I
gor Fyodorovich Stravinsky sinh ra ở một khu nghỉ mát mùa hè nhỏ tại Ornienbaum trên vịnh Phần Lan vào ngày 17 tháng 6 năm 1882. Igor là con trai thứ hai của ông Fyodor Ignat'yevich Stravinsky, một nghệ sĩ giọng bass nổi tiếng của nhà hát Opera Hoàng gia St Peterburg. Igor chơi piano từ rất nhỏ và sớm biết ứng tác trên cây đàn. Tuy nhiên, ông đã gây sốc cho gia đình khi tỏ ra không thích học piano một cách bài bản và có hệ thống.
Coi con trai mình là một người lập dị, bố mẹ Stravinsky đã hướng con vào khoa luật trường Đại học tổng hợp. Họ không ngờ rằng, đây chính là quãng thời gian Stravinsky nghe nhạc nhiều nhất, đặc biệt là các tác phẩm của Tchaikovsky, Glinka và Rimsky-Korsakov, nhạc sĩ ông gặp tại Heidelberg vào năm 1902. Chính Rimsky-Korsakov đã khuyến khích ông bắt tay vào sáng tác Sonatina, Allegro, Faune et berrgère (Thần điền dã và cô bé chăn cừu) và tới năm 1905 là một bản giao hưởng hoàn chỉnh. Năm 1908, sau khi sáng tác bản “Pháo hoa”, Stravinsky tiếp tục sáng tác các Etude cho piano.
Khi Rimsky-Korsakov qua đời, ông đã soạn tác phẩm “Chant funèbre” để tưởng niệm nhà soạn nhạc lớn này.
Năm 1909, Stravinky đã có cuộc gặp gỡ định mệnh với Sergei Diaghilev, người có vai trò rất lớn trong cuộc đời ông. Cuộc gặp gỡ này không chỉ đem lại sự tỏa sáng của một nhạc sĩ tài ba mà còn là sự khởi đầu cho một tình bạn gắn bó với bao thăng trầm trong suốt 30 năm sau này. Chính Sergei Diaghilev là người đầu tiên cảm nhận và đánh giá được tài năng thiên bẩm của người nhạc sĩ trẻ này. Khi ấy, Stravinky mới tốt nghiệp đại học và đã có gia đình nhưng vẫn chưa xác định rõ được tương lai của mình với tư cách là nhạc sĩ sẽ ra sao. Diaghilev đặt hàng Stravinsky viết nhạc cho vở “Les sylphides”, một vở ballet lấy cảm hứng từ những bản nhạc viết cho piano của Chopin.
“Les sylphides” đã được đoàn ballet Russe biểu diễn lần đầu tiên vào mùa du lịch Paris vào năm 1909 tại nhà hát Opera Paris. Stravinsky kể lại: Tôi vừa trở về sau một kỳ nghỉ và đang tĩnh tâm để hoàn thành nốt tác phẩm “Le Rossignol” thì nhận được một bức điện tín. Điều đó đã làm thay đổi mọi kế hoạch của tôi. Diaghilev đề nghị tôi viết nhạc cho vở “Con chim lửa”. Buổi công diễn tác phẩm này ở nhà hát Opera Paris năm 1910 đã tạo điều kiện cho Stravinsky gặp gỡ những nhà văn, nhà soạn nhạc nổi tiếng đương thời như Marcel Proust, Maurice Ravel, Manuel de Falla và đặc biệt là Claude Debussy, người sau này đã trở thành bạn của ông đến suốt đời.
Vở ballet thứ hai viết cho Diaghilev cũng giành được thành công tương tự. Thay vào đó, ở vở ballet này, Stravinsky đã tận dụng tối đa những giai điệu nồng nàn của nhạc Nga. Ông nhớ lại: “Khi tôi soạn phần âm nhạc, tôi đã tưởng tượng thấy cảnh một con rối đột nhiên bị cắt dây, cảnh này được dàn nhạc tăng thêm bằng sự dồn dập của những hợp âm rải. Dàn nhạc đáp trả lại với những hợp âm kèn lệnh đầy đe dọa. Phần kết thúc ở đoạn cao trào với hình ảnh bi thảm của con rối ngã gục xuống đất đầy đau đớn.”
Năm 1913 xảy ra vụ scandal trong lần trình diễn vở ballet tiếp theo của Stravinsky - vở “Lễ bái xuân”. Ông viết tác phẩm này theo lời yêu cầu của Diaghilev. Vở ballet mang những âm điệu gay gắt, sử dụng lối hòa âm khác lạ và bản nhạc đầy khí phách với sự thống trị của nhạc cụ hơi và đồng so với bộ dây. Điều này đã tạo ra một làn sóng chống đối của khán giả Paris, những người vốn quen thuộc với thứ âm nhạc dịu nhẹ, du dương, êm tai. Camille Saint-Saens, nhà soạn nhạc nổi tiếng người Pháp đã đùng đùng bỏ ra về sau khi mới chỉ nghe có vài âm thanh đầu tiên của cây kèn bassoon. Tuy nhiên, tác phẩm này đã bắt đầu cho ông một sự nghiệp thành công và có tầm ảnh hưởng đến những nhà soạn nhạc đương thời.
Khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Stravinsky rời Nga đến Thuỵ Điển. Đoàn ballet cũng bị giải tán. Một lần nữa, với đề nghị của Diaghilev, Stravinsky đã soạn tác phẩm “Đám cưới” mà mãi đến năm 1923 mới được công diễn ở Paris. Stravinsky nhớ lại ông đã viết vở này ở một vùng núi, “trong một phòng nhỏ chứa những hộp sôcôla Suchard, với một áo khoác choàng qua vai, một mũ berê da trên đầu, một đôi giày tuyết và một chiếc khăn chùm lên đầu gối”.
Les noces đã đạt được thành công bất ngờ với sự kết hợp giữa 4 piano và nhạc cụ hơi. Tiếp theo là hai tác phẩm thính phòng. Tác phẩm “Renard” được ông hợp tác với tác giả Charrles Ferrdinand Ramuz người Thuỵ Sĩ do công chúa Edmon de Polignac đặt hàng viết cho dàn nhạc nhỏ 20 người. Nhạc cụ chính là đàn cimbalum do những người dân digan Hungary chơi. Ở một tác phẩm khác, Histoire du soldat (Chuyện người lính) được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1917 với sự giúp đỡ tài chính của Wener Reinhardt.
Vào thời điểm này, Stravinsky lâm vào cảnh túng quẫn và bệnh tật. Điều đặc biệt là chính sách “thắt lưng, buộc bụng” thời hậu chiến đã ảnh hưởng đến cả biên chế dàn nhạc giao hưởng, buộc ông phải sáng tác những tác phẩm dành cho một số loại nhạc cụ. Histoire du soldat giống như một tác phẩm viết cho ban nhạc jazz, trong đó có một số loại nhạc cụ thể hiện cả những âm sắc trầm. Nhạc cụ đó chính là violin, tượng trưng cho người lính ngây thơ, cả tin đã bán linh hồn cho quỷ dữ để đổi lấy một chiếc bùa. Anh ta trở nên giàu có nhưng không hạnh phúc. Libretto của kiệt tác thính phòng này được Charrles Ferrdinand Ramuz viết dựa trên một câu chuyện dân gian Nga.
Sau khi mẹ, vợ và con gái qua đời, ông đã quyết định sang Mỹ vào năm 1939 và mắc chứng lao phổi. Năm 1940, ông định cư và dưỡng bệnh ở Hollywood, nơi có khí hậu gần giống vùng biển nước Pháp.
Trong hai năm 1947 và 1948, Stravinsky chủ yếu tập trung vào việc soạn nhạc cho một vở opera trữ tình: Sự hoàn lương của gã ăn chơi đàng điếm dựa trên bản thơ nguyên gốc bằng tiếng Anh. Phần lời của opera do nhà thơ Anh nổi tiếng W.H. Auden viết (do Aldouo Huxley giới thiệu với Stravinsky). Vở opera này mô tả cuộc sống phiêu lưu của một chàng thanh niên được hưởng một gia tài kếch xù. Anh ta đã đánh mất cả linh hồn cho Nick Shadow, tượng trưng cho ác quỷ. Sử dụng phong cách âm nhạc và opera thế kỷ XVIII (chủ yếu là Gluck và Mozart), Stravinsky và Auden đã lặp lại từ các aria, hợp xướng, tổng phổ... của một vở opera cổ điển.
Buổi công diễn ở nhà hát opera Fenice ở Venice năm 1951 dưới sự chỉ huy của chính Stravinsky đã đạt được thành công vang dội. Vở diễn được công diễn tại đây thêm một lần nữa đã đem lại sự gắn bó chặt chẽ của Stravinsky với thành phố xinh đẹp này của Ý. Những tác phẩm chính ông sáng tác vào thời gian này, Canticum sacrum ad honorem Santi Marci nominis (1958) và Threni id est Lamentationes Jeremias Prophetae (1958) viết cho ca sĩ đơn ca, dàn hợp xướng và đàn harp, cũng đều được trình diễn tại đây.
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất của Stravinsky ở giai đoạn sau này là niềm say mê của ông đối với hệ thống nhạc 12 âm, một kỹ thuật soạn nhạc từng bị chính ông từ chối sử dụng trước đây. Hai tác phẩm Cantium, Thereni và vở ballet Agon(1957) được xem là kết quả của quá trình ông nghiên cứu âm nhạc của Anton Webern trong suốt thời gian từ năm 1952 đến năm 1955.
