CHÍNH QUYỀN KIỆN FAULKNER
“Ông vui lòng xưng tên và nghề nghiệp của mình để lưu vào hồ sơ,” ông Booth Watson nói.
“Miles Adam Faulkner. Tôi là một nông dân.”
“Ông Faulkner, toà đã nghe nói ông có một bộ sưu tập nghệ thuật rất ấn tượng, cũng như nhà cửa ở New York, Monte Carlo và một điền trang tại Hampshire, một chiếc du thuyền và máy bay riêng. Sao ông lại là nông dân được?”
“Cha tôi để lại cho tôi nông trại ở Limpton, cùng với ba ngàn mẫu đất.”
William lập tức ghi chú và chuyển nó sang cho luật sư tư vấn của Chính phủ.
“Việc đó vẫn không giải thích được lối sống xa hoa của ông, hay khả năng sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật giá trị của ông.”
“Sự thực là, bất chấp việc gia đình tôi đã sở hữu Limpton Hall được hơn bốn thế kỉ qua, vài năm trước chính quyền đã ban hành một lệnh mua bán cưỡng chế đất đai của tôi, vì họ muốn xây một con đường quốc lộ sáu làn xuyên qua trung tâm mảnh đất, khiến cho tôi chỉ còn lại một căn nhà và vài trăm mẫu đất. Tôi phản đối lệnh đó và đưa nó ra toà, nhưng buồn thay đã thua trong lần phúc thẩm. Tuy nhiên, số tiền chính phủ trả cho tôi để đền bù đã cho phép tôi theo đuổi thú vui cả đời trong môn hội hoạ. Và nhờ vào một hay hai lần đầu tư khôn ngoan trên thị trường chứng khoán trong nhiều năm, tôi đã có thể xây dựng được một bộ sưu tập đáng kể.”
William ghi chú lần thứ hai.
“Không nghi ngờ gì chuyện ông định sẽ để lại bộ sưu tập cho thế hệ tiếp theo chứ,” Booth Watson nói và nhìn xuống danh sách các câu hỏi đã được chuẩn bị kĩ lưỡng.
“Không, thưa ông. Tôi e là việc ấy không thể thực hiện được.”
“Tại sao lại không?”
“Thật buồn vì vợ tôi không hề quan tâm đến chuyện có con, và vì tôi không muốn chia tách bộ sưu tập của mình, tôi đã quyết định sẽ để lại toàn bộ điền trang cho đất nước này.”
Miles quay sang và mỉm cười với bồi thẩm đoàn, y như Booth Watson đã hướng dẫn ông ta. Ông ta được tưởng thưởng với một hay hai người cười đáp lại.
“Giờ tôi muốn chuyển sang một bức tranh cụ thể, ông Faulkner, bức The Syndics of the Clothmakers’ Guild do Rembrandt vẽ.”
“Chắc chắn đó là một kiệt tác,” Faulkner nói. “Tôi đã ngưỡng mộ nó kể từ lần đầu tiên trông thấy nó hồi còn là học sinh khi mẹ tôi dẫn tôi đi thăm Viện Bảo tàng Fitzmolean.”
“Chính quyền muốn chúng tôi tin rằng ông đã ngưỡng mộ bức tranh đến mức đánh cắp nó.”
Miles cười phá lên. “Tôi thừa nhận,” ông ta nói, một lần nữa nhìn thẳng vào bồi thẩm đoàn, “rằng mình là người yêu nghệ thuật, thậm chí là tín đồ, nhưng ông Booth Watson ạ, tôi không phải là kẻ cắp.”
“Vậy ông giải thích thế nào về cáo buộc của vợ ông, sau khi đã tuyên thệ, rằng ông đã sở hưu bức tranh của Rembrandt này trong suốt bảy năm qua?”
“Cô ấy nói khá đúng. Tôi đã sở hữu bức The Syndics trong bảy năm qua.”
Bồi thẩm đoàn lúc này nhìn chằm chằm vào bị cáo một cách khó tin.
“Có phải ông đang thú nhận tội ăn trộm không?” Booth Watson hỏi, giả vờ ngạc nhiên. Cả bồi thẩm đoàn cũng có vẻ bối rối, trong khi luật sư Palmer thì nghi hoặc. Chỉ có thẩm phán vẫn còn bình thản, còn Faulkner thì chỉ cười mỉm.
