CHÍNH QUYỀN KIỆN RAINSFORD
“Sir Julian, ông có thể gọi nhân chứng tiếp theo.”
“Tôi không thể làm vậy được, thưa quý Toà. Mặc dù ngày hôm qua các trát đòi hầu toà đã được ban ra theo lệnh ngài, chấp hành viên của toà án đã không thể ban bố nó với cả ông Stern lẫn ông Fortounis.”
“Vậy thì chúng ta sẽ phải chờ đến khi họ nhận được trát,” thẩm phán nói.
“Chắc là còn lâu đấy, thưa ngài.”
“Điều gì khiến ông nghĩ như vậy, Sir Julian?”
“Tôi nghe nói ông Fortounis đã quay về nhà ở Nicosia vài ngày trước khi phiên toà được mở, và kể từ đó chưa ai nghe nói hay thấy ông ta cả.”
“Nguồn tin của ông từ đâu?”
“Người của quán rượu Đô đốc Nelson ở West Ham Grove, nơi ông ta làm khách thường xuyên.”
“Còn ông Stern?”
“Có vẻ như ông ta đã bay khỏi sân bay Birmingham tối muộn hôm qua.”
“Để tôi đoán nhé,” thẩm phán nói, “cũng là trên một chuyến bay đến Nicosia.”
“Và vì ông ta chỉ đặt vé một chiều, chấp hành viên có thể sẽ gặp chút khó khăn để thực thi lệnh của ngài, và tôi chắc chắn là ngài cũng biết, thưa quý Toà, Anh Quốc không có hiệp ước dẫn độ với Cyprus.”
“Vậy thì tôi sẽ ban hành chỉ thị tịch thu các tài sản của ông Stern, và ông ta sẽ bị bắt nếu đặt chân lên đất nước này một lần nữa. Tôi cho rằng chúng ta sẽ thành hi vọng quá đà nếu mong việc trục xuất này, cũng như với Bolingbroke, hoá ra lại thành một sự trừng phạt nghiêm khắc hơn cả bỏ tù.”
Không ai đưa ra ý kiến gì.
Ông Llewellyn đứng dậy. “Xin phép được lại gần bục có được không, thưa các ngài?”
Thẩm phán Lord Arnott gật đầu. ông Llewellyn và Sir Julian cùng đi đến trước mặt toà án gần với các vị quan toà. Họ ríu rít thì thào với cả ba vị một lúc trước khi Thẩm phán Lord Arnott giơ một tay lên và bắt đầu bàn bạc với các đồng nghiệp của mình.
“Họ đang nói về chuyện gì vậy?” Beth thì thầm với Grace.
“Chị không biết. Nhưng chị đoán là chúng ta sắp biết rồi.”
CHÍNH QUYỀN KIỆN FAULKNER
“Mời tất cả các bên có liên quan đến vụ kiện Miles Faulkner vui lòng quay trở lại phòng xử án số mười bốn,” giọng nói oang oang vang khắp hệ thống loa, “vì bồi thẩm đoàn sắp sửa quay lại.”
Vài người đang đứng quanh sảnh dừng nói chuyện, trong khi những người khác dập tàn thuốc lá rồi nhanh chóng trở lại phòng xử án. William tới cùng với chỉ huy Hawksby, chánh thanh tra Lamont, các luật sư, các nhà báo và cả những người chỉ thuần tuý tò mò, khi chấp hành viên của toà dẫn đoàn người vào phòng để về chỗ trong khoang bồi thẩm đoàn của họ.
Khi tất cả đã yên vị, thư kí toà gọi, “Xin mời phát ngôn viên đứng dậy.”
Người phát ngôn đứng lên.
“Các vị đã có phán quyết cho cả ba cáo buộc chưa?” Thẩm phán Nourse hỏi.
“Chúng tôi đã có, thưa quý Toà,” người phát ngôn đáp lời.
Thẩm phán gật đầu với thư kí phiên toà.
