“Tôi là người mang tới tin tốt lành đây,” Booth Watson nói ngay khi một người bồi bàn xuất hiện cạnh bên ông ta. “Nhưng hãy gọi đồ ăn sáng trước đã.”
“Tôi chỉ cần cà phê đen, bánh mì nướng và nước chanh thôi,” Faulkner nói. “Tôi ăn mất ngon rồi.”
“Tôi chọn bữa sáng kiểu Anh đầy đủ nhé,” Booth Watson nói. Ông ta không nói gì nữa đến khi người bồi bàn đã ra khỏi tầm nghe. “Tôi đã được phía bên kia tiếp cận. Họ sẽ sẵn sàng bỏ cáo buộc trộm cắp có chủ ý nếu anh chịu nhận một tội nhẹ hơn là nhận đồ ăn cắp một cách chủ quan.”
“Chốt lại là gì?” Faulkner hỏi.
“Nếu chúng ta chấp nhận lời đề nghị của họ, có thể anh sẽ phải nhận đôi năm tù, điều đó có nghĩa là anh sẽ được ra trong vòng mười tháng.”
“Làm cách nào?”
“Miễn là anh giữ mình, anh sẽ chỉ phải thụ án một nửa, trừ thêm hai tháng nữa nhờ đây là lần vi phạm đầu tiên. Anh sẽ ra tù kịp dịp lễ Giáng sinh.”
“Mười tháng trong Pentonville không phải là một lời đề nghị hào phóng với tôi, và quan trọng hơn nữa, việc đó sẽ cho Christina đủ thời gian để đánh cắp toàn bộ bộ sưu tập của tôi.”
“Việc đó không thành vấn đề,” Booth Watson nói, “vì trong lúc anh đi vắng, tôi sẽ đảm bảo Christina không thể đến gần các bất động sản của anh được.”
Faulkner vẫn có vẻ chưa tin lắm. “Còn nếu tôi không chấp nhận lời đề nghị của họ?”
“Nếu anh bị phán mắc cả hai tội trên, ăn trộm và nhận đồ ăn trộm, mức án tối đa sẽ là tám năm, cùng với một khoản phạt khổng lồ.”
“Tôi đếch quan tâm đến tiền phạt. Tôi có cảm giác Palmer biết là gã đang sắp thua đến nơi, và chỉ đang hi vọng cứu vãn chút thể diện thôi. Dù thế nào đi nữa, tôi nghĩ bồi thẩm đoàn sẽ đứng về phía tôi. Ít nhất là hai người trong số họ đã cười với tôi ngày hôm qua.”
“Hai thì chưa đủ đâu,” Booth Watson nói, trước khi dừng lại một lát lúc người bồi bàn tới rót thêm cà phê cho họ. “Tôi trông người phát ngôn rất giống một đại tá về hưu hay hiệu trưởng của một trường tiểu học, loại người chắc chắn sẽ tin rằng tội ác là phải bị trừng phạt.”
“Đó là một nguy cơ tôi sẵn sàng mạo hiểm đánh cược, BW. Nên ông có thể bảo Palmer xéo đi. Muốn uống một ly sâm-panh không?”
CHÍNH QUYỀN KIỆN RAINSFORD
“Xin mời trung sĩ thanh tra Bob Clarkson,” thư kí toà tuyên.
Grace không rời mắt khỏi Clarkson trong lúc anh ta đi ngang phòng xử án và bước lên bục nhân chứng. Anh ta đọc lời tuyên thệ mà không ngắc ngứ chút nào như Stern.
Một cảnh sát trung thực, đúng mực, người dễ dàng bị dắt mũi, và đôi khi là dắt đi chệch hướng, là một trong số vài câu nhận xét mà Grace đã nhấn mạnh sau khi đọc hồ sơ cá nhân của Clarkson.
Sir Julian kiên nhẫn ngồi suốt cuộc thẩm vấn của chính quyền với Clarkson, không có bất kì điều bất ngờ nào xuất hiện. Nhưng thật ra ông cũng không trông mong gì.
“Ông có muốn đối chất với nhân chứng này không?” Thẩm phán Lord Arnott hỏi.
Sir Julian gật đầu khi đứng dậy khỏi chỗ. Ông luôn có ý định khiến Stern coi mình như kẻ thù, nhưng Clarkson thì không.