Về già, dù sức khỏe suy yếu, Stravinsky cũng trở lại nước Nga, quê hương mình. Ông đã qua đời vào ngày 6 tháng 4 năm 1971.
Về bản nhạc “Mùa xuân thiêng liêng”.
Stravinsky kể lại: “Ý tưởng của sáng tác ‘Mùa xuân thiêng liêng’ đến ngay trong lúc tôi còn đang sáng tác dở “Chim lửa”. Tôi đã từng ôm mộng về một tác phẩm lấy cảm hứng từ lễ hiến tế mùa xuân, một nghi thức đa thần giáo nước Nga. Trong buổi lễ thiêng liêng này, cô gái đồng trinh được chọn tế thần sẽ nhảy múa đến chết. Ý tưởng này sẽ không chỉ thực hiện bằng mỗi thứ nguyên liệu âm nhạc.”
Buổi ra mắt vở ballet “Mùa xuân thiêng liêng” vào ngày 29 tháng 5 năm 1913 cũng tại nhà hát Opera Paris. Ngay khi những âm thanh đầu tiên vang lên, nhà soạn nhạc Pháp Camille Saint - Saens đã đùng đùng bỏ ra về vì không chịu nổi thứ âm thanh kỳ dị này. Những khán giả Paris còn lại kiên nhẫn hơn nhà soạn nhạc danh tiếng nhưng cũng bộc lộ ngay phản ứng khi thấy trên sân khấu là tác phẩm nghệ thuật nào đó không phải về mùa xuân như họ tưởng. Những tiếng la hét, huýt sáo la ó vang lên trong thính phòng. Đám đông gầm gừ tức giận và cảnh sát Paris đã phải nhập cuộc. Nijinsky và Stravinsky cảm thấy nản lòng nhưng chính Diaghilev lại bình luận rằng “tôi mong muốn vở diễn được chú ý như vậy”. Và quả thật, hôm sau trên các mặt báo, rất nhiều bài báo mổ xẻ với nhiều ý kiến đối lập về “Mùa xuân thiêng liêng”...
Dù buổi ra mắt không hề may mắn nhưng cuối cùng, giá trị đích thực đã được công nhận. “Mùa xuân thiêng liêng” đã có mặt trong hàng ngũ những tác phẩm xuất sắc nhất thế kỷ XX và thường xuyên có trong danh mục biểu diễn của nhiều buổi hòa nhạc lớn.
Để có được tác phẩm “Mùa xuân thiêng liêng”, Stravinsky đã phải lao tâm khổ tứ hơn hai năm. Tuy đã sẵn ý tưởng soạn một tác phẩm về tục hiến tế mùa xuân của đa thần giáo Nga nhưng Stravinsky không thể thực hiện được điều này nếu thiếu vắng sự trợ giúp của nhà khảo cổ học và nghiên cứu văn hóa dân gian Nikolai Roerich. Đây cũng là một nhân vật đặc biệt, từng học vẽ tại Học viện nghệ thuật St. Petersburg nhưng lại ngả theo thuyết thần bí Tây Tạng và sau này cùng với vợ mình sáng lập ra thuyết Agni Yoga.
Âm nhạc của Stravinsky trong “Mùa xuân thiêng liêng” luôn chứa chất sự phiêu lưu và sáng tạo độc đáo. Việc sử dụng những âm thanh nghịch tai đã đem lại màu sắc khác thường và một nguồn sinh lực mới mẻ cho tác phẩm. Thông qua phần giai điệu chính như dân ca, “Mùa xuân thiêng liêng” đem lại sự hồi tưởng về thời kỳ cổ xưa của trái đất. Chủ đề của tác phẩm đã được Stravinsky lấy từ tuyển tập các bài hát dân ca Lithuanian do Juskiewicz sưu tầm. Tiếng solo của kèn basson theo điệu dân ca Lithuanian đã ngay lập tức giới thiệu về buổi lễ hiến tế. Khúc nhạc mở màn này đã đột ngột đưa khán giả đến với giai điệu của “Điệu nhảy của các trinh nữ”. Phần hai của tác phẩm được viết theo phong cách trường phái ấn tượng với chương mở đầu từ tốn, chậm rãi nhưng cũng bất ngờ đem đến sự căng thẳng được dồn nén ở những chương sau. Đặc biệt, chương cuối cùng đưa đến một bức chân dung âm nhạc về sự ám ảnh bị hủy diệt con người từ nguồn sức mạnh nguyên thủy. Đây cũng là đề tài của các nhà văn hiện thực thế kỷ XX. Giống như âm nhạc của Stravinsky, các tác phẩm văn chương này cũng chứa đầy sự căng thẳng và dang dở. Sự thay đổi mạnh mẽ về phong cách âm nhạc của Stravinsky thực sự là ánh xạ của sự thay đổi đến chóng mặt của xã hội trong thời đại của ông.