“Phát ngôn viên, ông thấy bị cáo, Miles Faulkner, có tội hay vô tội với tội danh ăn trộm bức tranh Rembrandt có tên gọi The Syndics of the Clothmakers’ Guild từ Viện Bảo tàng Fitzmolean?”
“Không có tội, thưa quý Toà.”
Faulkner cười. Booth Watson không thể hiện cảm xúc nào. Wiliam cau mày.
“Còn tội danh thứ hai, là bị cáo là đồng phạm trong vụ trộm đó. Các vị thấy bị cáo thế nào, có tội hay vô tội?”
“Vô tội.”
Lamont khẽ chửi thề.
“Còn tội danh thứ ba, tức việc nhận hàng mà ông ta đã biết là đồ ăn cắp, cụ thể là bức tranh Rembrandt nói trên, các vị thấy bị cáo thế nào, có tội hay không có tội?”
“Với đa số mười trên hai, thưa quý Toà, chúng tôi thấy bị cáo có tội.”
Những tiếng xì xào lớn dâng lên trong phòng xử án, vài nhà báo vội lao ra ngoài để chộp lấy chiếc điện thoại gần nhất và báo cáo bản án với phòng tin tức. Thẩm phán chờ đến khi phòng xử án ổn định lại mới quay sang tù nhân.
“Mời bị cáo đứng dậy,” thư kí toà nói.
Một dáng người kém tự tin hơn từ từ đứng lên trong bục, vụng về bước tới trước và nắm lấy thành lan can để trụ vững.
“Miles Faulkner,” thẩm phán nghiêm nghị nói. “Ông đã bị phán có tội nhận đồ ăn cắp, cụ thể là một tác phẩm nghệ thuật mang tầm cỡ quốc gia. Vì tính chất nghiêm trọng trong tội ác này, tôi muốn dành vài ngày để cân nhắc hình phạt nào là thích hợp. Do đó tôi sẽ hoãn tuyên án cho đến sáng thứ Ba tuần sau, lúc mười giờ.”
“Ông ta định làm gì thế?” Hawksby hỏi lúc Booth Watson bật dậy.
“Thưa quý Toà, tôi có thể yêu cầu gia hạn thời gian bảo lãnh cho thân chủ của tôi cho đến ngày đó không?”
“Tôi sẽ cho phép,” Thẩm phán Nourse nói, “với điều kiện ông ta nộp lại hộ chiếu tại toà. Và tôi chắc chắn, ông Booth Watson ạ, rằng ông sẽ thông báo với thân chủ của mình những hậu quả sẽ đến nếu ông ta không xuất hiện trước mặt tôi trong phòng xử án này vào sáng thứ Ba tới.”
“Chắc chắn tôi sẽ làm vậy, thưa quý Toà.”
“Ông Booth Watson và ông Palmer, vui lòng đến gặp tôi trong phòng làm việc của tôi.”
“Ông ta định làm cái gì thế?” ngài chỉ huy lại hỏi.
CHÍNH QUYỀN KIỆN RAINSFORD
Phòng xử án đã chật kín từ lâu trước khi Thẩm phán Lord Arnott và hai đồng nghiệp của ông đi vào lúc mười giờ sáng hôm sau.
Thẩm phán Lord Arnott đặt một hồ sơ màu đỏ lên bục trước mặt mình và cúi đầu với cả phòng. Sau đó ông vào chỗ của mình ở ghế giữa, xếp lại tà áo choàng dài màu đỏ và chỉnh lại cặp kính trước khi mở tập hồ sơ ra tới trang một.
Phòng xử án đã im lặng đến nỗi ông phải ngẩng lên nhìn để chắc chắn là tất cả mọi người đã tham dự. Ông nhìn những gương mặt đầy trông đợi rồi nhìn vào tù nhân đang ngồi trên bục trước khi đưa phán quyết cuối cùng của mình. Ông cảm thấy tiếc cho Rainsford.
“Trong cuộc đời làm thẩm phán của mình tôi đã ngồi ghế chủ toạ rất nhiều vụ án,” Arnott mở lời, “và trong mỗi vụ án tôi đã nỗ lực giữ mình khách quan và không phát sinh cảm xúc, để đảm bảo rằng không những công lý được thực thi, mà còn phải được thực thi một cách trực quan nữa.