“Tôi không chắc là mình hiểu được điều ông đang ám chỉ,” Booth Watson nói tiếp, dù ông ta hiểu chính xác khách hàng của mình đang nói gì.
“Tôi tự hỏi, thưa Toà,” Faulkner nói, quay sang quan toà, “liệu tôi có được phép cho Toà thấy bức tranh đã được treo trên bệ lò sưởi trong phòng khách nhà tôi ở Hampshire trong suốt bảy năm qua được không, hòng chứng minh sự vô tội của mình?”
Giờ thì ngay cả thẩm phán Nourse cũng có vẻ bối rối. Ông liếc nhìn ông Palmer, vị luật sư này nhún vai, nên ông quay sang chú ý tới luật sư biện hộ.
“Chúng tôi tò mò chờ đợi, ông Booth Watson ạ, để xem thân chủ của ông đang giấu gì chờ chúng tôi.”
“Tôi hết sức biết ơn, thưa quý Toà,” Booth Watson nói. Ông ta gật đầu với luật sư trợ lí của mình, người đã đứng chờ sẵn ở lối vào phòng xử án. Cô ta mở cửa ra và hai người cao to lực lưỡng đi vào vác theo một chiếc thùng lớn, họ đặt cái thùng xuống sàn giữa thẩm phán và bồi thẩm đoàn.
“Thưa quý Toà,” Palmer nói trong lúc bật dậy, “Chính quyền đã không được báo trước gì về màn diễu hành không theo lịch này của bị cáo, và tôi yêu cầu ngài bác bỏ nó vì mục đích thật sự của nó.”
“Và mục đích đó có thể là gì, ông Palmer?”
“Không gì ngoài một màn trá hình để cố gắng đánh lạc hướng bồi thẩm đoàn.”
“Vậy hãy cùng tìm hiểu xem nó có thể làm vậy không, ông Palmer,” thẩm phán nói. “Vì tôi nghi là các thành viên của bồi thẩm đoàn cũng tò mò giống như tôi, muốn khám phá xem bên trong cái hộp đó có thứ gì.”
Con mắt của tất cả mọi người vẫn còn bám chặt lấy cái thùng khi hai người đóng gói trở thành người khui thùng. Đầu tiên họ tháo đinh, tiếp theo là các hạt xốp nhựa và cuối cùng là tấm vải mút-xơ-lin, để hé lộ một bức tranh làm vài người phải há hốc miệng, những người khác đơn giản là thấy hài hước.
“Ông Faulkner, ông vui lòng giải thích làm thế nào bức tranh The Syndics of the Clothmakers’s Guild của Rembrandt lại có mặt trong phiên toà này,” Booth Watson hỏi, “mà không phải, như lời vợ ông vừa tuyên bố lúc nãy, đang treo trên tường của Viện Bảo tàng Fitzmolean?”
“Đừng hoảng, ông Booth Watson,” Faulkner nói với một người không bao giờ hoảng hốt. “Bức tranh gốc vẫn còn đang treo trong Fitzmolean. Đây chẳng qua chỉ là một bản sao xuất sắc, mà tôi đã mua lại từ một phòng tranh ở Notting Hill hơn bảy năm về trước, và tôi có cả hoá đơn để chứng minh cho nó.”
“Vậy ra,” Booth Watson nói, “đây chính là bức tranh mà vợ ông đã nhìn vào suốt bảy năm qua, với ấn tượng sai lầm rằng nó là bức tranh gốc?”
“Tôi e là vậy, thưa ông, nhưng Christina vốn chưa từng quan tâm chút nào tới bộ sưu tập của tôi, ngoài việc nó đáng giá bao nhiêu tiền. Mà trong trường hợp này thì là năm ngàn bảng.”
“Ông Faulkner,” thẩm phán nói, nhìn kĩ bức tranh, “làm sao để một người trần mắt thịt như tôi có thể chắc chắn rằng đây là một bản sao chứ không phải tranh gốc?”
“Bằng cách nhìn vào góc dưới cùng bên phải của nó, thưa quý Toà. Nếu đây là tranh gốc thì ngài sẽ thấy các chữ cái đầu tên Rembrandt, RvR. Ông ấy hiếm khi để lại một bức tranh không kí tên. Nói thật thì, đó cũng là một điều nữa mà vợ tôi không biết được.”