“Mùa xuân thiêng liêng” được ghi âm lần đầu tiên dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Pierre Monteux. Lúc sinh thời, chính Stravinsky cũng đã chỉ huy tác phẩm này và bản thân ông chỉ thực sự hài lòng với sự dàn dựng của nhạc trưởng Leonard Berstein. Sau khi được nghe bản ghi âm năm 1958 của Leonard Berstein, Stravinsky đã chỉ có thể thốt lên đầy thán phục “Tuyệt vời!” nhưng với bản ghi âm lần đầu tiên vào năm 1964 của Herbert von Karajan, Stravinsky chế giễu “quá ư tao nhã” và còn bình luận thêm: “Tôi nghi ngờ vào lễ tế thần theo phong cách truyền thống của Karajan”. Năm 1940 “Mùa xuân thiêng liêng” đã càng trở nên nổi tiếng khi được hãng Walt Disney đưa vào “Fantasia”, một bộ phim hoạt hình có sử dụng nhạc cổ điển là nhạc nền. Chính “Fantasia” đã góp phần giới thiệu nhạc cổ điển tới mọi người và thậm chí cả định hướng nghề nghiệp. Chính nhạc trưởng nổi tiếng Simon Rattle đã biết đến “Mùa xuân thiêng liêng” qua bộ phim này và nó đã trở thành gợi ý lớn lao cho ông khi lựa chọn con đường âm nhạc.
Một trong những đặc điểm của âm nhạc là có rất nhiều điều chờ đợi trong từng bản nhạc, nhưng điều gì thì ít ai đoán được. Trong điệu nhảy cuối cùng, điệu nhảy của sự hy sinh, giữa cái mãnh liệt và thô tháp không đối xứng, dàn nhạc bất ngờ im lặng. Khán giả hồi hộp chờ đợi điều bất ngờ nào đó sẽ đến. Và bất kỳ lúc nào người ta cũng chờ đợi giai điệu ấy: một, hai, ba theo nhịp đũa của nhạc trưởng. Không một điều nào đem lại sự thanh thản cho người nghe bởi bất cứ lúc nào người ta cũng cảm thấy như trái đất đang sụp đổ dưới chân mình. Ở trang cuối cùng, Stravinsky đã để cho toàn thể dàn nhạc cũng như từng nhạc công chơi càng mạnh mẽ và điều hấp dẫn là khán giả cảm thấy một làn sóng trào dâng bủa vây họ khi cô gái gục xuống sàn diễn.
Trong điệu nhảy cuối cùng, khi cô gái nhảy múa đến chết, có tên gọi là “Chúa xuân”, Stravinsky viết không có thêm một vạch nhịp nào. Ông chỉ viết các nốt nhưng không ghi rõ các nốt được liên kết như thế nào. Trên thực tế, ở phương Tây, giai điệu thường bị chệch khỏi khuôn. Không ai đạt được đến đẳng cấp ấy cả. Và thậm chí sau đó 50 đến 60 năm sau, tác phẩm này vẫn là sự thách thức lớn cho bất kỳ dàn nhạc nào.
Nửa phần đầu của kịch bản múa, cô gái đồng trinh hoàn toàn đứng yên đến phần kết thúc. Trong vòng 15 phút, cô gái không hề cử động trong khi những cô gái khác chạy vòng quanh. Cuối cùng, người đóng vai chính lại là người đem lại sự căng thẳng đáng ngạc nhiên. Một trong những điều người ta học được từ đó là chính sự tĩnh lặng mới là điều căng thẳng nhất. Điều đó bao hàm nhiều ẩn ý về thế giới tự nhiên, nó chứa đựng bao điều dữ dội. Không ai cảm thấy thanh thản khi thưởng thức xong tác phẩm này.
Trong tác phẩm này, Stravinsky không chỉ tiến hành một cuộc cách mạng trong phong cách sáng tác, trong cách xử lý các nhạc cụ, ông còn khoác lên cho dòng nhạc cổ điển một chiếc áo mới khi ông đưa những nhạc cụ rất dân dã – như là đàn thùng quay tay - vào dàn nhạc giao hưởng, nó có một chỗ đứng riêng biệt trong cái thế giới thanh tao và quý phái của dòng nhạc cổ điển truyền thống.
Lại cũng Stravinsky đã phá rào để đưa không khí của ngày hội, của những gánh xiếc rong vào một thế giới rất ngăn nắp và có chọn lọc của những người yêu âm nhạc đầu thế kỷ XX. Ông là một nhà cải cách tiên phong, mở ra một hướng đi mới và tạo ra cả một cuộc cách mạng lớn.