T
chaikovsky sinh ngày 25 tháng 5 năm 1840 ở Votkinsk thuộc Uran trong một gia đình kỹ sư mỏ. Sống trong gia đình quý tộc bậc trung, cậu bé được giáo dục toàn diện, rất yêu thích và có năng khiếu về âm nhạc từ nhỏ. Nhưng bố mẹ không muốn cho con theo con đường nghệ thuật nên gửi Tchaikovsky đến Petersb một dòng giao hưởng mới trong lịch sử giao hưởng Nga. Bên cạnh đó cũng có giao hưởng mang tính chất cảnh trí sinh hoạt như giao hưởng số 1 “Những ước mơ và con đường mùa đông”, “Người thợ rèn Vacula”, vũ kịch “Hồ Thiên Nga”, ba khúc mở màn: “Romeo và Juliét”; “Bão tố” và “Franxétca đa Rêminhi”.
Do căng thẳng trong cuộc sống riêng tư ông sang Ý, Anh, Pháp và những tác phẩm trong thời kỳ này có: Nhạc kịch “Eugene Onegin, Cô gái Orliăng, Madéppa, concerto số 2 cho piano, concerto cho violon...”
Thời kỳ trở về Moscow, ông viết giao hưởng “Mangfrét và giao hưởng số 5”, “nhạc kịch Con đầm pích”, “Người đẹp ngủ trong rừng”, “Xay hạt dẻ”, “Iolanta”.
Một trong những sáng tác đáng chú ý của ông là vở ba lê “Hồ thiên nga”. Với quan niệm, balê cũng là giao hưởng, ông đã thể hiện ý tưởng của mình trong balê, đưa nghệ thuật giải trí lên thành một nghệ thuật trừu tượng, sâu sắc, mang được cả chiều sâu của tư duy.
Vào thời Tchaikovsky sáng tác vở “Hồ thiên nga”, xứ Bavaria thuộc nước Đức bây giờ, có vị vua Lidvig Đệ nhị nổi tiếng lãng mạn, nổi tiếng say mê nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc. Vua Lidvig Đệ nhị đã cho xây một tòa lâu đài thần tiên tuyệt đẹp gọi là lâu đài “Thiên Nga”, đứng trên sườn núi trông ra khu hồ cũng mang tên là hồ Thiên nga hết sức thơ mộng. Tòa lâu đài, khu hồ Thiên nga, vị vua lãng mạn đến khác thường đã gợi lên niềm cảm hứng cho Tchaikovsky sáng tác nên vở “Hồ thiên nga” tuyệt tác, một vở balê bi, trữ tình. Có lẽ vì vậy Tchaikovsky đã quyết định đặt cho hoàng tử nhân vật chính của mình một cái tên Đức, dù Tchaikovsky là người Nga.
“Hồ thiên nga” ra mắt khán giả lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1877. Sau sáu năm trình diễn thì tạm ngưng. Đối với thời kỳ đó, sáu năm cho một vở diễn đã là rất dài, vì nghệ thuật múa vẫn chưa đạt được độ điêu luyện và chưa truyền đạt được hết cái hồn của âm nhạc Tchaikovsky. “Hồ thiên nga chỉ thành danh” và thực sự được biết đến sau khi Tchaikovsky qua đời gần 20 năm sau. Năm 1895, “Hồ thiên nga” được dàn dựng lại và từ đó người ta mới cảm nhận được cái đẹp của nhạc Tchaikovsky, cái hồn lãng mạn của “Hồ thiên nga”, cái dịu dàng, quyến rũ của những vũ điệu balê.
Âm nhạc của Tchaikovsky, trong sâu thẳm vẫn mang đậm sắc thái Nga nhưng cũng thấm nhuần tình yêu của ông đối với Mozart và chịu ảnh hưởng từ những nhà soạn nhạc nổi tiếng ở Tây Âu khác, đặc biệt là âm nhạc Pháp của Bizet và Saint-Saëns. Nhưng như Stravinsky đã từng viết: “Âm nhạc của Tchaikovsky, vốn không thể hiện vẻ đặc trưng chất Nga đối với tất cả mọi người, lại thường sâu sắc âm hưởng Nga hơn so với thể loại âm nhạc từ lâu được quan niệm một cách dễ dãi như là hình ảnh về nét đẹp phong phú của người Moscow. Thể loại nhạc này của Tchaikovsky mang chất thuần Nga chẳng khác gì thơ của Pushkin hay ca khúc của Glinka... Tchaikovsky đã rút ra những vẻ đẹp này một cách vô thức từ những nguồn cảm hứng dân gian và thực tế cuộc sống.”
