A
medeo Avogadro sinh ngày 09 tháng 8 năm 1776 tại Turin, Ý. Sinh trưởng trong một gia đình luật gia, Avogadro được đào tạo để trở thành luật sư nhưng lòng ham thích khoa học tự nhiên đã khiến ông đột ngột thay đổi hướng đi của mình. Năm 1806, ông được mời giảng dạy vật lý ở trường Đại học Turin và bắt đầu tiến hành nghiên cứu khoa học có hệ thống. Ông được bổ nhiệm làm giáo sư toán và vật lý cho trường Collège royal de Verceil, giữ chức “Vật lý cao cấp”, chức vụ này đã mở ra cánh cửa cửa để ông thỏa sức nghiên cứu khoa học ở Ðại học bách khoa Turin - nơi ông dạy học cho đến năm 1850.
Những công trình quan trọng của Avogadro đối với sự phát triển những luận điểm cơ bản của hoá học là ba bài báo đăng trong những năm 1811-1821. Trong những bài báo này, ông đã nêu lên kết luận quan trọng về sau trở thành cơ sở cho thuyết nguyên tử-phân tử.
Avogadro là người đầu tiên xác định một cách hệ thống thành phần định tính và định lượng của hợp chất từ tỉ lệ thể tích của các chất khí tạo thành hợp chất đó. Điều này đã cho phép Avogadro xác định chính xác công thức các hợp chất quan trọng như amoniac, nitơ oxit, hydro sunfua, etylen, metan và nhiều chất khác. Avogadro đã viết công thức của nước là H2O, khác với công thức do Dalton đề ra là HO, công thức của khí cacbonic là CO2, thay cho công thức CO đã được công nhận trước kia, công thức của Cacbon (II) oxit là CO thay cho CO2, công thức của mêtan là CH4 thay cho trước kia là CH2, công thức etylen là C2H4 thay cho CH (tất cả các công thức được viết dựa trên cơ sở những quan niệm hiện đại về khối lượng nguyên tử tỉ đối của các nguyên tố khác nhau và dựa trên việc sử dụng các kí hiệu hoá hiện đại.
Avogadro đã phát minh một định luật cho phép xác định các đặc trưng về lượng của các chất ở thể khí, định luật này từ đó được công nhận rộng rãi: những thể tích khí bằng nhau của các chất khí khác nhau chứa cùng số phân tử khí trong những điều kiện nhiệt độ và áp suất như nhau.
Avogadro đã giả định là ngay cả những chất khí đơn giản như nitơ, oxi, hydro đều tồn tại ở dạng phân tử hai nguyên tử như Dalton và sau này Berzelius (I. Berzelius) đã giả định.
Dựa trên cơ sở những lập luận đó Avogadro đã đề nghị một phương pháp đơn giản và tin cậy để xác định tỉ khối của phân tử các chất ở thể khí bằng cách chia tỉ khối của của chất khí cho tỉ khối của hydro làm chuẩn.
Khi đối chiếu khối lượng phân tử các chất khí xác định được bằng phương pháp trên với thành phần của chúng, Avogadro đã tìm ra khối lượng phân tử và khối lượng nguyên tử của oxi, nitơ, cacbon, lưu huỳnh, photpho, clo, gần bằng giá trị hiện nay.
Hai năm sau khi định luật Gay Luxac được phát minh về sự hóa hợp các khí, Avogadro cho in công trình nghiên cứu quan trọng giải nghĩa cho thuyết phân tử khí.
Ông là tác giả của thuyết mang tên ông: “Trong cùng điều kiện về nhiệt độ và áp suất, các khí khác nhau có cùng một thể tích sẽ chứa cùng một số phân tử.” Ðịnh luật này được thế giới công nhận năm 1850.
Trong lịch sử hóa học, sự phát triển tiếp theo của thuyết phân tử của Avogadro ở nửa sau thế kỷ XIX đã dẫn đến sự phát biểu rõ ràng của một trong số những khái niệm quan trọng nhất của hóa học: nguyên tử, phân tử, đương lượng.
Xung quanh cuộc đời ông có nhiều giai thoại, đặc biệt là giai thoại khẳng định sự quan trọng của hóa học so với toán học của ông. Chuyện kể rằng, một hôm, nhà toán học Đức - Karl Gauss tranh luận với nhà hóa học Ý - Avogadro. Ông Gauss tỏ ra khinh thường hóa học và cho rằng chỉ có toán học mới có các định luật, còn hóa học chỉ là môn phục vụ cho toán học mà thôi.
Avogadro dẫn Gauss vào phòng thí nghiệm và tự mình làm phản ứng: cho một thể tích O2 tác dụng với hai thể tích H2 để tạo thành hai thể tích H2O ở dạng hơi:
2H2 (k) + O2 (k) → 2H2O (h)
Tiếp đó nhà hóa học mỉm cười bảo nhà toán học:
- Ngài thấy chưa? Nếu hóa học đã muốn thì toán học phải chào thua. Hai cộng một, bất chấp toán học cũng vẫn chỉ là hai thôi đấy.