắc hẳn chỉ là một lỗi lầm của ngân hàng. Ông ta bảo tôi ghé qua văn phòng trên đường về nhà tối đó, để ông ta cho tôi xem các tài khoản. Sau này tôi đã hối hận vì mình đã mất bình tĩnh, và đáng lẽ tôi không bao giờ nên”

Vị giáo sư đặt trang một xuống và cầm lên trang thứ hai.

“Như các vị đã biết, đây,” ông nói với đám khán giả chăm chú của mình, “chính là trang thứ hai trong lời khai được trưng ra làm bằng chứng, mặc dù ông Rainsford vẫn khăng khăng nói rằng thực ra nó là tờ thứ ba.” Ông bắt đầu đọc tiếp.

“đánh ông ta. Tôi lập tức nhận ra khi trông thấy vết thương sâu hoắm đằng sau đầu ông ta là chắc hẳn ông ta đã bị đập vào gờ của bệ lò sưởi hay cái rào bằng đồng lúc ngã uỵch xuống sàn. Điều tiếp theo tôi còn nhớ là nghe thấy một tiếng còi hụ, vài phút sau đó khoảng năm, sáu cảnh sát lao vào trong phòng. Một người trong số họ, thanh tra Stern, đã bắt tôi, và sau này buộc tôi tội giết Gary Kirkland, một trong những người bạn lâu năm nhất của tôi. Tôi sẽ hối hận vì cái chết của ông ta suốt phần đời còn lại.

Arthur Rainsford

Tôi đã đọc lời khai này trước sự hiện diện của thanh tra Stern và thanh tra cảnh sát Clarkson.”

Giáo sư Abrahams dừng lại chốc lát để đảm bảo ông vẫn có sự chú ý của tất cả học trò. Khi đã hài lòng, ông nói tiếp. “Giờ tôi muốn các vị chuyển sự chú ý sang chiếc máy ESDA – Bộ dụng cụ dò sóng tĩnh điện. Tôi sắp sửa đặt trang thứ hai này lên mặt bàn bằng đồng của ESDA. Còn ai có câu hỏi nào không?”

Không ai nói gì.

“Tốt lắm. Giờ tôi sẽ phủ lên tờ giấy một lớp màng Mylar, trước khi dán nó lại.”

Vị giáo sư lấy một cây lăn nhỏ từ trong hộp dụng cụ của mình và lăn lên xuống trên tấm màng Mylar cho đến khi ông tự tin là mình đã loại bỏ mọi bong bóng khí. Tiếp theo, ông lấy ra một thiết bị mỏng bằng kim loại trong túi của mình, giải thích rằng nó là một bộ xử lý bề mặt. Nó phát ra tiếng rù rì nhỏ khi ông bật lên. Ông giơ thiết bị bên trên tấm đĩa khoảng ba phân và quét lên quét xuống tờ giấy vài lần.

“Cái máy xử lý bề mặt này làm gì vậy?” Thẩm phán Lord Arnott hỏi.

“Nó dội xuống màng Mylar một cơn mưa ion dương, thưa quý Toà, chúng sẽ gắn chặt vào bất kì chỗ lõm nào trên bề mặt giấy.

Khi đã hoàn thành công việc, vị giáo sư tắt cỗ máy đi và tuyên bố, “Giờ tôi đã sẵn sàng rắc một ít mực photocopy lên bề mặt giấy, sau đó chúng ta sẽ nhanh chóng phát hiện ra liệu thí nghiệm của tôi có đạt được mục đích của nó không hay chỉ là tốn công vô ích.”

Các khán giả chăm chú, đầu cúi xuống, nhìn chằm chằm vào mẩu giấy trong lúc vị giáo sư nhấc một mặt của tấm đĩa bằng đồng lên, trước khi rắc đầy trang giấy bằng một thứ bột màu đen trông giống bột tiêu, chúng tràn khắp bề mặt giấy và biến mất vào một cái rãnh hẹp ở cuối tấm đĩa. Hài lòng khi toàn bộ tờ giấy được phủ kín bằng bột mịn, ông hạ tấm đồng về chỗ của nó, và nhìn xuống tác phẩm của mình.

“Nhìn Arthur kìa,” Grace thì thầm.

Sir Julian ngước lên nhìn bị cáo, từ lúc nãy ông vẫn đang đứng trong bục. Arthur dường như không có chút nghi ngờ nào về kết quả thí nghiệp, trong khi đó Thẩm phán Lord Arnott cùng hai đồng nghiệp vẫn còn có vẻ ngờ vực, còn ông Llewellyn thì hoàn toàn chưa bị thuyết phục.