“Tuy tôi chấp nhận lời giải thích của ông, ông Faulkner,” Booth Watson nói, “tôi vẫn không hiểu nổi làm cách nào mà bức tranh gốc, giờ đã an toàn trở lại Fitzmolean, lại tới tay ông được.”
“Ông Booth Watson, để hiểu được điều đó, trước hết ông phải chấp nhận rằng tôi khá nổi tiếng với tư cách một nhà sưu tầm trong giới nghệ thuật. Mỗi năm tôi nhận được hàng trăm tài liệu giới thiệu mồi chài về các triển lãm nghệ thuật, cũng như vài lời mời mua tranh, thường là đến từ các gia tộc lâu đời không muốn ai biết rằng họ đang gặp vấn đề về tài chính.”
“Ông đã bao giờ mua bất kì bức nào trong số ấy chưa?”
“Rất hiếm khi. Tôi thà mua từ một nhà bán lẻ có tiếng hay một nhà đấu giá lừng danh còn hơn.”
“Nhưng việc ấy vẫn chưa giải thích làm cách nào bức tranh Rembrandt gốc lại rơi vào tay ông.”
“Vài tuần trước ai đó đã chào bán cho tôi một bức tranh mà ông ta nói là của Rembrandt. Ngay khi ông ta mô tả nó, tôi đã biết nó hẳn phải là bức đã bị đánh cắp khỏi Fitzmolean.”
“Tại sao ông lại đoán như vậy?” Thẩm phán hỏi.
“Thưa quý Toà, gần như chưa có ai từng nghe nói tới một bức Rembrandt bán ra thị trường cả. Gần như toàn bộ tác phẩm của ông đều do các viện bảo tàng cấp quốc gia hay các phòng tranh sở hữu. Có rất ít tác phẩm vẫn còn do tư nhân sở hữu.”
“Vậy nếu ông đã biết rằng bức tranh này là tranh ăn cắp,” Booth Watson nói, “tại sao ông còn dính dáng đến nó?”
“Tôi thú nhận rằng tôi không thể chống lại cám dỗ này. Tuy nhiên, khi tôi được bảo rằng tôi sẽ phải đi tới Naples để xem tranh, tôi nhận ra hẳn nhà Camorra chính là kẻ đã đánh cắp nó. Đáng ra tôi nên quay đầu. Nhưng như một cầu thủ tin chắc rằng mình sắp sửa ghi bàn định đoạt trận đấu, tôi vẫn tiến lên.”
Booth Watson vốn chưa bao giờ quan tâm lắm đến cách nói ẩn dụ ấy nhưng vẫn hùa theo. “Vậy ông có ghi bàn thắng không?”
“Có và không,” Faulkner nói. “Tôi đã bay tới Naples, ở đó tôi gặp một luật sư trẻ ăn vận lịch sự đi cùng với vài gã côn đồ chẳng hề mở miệng nói gì. Sau đó tôi được đưa đến một khu vực xập xệ của thành phố vốn là chốn không nên bén mảng tới, kể cả với cảnh sát. Tôi chưa từng chứng kiến cảnh nghèo khổ đến thế trong đời. Và những bức ảnh duy nhất treo trên tường của các toà nhà tập thể ở đó hoặc là của Đức Mẹ Đồng trinh hoặc của Giáo hoàng. Tôi được đưa xuống một cầu thang dài vào một tầng hầm mờ tối, trong đó một bức tranh khổ lớn đang được dựng dựa vào tường. Tôi chỉ cần nhìn thoáng qua là biết nó là tranh thật.”
“Chuyện gì xảy ra tiếp theo?”
“Cuộc mặc cả bắt đầu, và chẳng mấy chốc tôi đã hiểu rõ bọn chúng chỉ muốn rũ bỏ bức tranh, nên chấp nhận con số một trăm ngàn đô la. Tôi biết, và chúng cũng biết, rằng nó có giá hơn trăm lần con số đó, nhưng không có nhiều người mua tiềm năng cho lắm. Tôi bảo là tôi sẽ đưa tiền cho chúng vào cái ngày bức tranh được trả về Fitzmolean. Chúng sẽ liên lạc lại, nhưng thậm chí còn không đề nghị đưa tôi quay lại sân bay. Tôi đã phải cuốc bộ một quãng mới bắt gặp được chiếc taxi đi qua.”