Tuy nhiên, tôi e là trong trường hợp này, tôi đã để tình cảm chen vào. Tôi thấy rõ ràng đã có một sự bất công xảy ra sau khi nghe lời khai của ông Stern. Cảm xúc ấy được củng cố một lần nữa khi giáo sư Abrahams mang chuyên môn của mình vào vụ án này. Tôi và các đồng nghiệp cuối cùng cũng đã hoàn toàn tin tưởng trong suốt cuộc đối chất với trung sĩ thanh tra Clarkson, lời khai trung thực thật thà của anh là minh chứng cho nghề nghiệp của anh ấy.
Mặc dù những kẻ phạm tội thật sự trong vụ án này có thể không bao giờ bị bắt, tôi không nghi ngờ gì chuyện Arthur Edward Rainsford đã bị buộc tội oan cho cái chết của Gary Kirkland, bạn và cũng là đối tác làm ăn của ông ấy. Do đó tôi tuyên bố bản án sơ thẩm bị bác bỏ.” Tiếng reo hân hoan vang lên, chúng chỉ lắng xuống khi thẩm phán cau mày, tỏ rõ là ông còn chưa nói xong. “Chúng ta không bao giờ nên coi nhẹ một phán quyết như thế này,” ông nói tiếp. “Tôi không coi lỗi lầm thuộc về bồi thẩm đoàn trong phiên sơ thẩm khi đưa ra bản án đó, vì họ đã tin vào lời chứng của một thanh tra nhà nước, và bởi trò gian trá của người đó mà họ đã không được xem trang lời khai bị mất của ông Rainsford, như ông đã khai với cảnh sát vào cái đêm ông bị bắt, và kết quả là một sự bất công to lớn đã xảy đến với một người đàn ông vô tội. Tôi rất vui mừng không chỉ vì tù nhân sẽ được phóng thích, mà còn làm rõ rằng chưa bao giờ có, và đáng lẽ không bao giờ nên có, một vết nhơ nào lên danh dự của ông ấy. Ông Rainsford, ông được tự do rời khỏi toà án.”
Beth và Joanna Rainsford là những người đầu tiên nhảy cẫng lên và vỗ tay khi bức màn cuối cùng cũng hạ xuống. Tuy nhiên, cử chỉ mà Arthur sẽ còn nhớ mãi rất lâu sau này khi phút cuồng nhiệt của trận chiến đã lắng xuống, là khi ông Llewellyn rời khỏi chỗ của mình bên bục của chính quyền, đi ngang chiếc bục cao và bắt tay cùng bị cáo. Arthur đã phải cúi xuống mới nghe thấy tiếng ông ta giữa đám đông huyên náo.
“Lần đầu tiên trong đời tôi, thưa ông,” Llewellyn thì thầm, “tôi vui mừng vì đã thua một vụ án.”
Thẩm phán Nourse cởi áo choàng, lột tóc giả và đang rót cho mình một ly whiskey thì có tiếng gõ cửa.
“Mời vào,” ông nói. Cánh cửa mở ra, cả Booth Watson và Palmer đều đi vào văn phòng ông.
“Vì là chủ nhà, tôi có thể lấy gì cho các ông không, BW, Adrian?”
“Không, cảm ơn ông, Martin,” Booth Watson nói khi tháo bộ tóc giả ra. “Tôi biết ông sẽ không tin đâu, nhưng tôi vẫn đang cố giảm cân.”
“Adrian vậy?”
“Vâng, cảm ơn ngài thẩm phán,” Palmer nói. “Tôi xin một ly malt, nếu được.”
“Cả hai ngồi xuống đi,” ngài thẩm phán nói trong lúc ông đưa cho luật sư bên nguyên cốc của mình. Ông uống một ngụm whisky, chờ cho cả hai cùng yên vị trước khi nói tiếp. “Tôi muốn nói riêng với ông một vài lời, BW ạ, nhưng tôi cảm thấy Adrian cũng nên có mặt ở đây để sau này không có hiểu lầm gì.”