Từ năm 1869 đến năm 1876, Tchaikovsky đã viết thêm 3 vở opera nữa, và bản concerto cho piano. Ông cũng là nhà phê bình âm nhạc với khá nhiều lời khẳng định gây chấn động như: “Nhạc của Wagner chẳng có ý nghĩa gì với tôi, nhạc của Brahms cũng vậy. Tôi cảm thấy bị chọc tức khi mà sự tự phụ tầm thường đó lại được ghi nhận như một thiên tài. Về Beethoven, tôi thừa nhận sự vĩ đại trong một số tác phẩm của ông, nhưng tôi không sùng bái ông ta.”. Tuy nhiên, theo Tchaikovsky Mozart là “Đức Chúa âm nhạc”.
Trong cuộc đời, Tchaikovsky đã vấp phải một sai lầm tai hại khi cưới một trong những học trò của mình, Antonina Ivanova Miliukova. Tchaikovsky, một người đa cảm quá mức, bất hạnh và luôn giấu kín bệnh đồng tính của mình, hy vọng rằng một cuộc hôn nhân đáng trân trọng với một học trò tôn kính thần tượng sẽ là một giải pháp khả thi cho cảnh ngộ khó khăn. Thật không may, ông đã chọn phải một phụ nữ không thông minh, lại còn mắc chứng cuồng tưởng. Cuộc hôn nhân này kéo dài được 9 tuần, và lên tới đỉnh điểm đổ vỡ khiến Tchaikovsky nghĩ tới việc tự tử bằng cách nhảy xuống sông (để lại cho ông chứng viêm phổi). Modest, người em của ông, cũng bị bệnh đồng tính, đã cứu sống ông và đưa ông về St Peterburg, nơi Tchaikovsky trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần thực sự.
Vào thời gian này, Tchaikovsky đã bắt đầu một mối quan hệ với một góa phụ giàu có, bà Nadejda von Meck, người đã trở thành người bảo trợ cho ông trong 14 năm tiếp sau. Bà lúc đó 46 tuổi, là mẹ của 7 đứa trẻ. Nhưng bà đã đề nghị được trợ cấp cho Tchaikovsky với điều kiện họ không bao giờ gặp nhau. Trong quá trình trao đổi thư từ rất nhiều giữa hai người, bà đã viết: “... Tôi sợ sự giao thiệp với ngài. Tôi muốn nghĩ về ngài từ một khoảng cách xa, để nghe ngài nói trong nhạc của ngài và chia sẻ những xúc cảm của ngài qua đó.” Mỗi khi họ gặp mặt nhau tại một buổi hòa nhạc, hai người chẳng ai nói lời nào và họ quay mặt đi trong bối rối ngại ngùng.
Mối quan hệ bất thường này cùng với những khoản tiền hoa hồng ngày càng nhiều cho phép Tchaikovsky từ bỏ việc dạy nhạc và sống một cuộc đời sung túc, đầy đủ ở một vùng quê yên bình. Tuy nhiên, cuộc sống nơi vắng vẻ cũng không thể làm ông khuây khỏa bớt những tổn thương về xúc cảm, và ông tiếp tục trải qua những cơn đau đầu, thường khiến ông phải vật vã và uống rất nhiều rượu để vượt qua. Trong nhật ký, ông viết: “Đương nhiên, việc lạm dụng rượu là rất có hại. Tôi hoàn toàn đồng ý với điều này. Nhưng tôi, một người đau ốm, luôn bị khủng hoảng thần kinh, hoàn toàn không thể làm được việc gì mà không dùng đến rượu.”
Khi Nadejda chấm dứt mối quan hệ của họ một cách đột ngột vào năm 1890 do các lo ngại của bà về nguy cơ phá sản, Tchaikovsky đã bị tổn thương nặng nề về tinh thần. Bà từ chối trả lời các bức thư của ông và do đó, mọi niềm tin của ông về con người “đã bị đảo lộn.” Tchaikovsky không biết rằng, Nadejda đã phải chịu đựng căn bệnh thần kinh của bà.
Tchaikovsky rời đến New York năm 1891 để tham gia vào các hoạt động khánh thành Nhà hát Carnegie Hall. Nước Mỹ đã quyến rũ ông, nhưng ông đã viết: “Tôi ưa thích tất cả mọi thứ như một người ngồi trước một bàn ăn bày tất cả những tinh hoa của nghệ thuật ẩm thực nhưng thiếu cảm giác ngon miệng.” Năm 1892, ông đã nghe Mahler chỉ huy vở opera “Eugene Onegin” tại Hamburg.
