P
ablo Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Tên đầy đủ của ông là Pablo Diego José Francisco de Paula Juan Nepomuceno María de los Remedios Cipriano de la Santísima Trinidad Clito Ruiz y Picasso. Picasso được xem là một trong những nghệ sĩ nổi bật nhất của thế kỷ, ông cùng với Georges Braque là hai người sáng lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc.
Ông là một người khá đặc biệt, cả về đời tư và phong cách sáng tác. Ông có quá nhiều người tình và phong cách sáng tác của ông không thuần nhất, luôn thay đổi và mỗi lần thay đổi như vậy, ông lại tìm thấy những điều mới mẻ. Các phát hiện của ông ảnh hưởng khá lớn đến nhiều họa sĩ thế kỷ XX.
Pablo Picasso sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881 tại Málaga, Tây Ban Nha, là con của ông Jose Ruiz Blasco và bà Maria Picasso Lopez. Cha ông giảng dạy môn hội họa tại La Coruna và Picasso được ông dạy vẽ từ khi mới 10 tuổi. Tài năng thiên phú đã cho phép Pablo làm nhiều thí nghiệm về các điều học hỏi rồi phát triển các cách diễn tả mới bằng các bức họa. Thấy con trai say mê hội họa, ông Blasco đã dành cho cậu các phương tiện hội họa, các người mẫu và giúp con thể hiện tài năng. Nhờ thế, các tác phẩm đầu tiên của Pablo đã xuất hiện trong cuộc triển lãm khi cậu mới 13 tuổi.
Mùa thu năm 1895, gia đình Blasco dọn tới Barcelona, Pablo theo học tại Hàn lâm Viện nghệ thuật La Llotja và tại nơi này, ông Blasco đảm nhận chức vụ giảng dạy hội họa lần cuối. Sống tại thành phố lớn thứ hai của Tây Ban Nha và theo học Viện nghệ thuật, Pablo đã sớm được công nhận là một họa sĩ trẻ có tài năm 1897, bức họa “Khoa học và Từ thiện” (Science and Charity) của Pablo đã đoạt giải thưởng danh dự tại Maldrid trong một cuộc triển lãm mỹ thuật. Cũng thời gian này, Pablo theo học Hàn lâm Viện Hoàng gia tại San Fernando song nhận thấy cách giảng dạy tại đây tầm thường, Pablo đã dành thời giờ ghi lại đời sống chung quanh bằng các bức họa mô tả quang cảnh đường phố, các nhân vật trong các quán cà phê, các nhà chứa.
Khi tới thủ đô Madrid, Pablo có nhiều dịp thăm viếng các viện bảo tàng, suy ngẫm về các bức họa nổi danh của Velazquez, El Greco, Goya… Sau này các nhân vật của các họa sĩ cổ điển Tây Ban Nha đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Picasso nhưng dưới các hình thức khác.
Mùa xuân năm 1898, Pablo bị bệnh, phải điều dưỡng vài tháng tại làng Horta de Ebro, khi trở lại Barcelona đầu năm 1899, Pablo đã trở thành một con người mới, biết nói tiếng Catalan và đoạn tuyệt với cách huấn luyện của trường hội họa và các chương trình do gia đình đặt ra. Cũng từ đây, Pablo quyết định dùng tên mẹ để ký trên các tác phẩm là P. R. Picasso để rồi tới năm 1901, lại bỏ luôn chữ giữa là Ruiz, họ của cha.
Tại Barcelona, Pablo gia nhập nhóm các nghệ sĩ Catalan, những người hướng về thành phố Paris là kinh đô nghệ thuật. Họ thường tụ họp tại quán cà phê Els Quatre Gats (4 con mèo), với lối sinh hoạt và trang trí rập khuôn theo quán “Con mèo đen “ của thành phố Paris. Chính tại quán nghệ sĩ này, Pablo đã trưng bày các tác phẩm lần thứ nhất vào tháng 2 năm 1900 với hơn 50 chân dung, diễn tả bằng các phương tiện khác nhau. Cũng trong một kỳ triển lãm tại Barcelona, tác phẩm “Thời khắc cuối cùng“ (Last Moments) với sắc độ tăm tối, u ám, mô tả sự viếng thăm của một tu sĩ bên giường một người đàn bà hấp hối, đã được chấp nhận vào nhóm họa phẩm Tây Ban Nha trưng bày trong cuộc triển lãm Quốc tế tại Paris năm 1900. Lòng ham muốn được hiểu biết về trải nghiệm về phẩm hội họa, Pablo cùng một người bạn học tên là Carles Casagemas qua Pháp, cư ngụ tại xóm Montmartre, thuộc thành phố Paris.