“Trung sĩ thanh tra Clarkson,” ông mở lời, giọng dịu dàng và thuyết phục, “với tư cách là một cảnh sát hẳn anh biết rõ những hậu quả của việc khai man. Nên tôi muốn anh suy nghĩ thật thận trọng trước khi trả lời các câu hỏi của tôi.”
Clarkson không trả lời.
“Vào cái ngày Arthur Rainsford bị bắt và bị buộc tội giết đối tác của mình, ông Gary Kirkland, anh có mặt ở hiện trường vụ án hay không?”
“Không, thưa ông. Tôi đang ở đồn.”
“Vậy là anh đã không chứng kiến vụ bắt giữ?”
“Không, thưa ông, tôi không chứng kiến.”
“Nhưng anh là sĩ quan cấp dưới đã kí vào tờ lời khai mà ông Rainsford lập vào tối hôm đó.”
“Đúng, thưa ông, tôi đã kí.”
“Bản tờ khai đó, do thanh tra Stern viết và anh chứng kiến, gồm hai hay ba trang giấy?”
“Lúc đầu tôi đã nghĩ là có ba trang, nhưng thanh tra Stern đảm bảo với tôi vào sáng hôm sau rằng tất cả chỉ có hai, và tôi tin lời ông ấy.”
Đó không phải câu trả lời Sir Julian đã đón đợi. Ông ngừng một lát, biết rõ năm câu hỏi tiếp theo của mình là thừa thãi, trước khi đặt ra câu hỏi xác nhận về những điều ông vừa nghe được.
“Vậy là từ lúc đầu anh đã tin lời khai trải trên ba trang giấy chứ không phải hai, như ông Stern đã tuyên bố?”
“Vâng, thưa ông, và sau khi đọc biên bản của toà ngày hôm qua tôi đã chấp nhận các khám phá của giáo sư Abrahams mà không có nghi ngờ gì.”
“Nhưng như thế có nghĩa là anh cũng chấp nhận việc ông Stern chắc hẳn đã rút ra một tờ từ lời khai gốc?” Sir Julian nói.
“Đúng, tôi tin như thế. Và tôi hối hận vì đã không phản bác lại ông ta vào lúc đó.”
“Vậy anh có phản bác chuyện rất có khả năng có một người đàn ông bí ẩn, người mà ông Rainsford khai là đã chạy vụt qua ông ta lúc ông ta đi vào toà nhà văn phòng, và là người ông ta đã luôn tuyên bố chính là kẻ sát nhân?”
“Có, tôi từng hỏi, nhưng thanh tra Stern khăng khăng bảo rằng đó chỉ là một sản phẩm tưởng tượng của Rainsford, và chúng tôi nên bỏ qua nó.”
“Vậy còn cuộc gọi nặc danh báo cho cảnh sát về vụ giết hại Kirkland? Chẳng lẽ nó cũng chỉ là sản phẩm tưởng tượng của ông Rainsford?”
“Không, thưa ông. Chúng tôi có nhận được một cuộc gọi từ một người đàn ông nói giọng nước ngoài, báo cho chúng tôi biết đúng lúc đó ông ta vừa đi ngang toà nhà và nghe thấy hai người đàn ông đang hét lớn, tiếp theo là sự im lặng, rồi vài phút sau, một người đàn ông chạy ra khỏi toà nhà ấy ra phố, đó là lí do ông ta đã gọi ngay cho cảnh sát.”
“Ông ta có cho anh tên họ không?”
“Không, thưa ông. Nhưng việc ấy cũng không phải chuyện gì bất thường trong những vụ án thế này.”
“Như đã ghi lại trong trang lời khai bị mất tích của ông Rainsford, cảnh sát ập đến văn phòng RGK chỉ vài phút sau khi ông ta đến.”
“Đó là điều mà kẻ phạm tội sẽ nói nếu ông ta muốn đổ lỗi cho kẻ khác,” Clarkson nói. “Nên tôi đã không buồn kiểm tra lại, cũng còn vì việc theo đuổi những cuộc gọi nặc danh là việc làm vô ích, và thường là lãng phí thời gian.”
“Vậy các anh chưa bao giờ khám phá ra người bí ẩn đó là ai?”
“Có, tôi đã biết, thưa ông,” Clarkson nói.