Quay về Nga, Tchaikovsky viết tổ khúc được mến mộ “Nutcracker Suite”, hoàn tất vào năm 1892, và bắt đầu bắt tay vào thực hiện Bản giao hưởng số 6. Tác phẩm cuối cùng mang tên “Pathétique” được coi là tác phẩm mà ông “dành trọn tâm hồn”. Trong vòng 1 tuần sau lần trình diễn đầu tiên tác phẩm này tại St. Petersburg năm 1893, ông đã qua đời, với nguyên nhân được cho là bị nhiễm khuẩn tả do uống nước không đun sôi. Cũng có một số giả định cho rằng có thể ông đã bị đầu độc để ngăn chặn sự bại lộ của một vụ scandal tình dục đồng giới có liên quan đến tầng lớp quý tộc.
Khác với một số đồng nghiệp người Nga cùng thời, Tchaikovsky đã rất cố gắng để tìm ra những hình thái rõ ràng cho tư tưởng của mình. Ba bản giao hưởng cuối cùng là những thành công tột bậc của sự tìm kiếm này, đẩy lên đến cực điểm bằng cách xử lý tuyệt vời và không theo thông lệ trong đoạn kết của Bản giao hưởng số 6 với một phần nhạc chậm được kéo dài, giải tỏa và tiêu tan tất cả những sinh lực của phần nhạc hành khúc nổi bật trước đó.
Tchaikovsky, cùng với Brahms, có lẽ là những nhà soạn nhạc lỗi lạc nhất trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX. Ngoài những bản nhạc giao hưởng và dàn nhạc thính phòng được nhiều người yêu thích như các bản concerto khác nhau dành cho piano, violin và cello, Tchaikovsky còn để lại những vở nhạc kịch bất hủ như: “Romeo và Juliet”, “Khúc dạo đầu 1812”, “Tuỳ hứng Italia”... “Eugene Onegin” và “Con đầm pích”. Các tác phẩm của Tchaikovsky thường được biểu diễn tại các nhà hát, còn các vở ballet “Nàng công chúa ngủ trong rừng”, “Hồ Thiên nga” và “Chiếc kẹp hạt dẻ” đã trở thành một phần không thể thiếu của âm nhạc cổ điển thế giới. Hay nhưng ít nổi tiếng hơn là ba bản tứ tấu đàn dây, bản serenade cho đàn dây, bản Ami Piano Trio, tác phẩm cho độc tấu piano...
Những tìm tòi của Tchaikovsky về nền âm nhạc Nga đã được thể hiện trong vở opera đầu tiên của ông The Voyevoda, bắt đầu viết năm 1867 với phần lời của Ostrovsky. Vở opera này đã được công diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Bolshoi, Moscow vào ngày 11 tháng 2 năm 1869.
Mối liên hệ giữa các nghiên cứu rộng lớn của ông tại nhạc viện St. Peterburg, nguồn gốc một phần không phải người Nga của Tchaikovsky và tầm quan trọng của cô gia sư người Thụy Sĩ thời thơ ấu của ông - Fanny Durbach - đã hướng năng lực sáng tạo của ông theo hướng tân lãng mạn và trung thành với nguyên tắc: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”. Giulio Confalonieri đã nhận xét về âm nhạc của Tchaikovsky: “Chúng ta nhận thấy một sự hiện diện liên tục, một nỗi âu sầu “nữ tính”, một sự suy nhược siết chặt lấy nỗi u uất tinh thần lẫn một dạng mơ hồ của sự chán đời. Chính sự suy nhược và âu sầu này vừa là động lực đằng sau các tác phẩm của ông vừa là một sự thật về thẩm mĩ và con người mà người ta tìm kiếm để truyền đạt. Cái lôi cuốn Tchaikovsky đến với các bài hát Nga và những điệu nhảy được ưa chuộng không phải bắt nguồn từ việc phục hồi lại chủ nghĩa dân tộc mà từ nỗi âu sầu buồn bã, nỗi nuối tiếc của một tâm trạng khi biết một người không thể chơi một trò chơi nào đó, một hình ảnh về những điều tốt đẹp nhưng bị phủ nhận, sự mất mát từ chính lúc khởi đầu bởi sự vận hành của một số phận cá nhân bị xa lánh, khước từ, loại bỏ”.
Tchaikovsky mất ngày 25 - 10 - 1893 ở Peterburg sau một tuần lễ chỉ huy bản giao hưởng cuối cùng của mình.