“Và khi ông về đến nhà, ông có kể cho ai nghe trải nghiệm này của mình không?”
“Tôi buộc phải chia sẻ điều mình vừa trải qua với ai đó, nên tôi đã ngốc nghếch kể cho Christina. Tôi không bao giờ nghĩ cô ấy lại lợi dụng nó, thậm chí là nói dối sau khi đã tuyên thệ.”
“Vậy là các quý ông mà ông đã gặp ở Ý không giữ lời cam kết của họ mà trả lại bức tranh cho Fitzmolean.”
“Nhà Camorra hiếm khi đi khỏi lãnh địa của chúng,” Faulkner nói. “Tôi không nghe nói gì nữa trong hơn một tháng, nên tôi đoán là giao dịch đã bị huỷ.”
Thẩm phán ghi chép lại.
“Nhưng không phải à?”
“Không. Hai gã côn đồ tôi từng gặp ở sân bay xuất hiện ở nhà tôi tại Monte Carlo giữa đêm hôm khuya khoắt cùng bức tranh, và yêu cầu một trăm ngàn của chúng. Một trong số chúng còn vung dao đe doạ.”
“Chắc ông phải sợ chết khiếp.”
“Đúng vậy. Đặc biệt là khi chúng bảo tôi rằng chúng sẽ cứa cổ từng vị quan một, hết cả sáu vị, rồi mới đến lượt tôi nếu tôi không trả tiền.”
Thẩm phán lại ghi chép.
“Ông có sẵn cả trăm ngàn đô la tiền mặt sao?”
“Hầu hết những người muốn bán kỉ vật gia đình cho tôi ấy, ông Booth Watson, họ không mong nhận séc ra về đâu.”
“Ông đã làm gì tiếp theo?”
“Sáng hôm sau tôi gọi cho thuyền trưởng du thuyền của tôi và bảo ông ta rằng một chiếc thùng lớn sẽ nhanh chóng được đưa đến cầu cảng. Ông ta phải mang nó tới Southampton và đích thân chuyển nó tới Viện bảo tàng Fitzmolean ở London.”
“Và thưa quý Toà,” Booth Watson nói, “nếu Chính quyền muốn nghe, tôi có thể gọi thuyền trưởng Menegatti tới, ông ta sẽ xác nhận rằng quả thật đó là mệnh lệnh mà ông Faulkner đã giao cho ông ta.”
“Tôi cá là thế,” William lẩm bẩm, “nếu ông ta muốn giữ việc.”
“Ngày hôm sau ông đã bay sang Úc, cho rằng mệnh lệnh của mình sẽ được thực thi.”
“Đúng vậy. Và tôi đã hi vọng vợ tôi cùng đi với tôi, nhưng cô ấy đã đổi ý vào phút chót. Hoá ra là cô ấy còn có hẹn với chàng trai trẻ.”
William siết chặt hai nắm tay để cố ngăn mình run rẩy.
“Nhưng cô ấy biết rất rõ tôi đã mua vé cho trận Test vào ngày lễ Tặng quà ở Melbourne,” Faulkner nói tiếp, “điều đó có nghĩa là tôi sẽ không về nước Anh trước ngày đầu năm mới.”
“Nhưng ông đã quay lại Anh khi trận đấu mới diễn ra được một nửa?”
“Đúng vậy, thuyền trưởng Menegatti gọi đến khách sạn của tôi ở Melbourne để cho tôi biết vợ tôi đã xuất hiện trên thuyền, không phải chỉ với một cái thùng duy nhất như tôi đã nói với ông ta, mà là với toàn bộ bộ sưu tập của tôi ở Monte Carlo. Sau đó cô ấy ra lệnh cho ông ta mang tất cả chúng về Southampton, ở đó cô ấy sẽ gặp ông ta trước khi đi New York.”
“Ông đã phản ứng như thế nào?”
“Tôi đáp chuyến bay tiếp theo về London, và không cần tốn cả hai mươi ba giờ bay mới phát hiện ra cô ấy định làm gì. Ngay khi hạ cánh ở Heathrow, tôi đã bắt taxi về nhà tôi ở Hampshire, biết rõ rằng mình không thể phí một giây phút nào.”
“Tại sao ông lại không bảo tài xế riêng đến đón ông?” Booth Watson hỏi.