Một trong những khám phá đầu tiên của Pablo Picasso trong lần cư ngụ tại Paris từ tháng 10 tới tháng 12 là “màu sắc“, không phải các màu vàng, các màu nâu của phong cảnh Tây Ban Nha, không phải màu đen của chiếc khăn mỏng trùm trên đầu các phụ nữ mà là các màu sắc rực rỡ, màu vàng của Van Gogh, màu sắc đặc biệt của một thành phố đang cử hành cuộc hội chợ quốc tế. Picasso đã dùng than, phấn, màu nước, màu dầu ghi lại lối sống ở thủ đô nước Pháp như họa phẩm “Các tình nhân trên đường phố” (Lovers in the Street - 1900). Picasso đã thử nghiệm lối vẽ chấm nét (dotted style) của trường phái Ấn tượng (Impressionism) và đã bị ảnh hưởng bởi các họa sĩ T. A. Steilen người Thụy Sĩ, Toulouse - Lautrec, họa sĩ hậu Ấn tượng người Pháp và Isidre Nonell, một người bạn họa sĩ nhiều tuổi hơn và có tài năng từ Barcelona. Tác phẩm quan trọng nhất trong thời kỳ này của Picasso là bức họa “Sàn quay Galette.”
Năm 1900, Picasso bán được ba tác phẩm hội họa nhỏ, vẽ cảnh đấu bò rừng, hai bức sơn dầu, một bức bột màu cho Berthe Weill, lấy 100 đồng franc vàng. Một người cùng xứ tên là Petro Manach đã đề nghị trả mỗi tháng cho Picasso 150 đồng franc vàng để đổi lấy các sáng tác của ông. Đây không phải là một số tiền lớn nhưng đối với tuổi của Picasso lúc bấy giờ ở một xứ sở xa lạ, với giá sinh hoạt thời đó, thì món tiền đó rất đáng kể.
Sau hai tháng sống tại Paris, Picasso trở về Tây Ban Nha với Casagemas rồi tới Madrid, làm giám đốc mỹ thuật cho một tờ báo mới có tên là Arte Joven. Cũng vào lúc này, Casagemas đã trở lại Paris với ý định bắn chết người yêu nhưng không thành, nên đã quay súng vào đầu mình, tự sát. Sự việc này ảnh hưởng khá nhiều tới Picasso, có lẽ vì ân hận đã bỏ rơi một người bạn, ông xúc động mạnh. Vài tháng sau ông đã vẽ “Chân dung chết của Casagemas cũng như hai cảnh đám tang”.
Trong cuộc đời làm nghệ thuật của Picasso, các nhà nghiên cứu tạm chia làm 5 giai đoạn, tương ứng với phong cách và các tác phẩm của ông.
Thời gian từ 1901 tới giữa năm 1904, khoảng thời gian ngắn hơn 3 năm là giai đoạn Picasso sáng tác bằng “màu xanh“, một màu áp đảo trong các tác phẩm hội họa và màu xanh thường được coi là màu phản ánh các hoàn cảnh vật chất của Picasso thời bấy giờ.
Thời kỳ xanh của Picasso có lẽ bắt đầu khi họa sĩ sống tại Madrid từ tháng 2 tới tháng 4 năm 1901, khi Picasso khởi đầu bằng màu lạnh, đặc biệt với các sắc lục (green) và sắc xanh (blue tones) như trong các tác phẩm “Người đàn bà mặc áo xanh“ (Woman in Blue), ký tên P. Ruiz Picasso, và “Bà áo xanh“ (Lady in Blue), ký tên Picasso. Vào thời kỳ này, các chủ đề và đường hướng vẽ khác hẳn với những thứ tương tự vài tháng sau. Picasso thường hay vẽ các cô gái làng chơi đội chiếc mũ rộng vành. Vào đầu thời kỳ xanh, Picasso đã tiến vào môi trường hội họa như là một nghệ sĩ thiên về đường nét và cấu trúc hơn là thiên về màu sắc, ông đã phát triển tài năng qua việc dùng nhiều sắc độ của một thể màu.
Màu nóng là đặc trưng cho các bức họa của miền bắc Âu trong khi các họa sĩ miền nam trong đó có họa sĩ Tây Ban Nha, lại ưa dùng màu lạnh. Mặc dù sống tại Paris, Picasso vẫn tưởng nhớ tới Málaga với biển xanh, với mặt trời đỏ và khí hậu ấm áp còn Paris chỉ được ông xem là nơi học hỏi và làm việc, là ngã tư đường của các tư tưởng mới.