Booth Watson nhướng một bên lông mày, điều ông ta sẽ không bao giờ thể hiện trước toà.
“Tôi tò mò muốn biết liệu thân chủ của ông có nghiêm túc khi nói ông ta định hiến tặng bức Rubens của ông ta cho Fitzmolean hay không?”
“Tôi không có lí do gì để tin là không phải cả,” Booth Watson nói. “Nhưng nếu ông cảm thấy việc đó quan trọng, chắc chắn tôi sẽ tìm hiểu thêm và cho ông biết.”
“Không, không. Tôi chỉ tò mò thôi. Và vì ông đang ở đây, cho phép tôi chúc mừng cả hai vì cách hai vị đã xử lý vụ án này. Tôi nghĩ hai ông có thể mô tả đây là một kết quả hoà một cách công bằng.”
“Tôi không nghĩ thân chủ của tôi sẽ nhìn nhận theo cách đó,” Booth Watson nói.
“Nhẽ ra ông ta nên chấp thuận lời đề nghị của tôi,” Palmer nói, uống cạn cốc của mình.
“Tôi có thể hỏi là gì không?” thẩm phán hỏi.
“Chính quyền đáng lẽ sẽ bãi bỏ cáo buộc trộm tranh nếu ông ấy chịu nhận tội tàng trữ của ăn cắp.”
“Vậy là bồi thẩm đoàn đã làm đúng,” Nourse nói, trước khi uống thêm một ngụm khác. “Làm một nửa nữa nhé, Adrian?”
“Cảm ơn ngài, thẩm phán.”
“Còn ông, BW, ông có chắc là tôi không mời được ông không?”
“Không, cảm ơn ông, Martin. Vài phút nữa là tôi phải tham vấn với thân chủ rồi, nên tốt hơn là tôi nên lên đường thôi.”
“Tất nhiên rồi, BW, hẹn gặp ông sáng thứ Ba.”
Booth Watson đứng dậy và dợm bước.
“Có lẽ ông có thể cho tôi biết liệu thân chủ của ông có thực sự trao bức Rubens cho Fitzmolean như ông ta đã thề được không,” thẩm phán ngập ngừng, “trước ngày thứ Ba.”
Booth Watson gật đầu, nhưng không nói năng gì.
Palmer uống thêm một ngụm whisky và chờ cánh cửa đóng lại rồi mới hỏi, “Có phải tôi vừa mới chứng kiến một màn nắn gân tinh tế không?”
“Chắc chắn là không rồi,” thẩm phán nói và nâng cốc lên. “Tôi đã quyết định số phận của ông Faulkner rồi, mặc dù tôi thú nhận rằng giá kể ông ta chịu tỏ chút ăn năn dù chỉ là nhỏ nhất, ít ra tôi cũng đã cân nhắc việc giảm nhẹ. Nhưng mặt khác, cũng có thể tôi không làm thế.”
“Anh nghĩ tại sao ông ta lại hỏi anh như vậy?” Faulkner hỏi.
“Người ta đã biết các thẩm phán thường quyết định giảm án vào phút chót, nhưng ấy chỉ là nếu họ cảm nhận được sự hối lỗi thật tâm thôi.”
“Thật tâm thế nào?”
“Nếu anh trao bức Rubens cho Fitzmolean trước ngày thứ Ba, tôi có lí do để tin rằng quan toà có thể cân nhắc đó là một hành động đóng góp thật tâm.”
“Còn tôi thì có thể mong đổi được gì?”
“Nourse quá cáo già nên sẽ không hé lộ bất kì điều gì thêm, nhưng quyền lực của ông ta đủ để quyết định giữa mức hình phạt cao nhất cho bị can, tới bốn năm, hay mức nhẹ nhất, chỉ sáu tháng. Thậm chí còn có khả năng chỉ là án treo và một khoản phạt mười ngàn bảng – nhưng đó chỉ là một khả năng thôi, nên anh đừng hi vọng vội.”