“Vì việc đó sẽ cảnh báo Christina chuyện tôi đã về nước, và đó không phải điều tôi muốn.”
“Và vợ ông có ở nhà khi ông về không?”
“Không, cô ấy không có nhà, cả các tác phẩm nghệ thuật của tôi cũng vậy, sau đó tôi phát hiện cả chúng cũng đang trên đường tới Southampton. Tôi chỉ tới được đó vừa kịp lúc để ngăn chúng bị chuyển tới New York.”
“Vậy là sau đó ông đã lên chiếc du thuyền, ra lệnh đưa các tác phẩm nghệ thuật quay lại nhà ông ở Hampshire và Monte Carlo…
“Với một ngoại lệ duy nhất,” Faulkner cắt lời. “Tôi đã luôn có ý định trao trả bức Rembrandt về cho Fitzmolean dù hậu quả có ra sao.” Một lần nữa ông ta quay mặt sang bồi thẩm đoàn, lần này thì dành cho họ “cái nhìn chân thành.”
“Nhưng trước khi ông có thể làm việc đó, cảnh sát đã lao lên tàu, bắt ông và cáo buộc ông tội tráo đổi hai cái nhãn của hai thùng tranh để ông có thể tiếp tục sở hữu bức Rembrandt.”
“Ông Booth Watson, cáo buộc đó là một giả thuyết khôi hài, vì ba lí do. Thứ nhất, tôi chỉ mới lên thuyền được có vài phút thì đã bị bắt, nên hiển nhiên là vợ tôi đã báo với cảnh sát rằng bức Rembrandt vẫn còn trên thuyền. Thứ hai, nhãn gắn cho bảo tàng Fitzmolean chắc hẳn đã bị chính cô ấy tráo đổi thậm chí trước cả khi chúng lên tàu ở Monte Carlo.”
“Nhưng tại sao bà ta lại phải tráo hai cái nhãn, rồi bảo cảnh sát rằng bức tranh Rembrandt vẫn còn trên tàu?” Booth Watson hỏi một cách ngây thơ.
“Bởi vì nếu tôi bị bắt thì sẽ chẳng còn gì ngăn cản cô ấy giong buồm sang New York và đánh cắp bộ sưu tập còn lại của tôi, mà rõ ràng là cô ấy đã định sẽ làm thế trong lúc tôi đang ở tận đầu kia của thế giới.”
“Ông nói là còn có cả lí do thứ ba nữa, ông Faulkner.”
“Vâng, có đấy, ông Booth Watson. Chỉ huy Hawksby đi cùng với hai cảnh sát khác. Rõ ràng họ đã được vợ tôi báo cho biết bức tranh Rembrandt có trên tàu. Vậy thì việc tráo đổi hai cái nhãn có ích lợi gì khi người quản lý cảng biển có quyền bắt tôi mở hết từng cái thùng? Không, điều Christina đã hoạch định là tôi sẽ bị bắt, và cùng lúc đó tôi sẽ mất luôn bức Rubens. Cô ấy không chỉ tráo hai cái nhãn, mà còn biết là sẽ tước bỏ của tôi bức tranh yêu thích nhất nữa.”
“Ít nhất bức tranh Rubens đã được trả lại cho chủ nhân đích thực của nó, cùng với phần còn lại trong bộ sưu tập của ông.”
William để ý thấy Booth Watson dành cho thân chủ của ông ta một cái gật đầu nhẹ.
“Vâng, đúng vậy, ông Booth Watson. Tim Knox, giám đốc Fitzmolean, đã chấp nhận rằng đã có sai lầm thật sự xảy ra và đã tử tế gửi trả lại bức Rubens về nhà tôi ở Limpton Hall. Tuy nhiên, sau vài ngày tôi đã bắt đầu có ý khác. Như ông đã biết, bộ sưu tập các tác phẩm Hà Lan và Bỉ của Fitzmolean chỉ thua kém có mỗi bảo tàng Rijksmuseam ở Amsterdam. Tôi đã bắt đầu tự hỏi phải chăng bức Christ’s Descent from the Cross1 của Rubens đã tìm được ngôi nhà đích thực của nó, và sau nhiều lần tự vấn lương tâm, tôi đã quyết định trao tặng nó cho quốc gia, để những người khác cũng có thể thu được niềm hạnh phúc từ nó như tôi đã có trong hơn ba mươi năm qua.”