Sir Julian một lần nữa bị làm cho ngạc nhiên. Ông dấn thêm một bước vào vùng đất mình chưa biết.
“Xin hãy kể cho toà nghe bằng lời của chính anh, trung sĩ thanh tra, về việc bằng cách nào anh có thể tìm ra người đàn ông bí ẩn này.”
“Vài ngày sau khi Rainsford bị buộc tội, một tài xế taxi da màu đã xuất hiện tại đồn và bảo chúng tôi rằng ông ấy đã xem được câu chuyện này trên bản tin tối. Ông ấy nói mình đã đón Rainsford từ Euston vào chiều hôm xảy ra án mạng, và thả ông ta bên ngoài một toà nhà văn phòng trên phố Marylebone Trên. Ông ấy chỉ vừa bật biển CÒN TRỐNG trong xe của mình lên thì một người đàn ông đã chạy vội ra khỏi toà nhà ấy và yêu cầu được chở đến quán rượu Đô đốc Nelson ở West Ham, nhưng sau khi đi khoảng một trăm mét thì hắn ta bảo ông ấy dừng lại. Hắn ra khỏi xe và chạy tới một buồng điện thoại gần đó. Hắn quay lại sau vài phút rồi chiếc taxi tiếp tục lên đường đến West Ham.”
“Ông ta có cho anh biết mô tả nhân dạng của người đó không?”
“Tôi có thể xem lại các ghi chép của mình lúc ấy không?” Clarkson hỏi và quay sang ba thẩm phán.
Thẩm phán Lord Arnott gật đầu và Clarkson mở một cuốn sổ nhỏ bọc da ra, lật vài trang trước khi nói tiếp. “Người tài xế kể rằng hắn cao khoảng một mét bảy hai, tóc đen, và có lẽ cần giảm vài cân. Ông ấy cũng kể rằng ông ấy cược hắn là người Hi Lạp hoặc Thổ Nhĩ Kỳ.”
“Điều gì làm ông ta nghĩ như vậy?” Sir Julian hỏi.
“Tài xế đã từng phục vụ quân ngũ ở Cyprus trong thời gian có cuộc nổi dậy, và khá tự tin là ông ta nhận ra giọng người vùng đó.”
“Anh có kể về cuộc nói chuyện này với thanh tra Stern không?”
“Có, và ông ấy không vui vẻ gì. Nhưng ông ấy có nói rằng ông ấy sẽ đến quán Đô đốc Nelson để kiểm tra chuyện đó.”
“Vậy ông ta có biết được người đàn ông bí ẩn kia là ai không?”
“Có. Nhưng ông ấy bảo tôi rằng gã đó có bằng chứng ngoại phạm chắc như đinh. Gã đã ở trong quán Đô đốc Nelson vào thời điểm xảy ra án mạng, điều này được ông chủ quán xác nhận, cũng như vài khách hàng khác cũng có mặt ở quán rượu vào thời điểm đó. Dù thế nào đi nữa, Stern đã nhắc nhở tôi, chúng tôi cũng đã có một bản thú tội có chữ kí, thế thì tôi còn muốn gì hơn?”
“Vậy là anh đã không theo đuổi hướng điều tra đó nữa?”
“Không, tôi không theo nữa. Rốt cuộc, thanh tra Stern mới là cấp trên trong vụ này, và tôi thì chỉ là một anh lính cảnh sát mới tò te chưa hết thử việc được mấy ngày, nên tôi cũng chẳng làm được gì nhiều.”
“Và không có báo cáo giấy tờ gì chứng minh được thanh tra Stern đã ghé thăm quán rượu Đô đốc Nelson, cũng như thẩm vấn người đàn ông bí ẩn kia chứ.”
“Thanh tra Stern không mấy quan tâm đến việc làm giấy tờ. Ông ấy bảo là ông ấy tin vào việc tóm lũ tội phạm chứ không phải là nhét vào hồ sơ.”
“Tôi hiểu là anh đã không được gọi lên bục nhân chứng trong phiên toà xử ông Rainsford?”
“Không, thưa ông. Tôi không được gọi. Và khi Rainsford bị kết án, tôi đoán là chắc hẳn thanh tra Stern đã nói đúng từ đầu. Mãi đến khi đọc bản kháng án của Rainsford trên tờ Daily Mail tôi mới bắt đầu ước hồi đó mình đã thẩm vấn ông Fortounis, và không để…”
“Vasilis Fortounis ư?” Arthur thốt lên trong lúc đứng bật dậy khỏi ghế ngồi.