“Như anh đã biết, BW, tôi đếch quan tâm tới tiền phạt. Nhưng nếu tôi phải đi tù sáu tháng thì có Chúa mới biết Christina có thể gây ra những gì trong lúc tôi vắng mặt.”
“Điều đó có nghĩa là ông sẵn sàng giao nộp bức Rubens cho Fitzmolean phải không?”
“Nó có nghĩa là tôi sẽ suy nghĩ.”
“Trước thứ Ba đấy nhé.”
Arthur ngủ gật vào khoảng mười giờ tối, việc đó làm cả nhà hơi ngượng vì tất cả bọn họ đều đang tận hưởng bữa tối ăn mừng ở San Lorenzo, nhà hàng yêu thích của ông, nơi ông được chào đón như thể chưa từng đi xa.
“Đèn tắt lúc mười giờ,” ông giải thích. “Sau gần ba năm, đó là một thói quen rất khó bỏ.”
“Điều đầu tiên chú định làm khi thức dậy vào sáng mai là gì?” Grace hỏi.
“Lúc sáu giờ,” Arthur nói.
“Xúc xích, trứng, thịt hung khói và đậu hầm nhé?” William gợi ý.
“Trứng chưng mà không phải loại lấy ra từ túi đóng sẵn, và có lẽ tôi sẽ ăn một lát cá hồi hun khói, ít bánh mì nướng không bị cháy, một cốc cà phê bốc khói uống cùng sữa tươi chứ không phải sữa bột,” Arthur đáp.
“Còn sau bữa sáng?”
“Tôi sẽ đi bộ thật lâu trong công viên trước khi đi mua sắm. Tôi cần một bộ vest mới nếu muốn mình trông chỉn chu khi trở lại làm việc vào sáng mai.”
“Sao không nghỉ một chút trước khi quay lại làm việc,” Sir Julian hỏi. “Để đi nghỉ.”
“Tuyệt đối không,” Arthur quả quyết nói. “Tôi đã nghỉ tới ba năm rồi. Không, tôi định quay lại văn phòng ngay khi có thể.”
“Cha có thể lùi lại chỉ một ngày thôi được không ạ?” Beth hỏi. “Cha và mẹ đã được mời đến Fitzmolean ngày mai để tham dự buổi trình diễn bức Rembrandt, và con hi vọng tất cả mọi người ở đây sẽ đều hiện diện trong giây phút chiến thắng ấy của con.”
“Giây phút chiến thắng của em á?” William hỏi.
Tất cả mọi người đều cười trừ Arthur, vì ông đã lại ngủ gật.
Phòng xử án số mười bốn đông chặt từ trước mười giờ sáng rất lâu, và như các khán giả trong rạp hát, mọi người tán chuyện với nhau trong lúc chờ đợi tấm rèm được kéo lên.
Chỉ huy Hawksby, chánh thanh tra Lamont, thanh tra Roycroft và thanh tra Warwick đều ngồi cách luật sư Adrian Palmer, công tố viên, hai hàng ở phía sau.
Luật sư Booth Watson và phụ tá của ông ta, luật sư Mishcon, ngồi ở đầu kia của dãy ghế, đang bàn bạc về độ phủ sóng mà thân chủ của họ nhận được trên các mặt báo quốc gia sáng đó. Họ đồng ý với nhau rằng sự việc đã không thể nào tốt hơn được nữa.
Miles Faulkner đặt cạnh Đức Chúa đã phủ khắp vài trang nhất, cùng với những lời mà Booth Watson soạn thảo còn khách hàng của ông ta thì nhắc lại: “Tất nhiên tôi buồn khi phải chia lìa với một bức tranh yêu thích như thế, giống như việc mất đi đứa con độc nhất, nhưng bức Rubens của tôi không thể tìm được một ngôi nhà nào tốt hơn.”
Các hàng ghế của nhà báo dọc một bên tường toà án đã đông đến mức vài người kì cựu không thể tìm nổi ghế ngồi đã buộc phải đứng đằng sau những đồng nghiệp kém tiếng hơn của họ. Một khi bản án được tuyên, họ sẽ chạy ào tới chỗ điện thoại gần nhất và báo cáo quyết định của thẩm phán với quyền chủ biên của họ.