1 Tạm dịch: Chúa Jesus giáng thế từ thập tự giá
Lời lẽ hoàn hảo, Booth Watson nghĩ trong lúc nhìn vào bồi thẩm đoàn. Giờ thì ông ta tin rằng ít nhất một nửa trong số họ đã đứng về phe thân chủ ông ta.
“Và cuối cùng, tôi phải hỏi ông, ông Faulkner, liệu ông đã bao giờ bị cáo buộc một tội hình sự nào trước sự hiểu lầm đáng tiếc gần đây không?”
“Không, thưa ông, chưa bao giờ. Tuy nhiên, tôi phải thú nhận rằng hồi tôi còn học trường nghệ thuật, tôi từng thó một cái mũ bảo hiểm của cảnh sát giao thông và đội nó đến buổi vũ hội của Câu lạc bộ nghệ thuật Chelsea. Tôi đã phải ngồi một đêm trong tù vì tội đó.”
“Thật vậy sao, ông Faulkner? Hãy để chúng tôi hi vọng ông không phải trải qua đêm nào trong tù nữa. Không còn câu hỏi nào, thưa quý Tòa.”
“Ý con là gì?” Sir Julian hỏi khi Grace đặt một bộ ảnh đen trắng trên ghế băng giữa hai người họ.
“Những bức ảnh này cho thấy Stern đã rời tòa án sau khi cha đối chất với ông ta.”
“Ta thấy rồi. Nhưng chúng chứng minh được gì, ngoài chuyện ông ta thích ánh đèn sân khấu?”
“Không còn bao lâu nữa đâu, con nghi là vậy. Cha nhìn kĩ hơn xem nào, và cha sẽ thấy một điều Stern không muốn chúng ta thấy.”
“Ta vẫn chả hiểu gì cả,” cha cô thú nhận sau khi nhìn lại mấy bức ảnh lần thứ hai.
“Chiếc áo da hiệu Versace đấy ạ, còn giày thì là giày lười Gucci, loại cao cấp nhất.”
“Còn đồng hồ?” Sir Julian hỏi, đã nhận ra.
“Một chiếc Cartier Tank. Và nó không phải là hàng giả đâu ạ, không giống chủ của nó.”
“Chắc chắn Stern không thể trả nổi đống hàng xa xỉ ấy bằng lương hưu của một thanh tra đâu.”
“Và lại còn khoản nữa này,” Grace nói, chỉ vào một vài bức ảnh khác cho thấy Stern trèo vào một chiếc Jaguar hạng S và lái đi. “Chiếc xe này đăng kí dưới tên ông ta.”
“Ta nghĩ đã đến lúc nộp nó cho một thẩm phán trong văn phòng luật và tìm hiểu xem liệu ông ấy có sẵn lòng cho chúng ta điều tra tài khoản ngân hàng của Stern hay không.”
“Sếp có nghĩ bồi thẩm đoàn tin lời nào trong mớ chuyện ba lăng nhăng ấy không?” William hỏi, sau khi thẩm phán Nourse đã gọi nghỉ giải lao.
“Tôi không chắc,” Hawksby nói. “Nhưng chuyện rõ ràng bà Faulknerr định ăn cắp bộ sưu tập của chồng không giúp ích gì ta cả. Vì vậy bồi thẩm đoàn sẽ phải nhận nhiệm vụ không hề đáng ghen tị là quyết định xem trong hai người họ là kẻ nói dối nhiều hơn. Việc bên tòa số hai mươi hai thế nào rồi?”
“Tôi đang trên đường đến gặp Beth để tìm hiểu đây. Nhân tiện,” anh nói thêm, hạ giọng xuống, “mấy hồ sơ tôi đã để lại trên bàn sếp cực kì hữu ích đấy ạ.”
Lúc William bước vào phòng xử án hai mươi hai, điều đầu tiên anh trông thấy là Arthur Rainsford đang ròi khỏi bục tới khu buồng giam bên dưới, đi cùng ông là một cảnh sát.
“Chúng em xong ngày hôm nay rồi,” Beth nói lúc William ngồi xuống cạnh cô. “Có khi chúng ta nên về nhà.”
William nghĩ về việc nói vài lời với cha mình, nhưng để ý thấy ông đang say sưa nói chuyện với Grace, nên anh quyết định không chen ngang họ. Beth nắm lấy tay anh nhưng không nói thêm lời nào đến tận lúc họ rời khỏi tòa nhà và đã ra ngoài phố.