“Vâng, tôi khá chắc chắn đó là tên ông ta,” Clarkson nói.
“Con gái ông ta chính là thư kí của Gary Kirkland,” Arthur hét lên.
“Sir Julian, hãy kiềm chế thân chủ của ông trước khi tôi làm thế,” Thẩm phán Lord Arnott nghiêm khắc nói.
Arthur lại ngồi xuống, nhưng bắt đầu vẫy tay lia lịa về phía Sir Julian.
“Tôi nghĩ giờ là lúc thích hợp để nghỉ giải lao, Sir Julian, vì rõ ràng thân chủ của ông muốn tham vấn ông. Chúng ta sẽ quay lại sau một giờ nữa nhé?”
CHÍNH QUYỀN KIỆN FAULKNER
“Các thành viên của bồi thẩm đoàn,” thẩm phán Nourse đang nói, “các vị đã nghe lập luận được luật sư cả hai bên trình bày, và giờ trách nhiệm của tôi là tổng hợp vụ án này một cách khách quan và không mang định kiến nào. Quyết định phụ thuộc vào các vị, và chỉ mình các vị, về việc liệu ông Faulkner có phạm tội như ba cáo buộc chống lại ông ta thay mặt chính quyền hay không.
Chúng ta hãy cân nhắc từng tội một. Thứ nhất, có phải ông Faulkner đã ăn trộm một bức tranh do Rembrandt vẽ từ Viện Bảo tàng Fitzmolean hay không? Các vị có cảm thấy chính quyền đã đệ trình đầy đủ bằng chứng hiệu quả để chứng minh vụ án này hơn cả những nghi ngờ hợp lí hay không? Nếu không, các vị phải giải tội cho bị cáo. Thứ hai, nếu kể cả ông Faulkner không có liên quan trực tiếp tới vụ trộm, liệu ông ta có dự phần vào đó hay không? Các vị chỉ được đưa ra lựa chọn hoàn toàn dựa trên những dữ kiện được trình bày trong phòng xử án này.”
Faulkner mỉm cười nhẹ, trong lúc Booth Watson ngồi tựa vào ghế của mình, hai cánh tay khoanh trước ngực, biết rằng thẩm phán vẫn còn chưa nói tí gì đến bằng chứng đáng tin cậy nhất của thân chủ mình.
“Tiếp theo là một cáo buộc rằng ông Faulkner đã cố ý mua một bức tranh bị đánh cắp, như lời khai của vợ ông ta. Mặc dù ông Faulkner đã đưa ra một bức tranh nhái bức Rembrandt, các vị phải hỏi chính mình xem ông ta đã sở hữu bản gốc bao lâu nay rồi.
“Liệu các vị có tin vào lời khai của ông Faulkner rằng ông ta đã tới Naples, và đã cố đạt một thoả thuận với nhà Camorra để mua lại bức tranh với giá một trăm ngàn đô la, chỉ với một mục đích là để trao trả nó về cho Fitzmolean? Và liệu các vị nghĩ có khả năng nào nhà Camorra lúc đầu đã từ chối lời đề nghị ấy, nhưng rồi sau đó lại xuất hiện trong nhà của ông Faulkner tại Monte Carlo, và đòi một trăm ngàn đô la? Điều này xảy ra, bất chấp thực tế như ông Faulkner đã nói là theo kinh nghiệm của ông ta,” thẩm phán liếc nhìn xuống ghi chép của mình, “nhà Camorra hiếm khi rời khỏi địa bàn của chính họ.
Và liệu các vị có thấy đáng tin khi một trong số những kẻ này, dù không hề nói lời nào khi ông ta còn ở Naples, lại đe doạ cắt cổ sáu vị Quan, và cắt cổ ông Faulkner, nếu ông ta không trả tiền? Hay các vị cho rằng điều đó là một sự thêm thắt hơi quá đáng? Chỉ có các vị mới là người quyết định phải tin ai – ông hay bà Faulkner – vì không thể có chuyện cả hai cùng nói thật. Tuy nhiên, các vị cũng phải tự hỏi liệu bằng chứng bà Faulkner đưa ra có đáng trông cậy không, vì bà ta đã thừa nhận một cách tương đối công khai rằng mình đang cố tước bỏ tất cả các tác phẩm nghệ thuật của chồng từ các ngôi nhà của họ ở Monte Carlo và Limpton Hall, trong khi ông ta đang ở Úc, và tôi không có gì nghi ngờ chuyện bà ta sẽ đi thuyền tới New York để làm việc tương tự, nếu chồng bà đã không kịp can thiệp. Và cuối cùng, thưa các thành viên bồi thẩm đoàn, các vị cũng phải cân nhắc thực tế là bị cáo chưa từng có tiền án trước đó.”
