• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Danh nhân hóa học
  3. Trang 18

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 48
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 48
  • Sau

Nhà hóa học của những nghiên cứu quan trọng

H

ans Fischer sinh tại Höchst on Main. Cha là Dr. Eugen Fischer – giám đốc hãng Kalle & Co ở Wiesbaden kiêm phụ trách ở trường Cao đẳng Kỹ thuật Stuttgart, mẹ là Anna Herdegen.

Ông học tiểu học ở Stuttgart, rồi học trung học ở Wiesbaden, tốt nghiệp năm 1899. Sau đó ông học hóa học và y học, ban đầu ở Đại học Lausanne rồi Đại học Marburg. Ông tốt nghiệp cử nhân năm 1904 và nhận bằng tiến sĩ y khoa năm 1908.

Ban đầu, ông làm việc ở một bệnh xá ở München, sau đó ở Viện Hóa học Berlin thứ nhất (First Berlin Chemical Institute) dưới sự lãnh đạo của Emil Fischer.

Năm 1911, Fischer trở lại München và một năm sau làm giảng viên về khoa nội (y học). Năm 1913 ông làm giảng viên khoa sinh lý học ở Viện Sinh lý München. Năm 1916 ông trở thành giáo sư môn Hóa Y (Medical Chemistry) ở Đại học Innsbruck rồi chuyển sang Đại học Wien năm 1918.

Từ năm 1921 tới khi qua đời, ông đảm nhiệm chức giáo sư môn hóa học hữu cơ ở Đại học Kỹ thuật München. Công trình khoa học chủ yếu của Fischer liên quan tới việc nghiên cứu về sắc tố trong máu, mật và chất diệp lục ở lá cây, cũng như về hóa học của pyrrole từ đó xuất ra các sắc tố.

Ông đã tổng hợp (1922) chlorin và các hợp chất pyrrol khác, thực hiện tổng hợp porfirin (1927) và bilirubin (1931), giải mã cấu tạo của chlorophyl a (1939) và b (1940). Ngoài ra, ông còn chứng minh (1929) hemoglobin của máu gồm protein - globin và phức sắt - he min.

Fischer nhận được nhiều giải thưởng, đặc biệt là giải Nobel Hóa học năm 1930 cho công trình này. Để ghi nhớ công của ông đối với hóa học, năm 1976 hố trên Mặt trăng được đặt tên là Fischer.

Đáng tiếc là Fischer đã tự sát ở München sau khi công trình và viện (nơi ông làm việc) bị phá hủy trong những ngày cuối cùng của Thế chiến thứ hai.