“Chị gái anh đã rất khéo léo khi thẩm vấn Giáo sư Abrahams,” Beth nói lúc họ đi bộ băng qua đường.
“Cha anh cho phép Grace thẩm vấn một nhân chứng mấu chốt ư?” William kinh ngạc hỏi.
“Và Abrahams đã tỏ ra thuyết phục đến mức thậm chí luật sư chính quyền còn không buồn đối chất với ông ấy nữa.”
“Một lần nữa anh đã lại đánh giá thấp ông già rồi,” William nói. “Nhưng Grace có chứng minh được là đã có một trang bị thiếu không?”
“Đến lúc giáo sư Abrahams rời khỏi bục nhân chứng, thậm chí cả luật sư trưởng của bên nguyên cũng chấp nhận rằng đã có ba trang,” Beth nói khi họ cùng đứng vào hàng người chờ đến lượt lên xe buýt.
“Tin tốt đấy. Nhưng còn các thẩm phán thì sao? Rốt cuộc, họ mới là những người có ý kiến quyết định.”
“Không thể nào biết được. Như những tay chơi poker dạn dày kinh nghiệm, bọn họ không hé lộ điều gì hết.”
“Người sắp sửa bị cha anh hủy diệt là ai?” William hỏi khi họ đã lên được xe buýt.
“Trung sĩ thanh tra Clarkson, cựu đồng sự của Stern.”
“Anh ta là kẻ yếu bóng vía hơn Stern, nên có thể sẽ vỡ vụn trước áp lực.”
“Sao anh biết được?”
“Anh ước gì em có thể trông thấy Hawksby khi ông ấy đứng ở bục nhân chứng,” William nói. “Ngay cả thẩm phán cũng bị ấn tượng.”
Beth đã hiểu thông điệp và đi theo hướng anh chỉ. “Nhưng chẳng lẽ Booth Watson không gây khó dễ cho ông ấy à?”
“Không, thậm chí ông ta còn không đối chất với sếp anh. Rõ ràng ông ta đã biết mình sẽ không thu được ích lợi gì từ đó.”
“Còn Faulkner trên bục nhân chứng thì thế nào?”
“Rất ấn tượng,” William thừa nhận, “dù có không hoàn toàn đáng tin. Trông ông ta có vẻ như đã luyện tập quá nhuần nhuyễn và liên tục đổ lỗi cho vợ.”
“Chắc chắn bồi thẩm đoàn sẽ không thích thế chứ.”
“Hôm qua Booth Watson đã thẩm vấn riêng Christina rồi.” William lập tức hối hận vì đã gọi thẳng tên “Christina”, và nhanh chóng nói tiếp. “Và hôm nay thì Faulkner bồi thêm cú nữa. Ông ta cũng đã hứa một chuyện làm tất cả mọi người ngạc nhiên, dù anh không nghĩ ông ta có chút ít ý định giữ lời hứa nào.”
“Chuyện ông ta định tặng bức Rubens cho Fitzmolean hả?”
“Làm sao em biết?”
“Em đã gọi đến phòng tranh trong giờ nghỉ trưa, và Tim Know bảo em rằng Booth Watson đã gọi điện để báo ông ấy rằng Faulkner sẽ hiến tặng bức Rubens ngay khi phiên toà này kết thúc.”
“Với anh điều đó nghe chính xác như một món hối lộ,” William nói khi chiếc xe buýt dừng lại ở đường Fullham. “Chắc chắn thẩm phán cũng có thể nhận ra chứ?”
“Có lẽ lần này anh thử dành cho Faulkner chút niềm tin xem sao?”
“Anh e đó sẽ chính là điều mà bồi thẩm đoàn làm. Nhưng phải cần nhiều hơn thế mới thuyết phục được anh rằng ông ta đã không sở hữu bức Rembrandt trong suốt bảy năm qua.”
“Anh có nghĩ ngày nào đó chúng mình sẽ sống được trọn một ngày mà không bàn đến một trong hai vụ án này được không?”
“Điều đó phụ thuộc vào việc cha em có được thả không và Faulkner có bị nhốt lại một thời gian rất dài không.”
“Nhưng nhỡ ngược lại thì sao?”