Picasso đã qua lại giữa Barcelona và Paris, mang theo chất liệu để sáng tác. Vào tháng 4 năm 1901, Picasso cho trưng bày các họa phẩm bằng phấn tiên trong cuộc triển lãm của riêng ông tại Sala Parés ở Barcelona và vào tháng 6 năm đó, phòng triển lãm Ambroise Vollard tại Paris cũng trình bày 64 họa phẩm của Picasso cùng các tác phẩm của Francisco Iturrino, một họa sĩ người vùng Basque và kể từ lúc này, Pablo Picasso chỉ ký tên là Picasso mà không là P. Ruiz Picasso.
Các cuộc triển lãm kể trên rất thành công, số tranh bán được khá nhiều.
Khi thăm viếng nhà tù Saint Lazare tại Paris trong những năm 1901 đến 1902, Picasso đã vẽ các phụ nữ tội phạm như tác phẩm “Tô súp“ (the Soup - 1902). Tại Barcelona trong các năm 1901 đến 1903, họa sĩ đã mô tả những người ăn xin mù lòa, cô đơn, những kẻ lang bạt.
Cuối cùng Picasso quyết định chuyển qua sống tại Paris vào mùa xuân năm 1904 và từ đó, các tác phẩm của ông đã bộc lộ sự thay đổi về tinh thần, đặc biệt, thay đổi về đường hướng nghệ thuật. Picasso cùng một người bạn mới, thi sĩ Guillaume Apollinaire, quan tâm tới những gánh xiếc dạo, những người làm trò và đây là những đề tài trong các tác phẩm “Thiếu nữ giữ thăng bằng trên trái banh“ (Girl balancing on a Ball - 1905), “Người diễn viên“ (the Actor -1905).
Ảnh hưởng từ chính cuộc sống tình cảm, Picasso đã dùng màu Xanh để diễn tả sự bi quan của ông vào cuối thế kỷ, thời kỳ u ám sống với thiếu thốn, đói khát và lạnh giá tại một nơi xa quê hương ấm áp.
Năm 1904, hoàn cảnh của Picasso đã thay đổi, nhất là khi Fernande Olivier trở thành người tình của họa sĩ. Cũng thời gian này, Picasso có những người bạn thân như Max Jacob, Gertrude và Leo Stein, nhất là Georges Braque mà sau này đã cùng Picasso khởi đầu một lối vẽ cấp tiến trong thế kỷ XX - Lập thể. Sự có mặt của nàng Fernande Olivier đã gợi hứng cho họa sĩ vẽ các tác phẩm “Người đàn bà với các ổ bánh”, “Đầu một người đàn bà” và “Người đàn bà với các trái lê”.
Cuối năm 1904, các sắc độ xanh trong tác phẩm của Picasso được thay thế bằng màu hồng, nâu và nâu đất. Đây là “Thời kỳ hồng“ với các đề tài di chuyển từ những quán cà phê, quán nhậu sang những người hát dạo, những kẻ làm xiếc của miền quê, những con người sinh hoạt trên mọi nẻo đường với cách diễn tả khách quan hơn. Tác phẩm gây ấn tượng nhất với thể loại màu mới, nhẹ nhàng là bức tranh “Gia đình người làm xiếc” trong đó từng nhân vật, được đặt trong một khung cảnh thưa thớt, đủ nói lên nỗi cô đơn của họ. Cũng thời gian này, do nghiên cứu về ngành điêu khắc cổ sơ của bán đảo Iberian, Picasso đã phát triển ảnh hưởng đó bằng các tác phẩm “Chân dung của Gertrude Stein” và “Chân dung tự họa”.
Cuối năm 1906, một loại bố cục mới được Picasso tạo ra. Do ảnh hưởng của việc nghiên cứu nghệ thuật châu Phi, Picasso đã tạo nên một tác phẩm mang tính tranh luận bằng cách vẽ mặt các nhân vật giống như những chiếc mặt nạ và thân hình phụ nữ được mô tả bằng các hình góc cạnh: họa phẩm “Các cô gái Avignon”. Đây là hình ảnh các gái điếm của đường phố Avignon thuộc thành phố Barcelona, mô tả khỏa thân, phần che khuất đã được biến thể bằng cách đơn giản hóa. Qua họa phẩm này, người ta đã thấy Picasso chịu ảnh hưởng của El Greco, đường lối điêu khắc của bán đảo Iberian và châu Phi, và cách trình bày không gian của Paul Cezanne. Họa phẩm “Các cô gái” (Desmoiselles) đã thể hiện những điều căn bản của trường phái lập thể (Cubism).