Tờ Evening Standard sẽ là tờ đầu tiên ra phố, và nó đã sắp sẵn chữ cho dòng tít trang bìa: “Faulkner chịu án X năm.” Chỉ còn cần phải in thêm số năm vào thôi. Phóng viên mảng hình sự đã nộp hai bài báo đêm hôm trước, và một trợ lí biên tập sẽ quyết định bài nào được đăng.
Từ bảy giờ sáng hôm đó một hàng dài những người tò mò và hóng chuyện đã bắt đầu hình thành bên ngoài lối vào dành cho công chúng của Toà án Công lý Hoàng gia, và chỉ vài phút sau khi toà mở cửa chính thức, mọi chỗ ngồi trong hành lang đều đã có người. Tất cả những người hiện diện đều biết bức rèm sẽ được vén lên lúc mười tiếng chuông được rung lên ở tháp tây nam của nhà thờ St Paul. Dù không có bất kì ai trong đám người đang tụ tập nghe được tiếng chuông nhà thờ ấy.
Giây phút thẩm phán Nourse xuất hiện, những tiếng chuyện trò ngưng lại, nhường chỗ cho bầu không khí chờ đợi. Vị thẩm phán ngồi vào chiếc ghế lưng cao bọc da màu đỏ, nhìn xuống vương quốc của mình và quan sát các nhân vật trong đó, giả như không quan tâm gì đến thực tế là ông chưa từng thấy phòng xử án của mình lại đông đúc đến thế. Ông đáp lại cái cúi đầu của mọi người và đặt hai hồ sơ màu đỏ lên bục.
William quay sang nhìn Faulkner lúc ông ta về chỗ của mình trước vành móng ngựa. Trong bộ vest xanh đậm, áo sơ mi trắng và cà vạt Old Harrovian, trông ông ta giống một nhà môi giới ở thành phố đang trên đường đến chỗ làm hơn một tù nhân sắp được đưa đến Pentoville. Ông ta đứng thẳng, gần như tự hào, trong lúc đối diện với thẩm phán, bề ngoài tỏ ra bình thản và điềm tĩnh.
Thẩm phán Nourse mở tập hồ sơ màu đỏ thứ nhất ghi chữ “Phán quyết”, và nhìn về phía tù nhân trước khi đọc bản thảo viết tay của mình.
“Ông Faulkner, ông đã bị tuyên có tội với tội danh nhận đồ ăn cắp, và không phải một món đồ vặt vãnh tầm thường nào đó, mà còn là một báu vật quốc gia giá trị không đong đếm được, cụ thể là bức tranh The Syndics of the Clothmakers’ Guild của Rembrandt. Tôi không nghi ngờ gì chuyện ông đã sở hữu tác phẩm độc nhất vô nhị ấy trong một thời gian tương đối lâu rồi, có thể là bảy năm sau khi nó bị đánh cắp khỏi Viện Bảo tàng Fitzmolean, và ông không bao giờ có ý định trả lại nó cho chủ nhân đích thực. Nếu vợ ông đã không chuyển bức tranh tới Anh ngoài ý muốn của ông, thì có thể nó sẽ vẫn đang được treo trong nhà ông ở Monte Carlo.”
Luật sư Adrian Palmer mỉm cười nghiêm trang thay mặt chính quyền.
Thẩm phán nói tiếp, “Ông Faulkner, ông không phải là một tên trộm lịch lãm chỉ muốn tận hưởng thú vui đi săn như một số tờ báo lá cải đã muốn chúng ta phải tin. Còn lâu mới là như vậy. Thực tế ông không khác gì một tay trộm tầm thường, những kẻ mà mục đích duy nhất là cướp đoạt một trong những báu vật đẹp đẽ nhất của một tổ chức nhà nước.”
Booth Watson nhấp nhổm khó chịu trên ghế.