Giáo sư Abrahams cúi mình trên cỗ máy và cẩn thận đặt miếng nhựa dính một mặt lên trên tấm màng Mylar, rồi nhẹ nhàng tách cái màng ấy ra khỏi tấm đĩa. Cuối cùng, ông tách tấm nhựa dính ra khỏi màng phim, và đặt một tờ giấy trắng tinh đằng sau nó, giơ nó lên cho tất cả mọi người cùng thấy.

Ai cũng quan sát thấy những vết hằn không nhầm vào đâu được của một trang giấy đã bị mất.

Ông Llewellyn vẫn còn có vẻ không mấy ấn tượng trong khi thẩm phán Lord Arnott nói, “Giáo sư, có lẽ ông vui lòng đọc lên những từ ngữ đã bị hằn trên giấy, vì tôi có cảm giác chắc ông đã làm việc này từ trước rồi.”

“Cũng có vài lần rồi, thưa quý Toà. Nhưng tôi cần cảnh báo là ở đây sẽ có vài khoảng trống. Nhưng trước hết tôi xin nhắc lại câu cuối cùng của trang thứ nhất, trước khi tôi chuyển sang trang thứ hai đang trong vòng tranh cãi này.” Thẩm phán gật đầu. “Sau này tôi đã hối hận vì mình đã mất bình tĩnh, và đáng lẽ tôi không bao giờ nên…” Vị giáo sư lấy ra một chiếc kính lúp to từ trong túi của mình và quan sát trang giấy có chữ in hằn lại thật kĩ trước khi đọc.

“làm như vậy trước khi nghe … câu chuyện… từ phía…Khi trở về… Euston S… tôi đã bắt taxi tới,” ông do dự, “văn phòng của chúng tôi ở Marylebone. Khi tôi mở… cánh cửa tôi trông thấy một ng… mập mạp vội… về phía mình. Tôi giữ… ửa cho ông ta, nhưng… lao vội qua tôi và… ra… đường. Lúc… y tôi không nghĩ ngợi gì nhưng … au này nhận… hắn có… là …giết… ười. Tôi đi…ên văn phò… Gary trên tầng…, và th… ta choãi… trên sàn bên cạnh … lò sư… Tôi vội lao đến nhưng đã quá muộn. Ai đó chắc đã….

Vị giáo sư đọc sang trang thứ ba của tờ lời khai, đánh ông ta.” Một hay hai người đang đứng quanh cỗ máy bật ra tràng vỗ tay, trong khi những người khác vẫn còn im lặng như tờ.

“Cảm ơn ông, giáo sư,” Thẩm phán Lord Arnott nói thêm, “Thưa quý ông quý bà, vui lòng trở lại ghế của mình.”

Grace chờ đến khi tất cả mọi người đã ngồi xuống rồi mới đứng dậy và nói, “Không còn câu hỏi nào, thưa quý Toà,” và ngồi xuống ghế băng.

“Đáng nể,” cha cô thì thào, chạm khẽ vào trán mình bằng mấy ngón tay của bàn tay phải.

“Ông Llewellyn, ông có muốn đối chất với nhân chứng không?” Thẩm phán Lord Arnott hỏi.

Giáo sư Abrahams chờ sự phủ nhận của Chính quyền.

“Không, thưa quý Toà,” luật sư chính của Chính quyền nói, gần như không di chuyển khỏi chỗ của mình.

“Chúng tôi nợ ông, Giáo sư Abrahams ạ,” Thẩm phán Lord Arnott nói. “Tôi rất mừng vì mẹ ông sống ở Warsaw, và vì ông đã ghé qua để gặp chúng tôi trên đường đi thăm mẹ. Ông có thể lui xuống.”

“Cảm ơn ngài, thưa quý Toà,” giáo sư nói trước khi rời khỏi bục và thu thập lấy bộ đồ nghề của mình.

Grace muốn ôm ông trong lúc ông đi ngang qua phòng và nháy mắt với Arthur, trước khi rời phòng xử án.

“Ông có thêm nhân chứng nào không, Sir Julian?” Thẩm phán Lord Arnott hỏi.

“Chỉ còn một thôi, thưa quý Toà. Trung sĩ thanh tra Clarkson, người thứ hai đã kí vào bản tờ khai gốc của ông Rainsford. Anh ta đã được tống đạt trát hầu toà để đến gặp các vị thẩm phán vào mười giờ sáng mai.”

“Vậy chúng ta sẽ trở lại làm việc vào giờ đó.”

Ngài Julian gật đầu, vẫn còn đứng lại cho đến khi cả ba vị thẩm phán đã thu thập xong các ghi chép của họ và khởi hành.

“Cha có nghĩ ngày mai Clarkson sẽ thật sự xuất hiện không?” Grace hỏi.

“Ta sẽ không cá cược chuyện đó đâu,” cha cô đáp lời.