“Thưa các thành viên bồi thẩm đoàn,” ông nói tiếp, nhìn thẳng vào năm người đàn ông và bảy người phụ nữ, “một khi các vị đã cân nhắc toàn bộ bằng chứng, các vị phải chắc chắn bị cáo có tội mà không còn nghi ngờ nào nữa trước khi kết án. Nếu các vị không chắc chắn, các vị phải tuyên trắng án. Vì vậy xin hãy làm việc thư thả. Nếu, trong quá trình cân nhắc mà các vị cần sự trợ giúp về bất kì vấn đề gì liên quan đến luật pháp, xin đừng ngại quay lại phòng xử án này, và tôi sẽ làm hết sức mình để trả lời các câu hỏi của quý vị. Xin hãy tận dụng thời gian của mình cân nhắc tất cả bằng chứng trước khi đi đến phán quyết.”
CHÍNH QUYỀN KIỆN RAINSFORD
“Sir Julian.”
“Thưa quý Toà. Tôi rất biết ơn vì đã được trao cho cơ hội tham vấn với thân chủ của mình, và xin đề nghị toà gọi lại ông Stern, đồng thời triệu tập ông Vasilis Fortounis, vì bên bị mong có cơ hội thẩm vấn cả hai người họ trước toà.”
“Tôi chấp thuận yêu cầu của ông, Sir Julian, và đề nghị chúng ta hoãn phiên toà đến sáng mai, đến lúc đó tôi hi vọng chấp hành viên sẽ có thể tìm được cả hai quý ông nói trên.”
“Cảm ơn ngài,” Sir Julian nói, cố nghe có vẻ tin cậy.
Cả ba thẩm phán đứng dậy, cúi đầu và rời phòng xử án.
“Em không thể chờ nổi tới ngày mai,” Beth nói.
“Đừng vội hi vọng,” Grace bảo khi cô thu thập giấy tờ của mình. “Stern và Fortounis sẽ biết rõ những gì đã xảy ra trong toà chiều nay, và chị không nghĩ là giờ cả hai đều đang đi về hướng phố Strand đâu.”
CHÍNH QUYỀN KIỆN FAULKNER
“Ông muốn xin lời khuyên của tôi ư?” Thẩm phán Nourse hỏi sau khi bồi thẩm đoàn đã đi vào và ngồi lại vị trí của họ.
“Vâng, thưa quý Toà,” phát ngôn viên của bồi thẩm đoàn nói, ông ta là một quý ông có vẻ ngoài nổi bật, mặc một bộ vest xám than, hai hàng khuy và đeo cà vạt Cavalry. “Chúng tôi đã có thể đưa ra phán quyết về cáo buộc thứ nhất và thứ hai, nhưng vẫn chia rẽ ở cáo buộc thứ ba, về việc nhận đồ ăn trộm.”
“Ông có nghĩ các ông có thể đưa ra một phán quyết của đa số trong đó ít nhất mười người đồng ý được không?”
“Tôi nghĩ là được, thưa Toà, nếu chúng tôi được cho thêm một ít thời gian nữa.”
“Trong trường hợp đó chúng ta sẽ nghỉ giải lao sớm và tiếp tục phiên toà vào lúc mười giờ sáng mai, để cho phép các thành viên bồi thẩm đoàn suy nghĩ thêm.”
Tất cả mọi người trong phòng xử án đứng dậy và cúi đầu. Thẩm phán Nourse đáp lại lời chào trước khi rời khỏi vị trí của mình.
“Có phải đôi lúc sếp cũng ước gì mình được nhảy cóc hai mươi tư giờ và tìm hiểu xem chuyện gì sắp xảy ra không?” William hỏi.
“Lúc bằng tuổi tôi thì cậu không ước thế đâu,” Hawksby trả lời.