Thẩm phán quay sang trang bản thảo thứ hai, trước khi tuyên bố, “Miles Edward Faulkner, ông sẽ nộp một khoản phạt mười ngàn bảng, mức cao nhất mà tôi được phép phạt, mặc dù tôi cho rằng khoản tiền ấy là không tương xứng trong trường hợp cụ thể này.” Ông đóng tập hồ sơ màu đỏ thứ nhất và ngồi lại một cách khó chịu trên ghế. Faulkner phải đồng ý với ông rằng con số ấy là “không tương xứng”, và cố tránh cái cười mỉa trước ý nghĩ đã thoát tội dễ dàng như thế.
Thẩm phán mở tới tập hồ sơ thứ hai và liếc đoạn đầu tiên trước khi nói tiếp. “Ngoài khoản tiền phạt, tôi tuyên án ông bốn năm tù.”
Faulkner suy sụp trông thấy khi ông ta nhìn chằm chằm vào vị thẩm phán với vẻ không thể tin nổi.
Thẩm phán lật trang và nhìn vào đoạn ông đã gạch đi đêm hôm trước và viết lại vào sáng nay.
“Tuy nhiên,” ông nói tiếp, “tôi buộc phải thừa nhận tôi đã xúc động bởi sự hào phóng của ông khi trao tặng bức Christ’s Descent from Cross cho Viện bảo tàng Fitzmolean. Tôi chấp nhận rằng chắc hẳn ông đã rất đau đớn khi phải chia tay với niềm tự hào trong bộ sưu tập của mình, và tôi sẽ thật tắc trách nếu không ghi nhận cử chỉ hào phóng này như một dấu hiệu của sự hối hận thành thực.”
“Ông ấy sẽ miễn khoản tiền phạt,” ngài chỉ huy thì thầm, “những Faulkner đếch thèm quan tâm chuyện đó.”
“Hay có lẽ sẽ giảm án,” William nói, anh không thể quyết định được nên nhìn vào thẩm phán hay Faulkner.
Faulkner không hề chớp mắt lấy một cái, tha thiết hi vọng nghe thấy một từ, mà không phải là “phạt.”
“Vì vậy, tôi đã quyết định,” thẩm phán nói tiếp, “có lẽ là đi ngược lại phán đoán nhiều lí trí hơn, và cũng là để thể hiện chút hào hiệp, đó là hoãn thi hành bản án của ông, với chỉ thị rõ ràng là nếu ông còn vi phạm luật pháp một lần nữa, dù có nhẹ đến thế nào đi nữa, trong bốn năm tiếp theo, án tù đầy đủ của ông sẽ tự động được áp lại.”
Faulkner coi cử chỉ hào phóng của ông ta, như ngài thẩm phán đã tử tế mô tả, là hoàn toàn xứng đáng.
“Do đó ông được tự do rời khỏi toà, ông Faulkner,” thẩm phán nói bằng tông giọng thể hiện ông đã bắt đầu hối hận vì quyết định của mình.
William giận tím tái, không để cho bất kì ai ngồi gần mình phải nghi ngờ chút nào cảm xúc lúc này của anh. Lamont không thốt nên lời, còn Hawksby thì trầm ngâm. Rốt cuộc, ngài Thẩm phán đã nói là bất kì một vi phạm nào khác, dù có nhẹ đến đâu.
Khi Beth nghe bản tin vào giờ chiều ngày hôm đó, cô chỉ nói, “Nếu em phải chọn giữa việc Faulkner đi tù bốn năm hay Fitzmolean cuối cùng lại có một báu vật vô giá như thế, em sẽ không cần phải nghĩ đến lần thứ hai.”
“Còn anh thì đã hơi hi vọng cả hai điều tốt đẹp cùng xảy ra,” William nói. “Fitzmolean sẽ có bức Rubens còn Faulkner thì dành bốn năm vật vã trong Pentonville.”
“Nhưng anh sẽ về phe nào nếu anh chỉ được chọn lựa giữa việc Faulkner đi tù bốn năm, hoặc Fitzmolean có bức Rubens vĩnh viễn?”
“Tất nhiên là về phe Fitzmolean rồi,” William nói, cố nghe có vẻ thật lòng.