C
ézanne sinh ngày 19 tháng 1 năm 1839, là con trai một chủ ngân hàng giàu có. Người đồng hành với ông thuở thiếu thời là Émile Zola, sau này trở thành tiểu thuyết gia nổi tiếng. Giống như bạn, Paul bộc lộ năng khiếu nghệ thuật từ rất sớm, điều này làm cha của ông vô cùng thất vọng. Năm 1862, sau hàng loạt những cuộc tranh cãi không đầu không cuối với gia đình, họa sĩ đã khăn gói lên đường sang Paris du học với chút vốn liếng ít ỏi gia đình dành cho.
Thời kỳ đầu, Cézanne thường vẽ với tông màu tối và đường nét đậm, thể hiện tâm trạng, sự lãng mạn của những thế hệ trước. Nhưng dần dần, ông đã vẽ sát với hiện thực hơn, không quá coi trọng những nguyên tắc cơ bản về bố cục cũng như màu sắc. Ông tiếp cận với phong cách ấn tượng qua cách thể hiện ánh sáng ngoài trời, chứ không bó gọn trong khung cảnh của phòng. Nhờ thế, những bức họa về trang trại và nông thôn hiện lên rất rực rỡ, trong sáng ở tác phẩm của ông.
Khoảng thời gian từ 1874 đến 1877, trường phái Ấn tượng không gặt hái thành công về mặt thương mại, vì thế, họa sĩ rời bỏ Paris trở về quê nhà AixenProvence năm 80 và không lâu sau, được thừa hưởng toàn bộ gia sản. Từ đó, ông trở nên độc lập về mặt tài chính, đồng thời cắt bỏ các mối quan hệ của mình để tập trung sáng tác. Tuy nhiên, ông gần như không bao giờ hài lòng với nỗ lực của mình. Các tác phẩm của Cézanne thường không hoàn chỉnh hoặc bị chính họa sĩ huỷ bỏ.
Năm 1861 Cézanne theo người bạn thời thơ ấu là Emile Zola ngược lên miền Bắc, gặp Renoir và Pissarro nhưng ngay lập tức tách ra khỏi các nghệ sĩ ấn tượng. Trong tác phẩm “La Rue des Saules Montmartre”, sáng tác năm ông 28 tuổi, những ngôi nhà nằm trên một con đường tỉnh lẻ trong tác phẩm đã có hơi hướng lập thể, màu sắc bị chặn lại, bố cục chủ yếu là một vỉa hè rộng màu xám, và những đám mây xám.
Một thập kỷ sau đó, trong tác phẩm “Les Toits de Paris”, Cézanne vẽ lại quang cảnh nhìn từ studio tầng Năm của ông ở Montparnasse với ba dải ngang rõ rệt để tạo ra ấn tượng chiều sâu không gian: một mái nhà màu kẽm to lớn ngay trước mắt, sau đó là một loạt mái đỏ, xen kẽ mái trắng, beige và hạt dẻ; cuối cùng là một bầu trời nặng nề. Với Cézanne, kinh đô ánh sáng hồi thế kỷ XIX thật ảm đạm, khác hoàn toàn với sự lấp lánh trong tác phẩm Monet hay Pissarro với một Paris nhộn nhịp trên những cây cầu và các đại lộ.
Những hình ảnh Paris tĩnh lặng không người của Cézanne đem tới triển lãm gây cho người xem nhiều ngạc nhiên vì bức tranh nào cũng là một tuyệt tác. Gốc gác của các tác phẩm cũng ngạc nhiên và thú vị không kém: chúng đến từ những bộ sưu tập của nhà Havemeyers, nhà Morozov ở Nga, những nhà sưu tập thời đầu của Pháp như Théodore Duret và Victor Chocquet. Hầu hết những tác phẩm ở đây được mua lại từ nhà buôn Ambroise Vollard. Chính hình ảnh Vollard xuất hiện khá nhiều trong các bức chân dung. Rồi Zola, Pissarro, và một chân dung đầy màu sắc khác thường của Chocquet hòa lẫn với cơ man nào là thảm, tranh và các bức khắc.
Vollard ngồi mẫu 115 lần cho một bức chân dung mà Cézanne chưa bao giờ coi là hoàn tất. Mọi thứ tạo nên bề mặt động của tác phẩm: bộ vét gấp lại, môi mím chặt, mắt nhìn xuống… khiến tác phẩm thể hiện sâu sắc nội tâm và sự suy tư, phần nào gợi lên sự nặng nề trong mối quan hệ giữa nhà buôn và nghệ sĩ, với những điểm nhấn tinh tế trên các đốt ngón tay, trên chân mày rậm của Vollard nhấn mạnh đến sự tập trung và căng thẳng.
Cézanne cho ra mắt tác phẩm “La maison du pendu” tại triển lãm Ấn tượng đầu tiên và theo sau đó là tác phẩm cấp tiến Quartier Four, Auvers-sur-Oise: những ngôi nhà lấp ló sau tường đất đỏ được xử lý bằng những nét cọ dày, chắc và đóng khung với những cái cây kiểu ấn tượng, nhẹ nhàng hơn, trong một bố cục không có một điểm nhấn và một bề mặt tranh phẳng lì. Đây chính là việc bóc tách phong cảnh ra thành những yếu tố cơ bản về hình dáng và màu sắc mà Cézanne muốn làm, với những trải nghiệm được thực hiện một mình để biến Chủ nghĩa ấn tượng thành “một thứ gì đó vững chắc và lâu dài như nghệ thuật trong các bảo tàng”.
Hai trong số những bức tranh phong cảnh nổi bật đó chính là: tác phẩm kiến trúc “Bờ sông Marne từ St Petersburg”, với hàng cây đóng khung một villa ven sông, bóng của villa như một tấm gương đông đá, hơn là những hiệu ứng lung linh điển hình của chủ nghĩa ấn tượng, và bức “Rochers à Fontainebleau” với một đám đá vặn vẹo, cùng hang động, những thân cây nghiêng mọc ra, với kiểu lá chấm phá hư ảo - một bức tranh mà Meyer Shapiro từng gọi là “cái nhìn của ẩn sĩ trong vô vọng”.
Có thể nói, trong các sáng tác nghệ thuật của mình, Cezanne đã diễn tả hành trình giữa truyền thống và hiện đại, ca ngợi sự cô đơn và tình bằng hữu, ca ngợi Paris và Aix, một hành trình mà Cézanne dùng để chuyển hóa lịch sử nghệ thuật. Ông qua đời tại Aix năm 1906, triển lãm kỷ niệm 1907 ở Paris của ông đã định hình lại chủ nghĩa lập thể - một phong trào nghệ thuật đưa Paris lên tầm thủ đô nghệ thuật thế giới trong nửa thế kỷ sau đó.