Từ 1909, Picasso nổi danh là một họa sĩ tài năng tại Paris và châu Âu. Ông dọn nhà từ khu phố nghèo Bateau Lavoir về ở nơi tiện nghi là khu vực Boulevard de Clichy và thường đi nghỉ hè tại xứ Provence hay Tây Ban Nha. Trong các năm từ 1909 tới 1912, Picasso đã cùng với Georges Braque khai triển một trường phái hội họa mới, được gọi tên là “Lập thể phân tích“ (Analytical Cubism).
Những họa sĩ lập thể ban đầu bị chỉ trích về thứ nghệ thuật hình học của họ nhưng thực ra, những người theo đường lối hội họa mới này đã trình bày một loại thực tế mới, khác hẳn với truyền thống cũ của thời Phục hưng, đặc biệt là về hai phạm vi phối cảnh và ảo ảnh, chẳng hạn họ đã khai thác nhiều diện của một đề tài trên cùng một khung vải để diễn tả nhiều ý tưởng hơn là chỉ dùng một diện đơn thuần, bị giới hạn.
Lối vẽ lập thể như vậy đã mở toang hình thức đóng kín bằng cách trình bày lại, cho thấy vị trí của nhân vật trong không gian, phương thức phân tích chia cắt không gian, ánh sáng và bóng tối, thậm chí ngay cả màu sắc. Hầu như Picasso và Braque đều nhận thấy rằng trong việc diễn tả một họa phẩm, họ đã dùng nhiều điểm nhìn khác nhau, các trục xoay khác nhau, các nguồn sáng khác nhau… Họa phẩm của Picasso tượng trưng cho cách vẽ này là bức tranh “Nhà máy”. Năm 1910 ông còn có một loạt các chân dung của Ambroise Vollare, Daniel-Henry Hahnweiler-1910. Trong tác phẩm “Nhạc sĩ phong cầm”, Picasso đã pha trộn các hình thể, đề tài và không gian, dùng màu sắc đơn gồm các màu nâu, xám và màu đất. Cũng trong cách trình bày Lập thể, luật phối cảnh cổ điển lùi ra xa đã được diễn tả bằng cách đưa gần lại.
Vào năm 1912, Picasso và Braque bắt đầu khai phá nghệ thuật cắt dán (collage) bằng các chất liệu vải, giấy báo và giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật và chân dung. Tác phẩm “Tĩnh vật với chiếc ghế mây” là sự phối hợp của sơn dầu và vải dầu, qua tác phẩm, Picasso đã để cho thực tế và ảo tưởng đối chọi nhau trong mối liên quan lỏng lẻo. Đây là giai đoạn tổng hợp (synthetic phase, 1912 đến 1914) qua đó các màu sắc gắn với bố cục, chẳng hạn đường cong tượng trưng cho cây đàn guitare hay cái tai nghe nhạc, với ngụ ý một đồ vật có thể ám chỉ một ý tưởng hay một đồ vật khác… chẳng hạn họa phẩm “Người sinh viên với cây sáo” (1913). Tác phẩm “Ly rượu absinthe” (1914) gồm một phần điêu khắc, một phần cắt dán và một phần vẽ, biểu hiện sự thực và sự ảo.
Năm 1915, người yêu Eva của Picasso qua đời nên các họa phẩm mà ông vẽ lúc người tình đau ốm như “Người Hề” (1915) đã diễn tả sự đau buồn bằng hình ảnh của nhân vật nửa hề, nửa nghệ sĩ Pierrot trên một hậu cảnh đen chưa hoàn tất.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến các nghệ sĩ trong nhóm Picasso không còn đông như trước, Apollinaire và Braque cùng vài người khác ra trận tuyến, các nghệ sĩ Tây Ban Nha trở về xứ sở của họ còn Picasso ở lại Pháp cho tới năm 1916, họa sĩ thường gặp nhà soạn nhạc Erik Satie. Nhóm nghệ sĩ tài năng vào lúc này còn có thêm thi sĩ trẻ tuổi Jean Cocteau, người dàn dựng các tiết mục vũ Ballet người Nga Sergey Diaghilev, người thực hiện chương trình sân khấu Parade. Jean Cocteau tới với Satie vì âm nhạc và với Picasso vì các bộ y phục sân khấu. Mặc dù không thích đi du lịch, Picasso cũng theo Jean Cocteau tới Rome, thảo luận với Diaghilev và nhà biên đạo múa Léonide Massine. Chính lúc này, Picasso đã gặp người vợ tương lai trong số các nữ vũ công cô là Olga Kokhlova.
Sau chuyến viếng thăm Địa Trung Hải và sau lần trở về Barcelona năm 1917, các tác phẩm của Picasso phản ánh việc xét lại lối vẽ của Ingres và của Renoir, với các mặt phẳng, màu sắc và hình thể gồm các biểu hiện cổ điển, như họa phẩm “Tĩnh vật St. Raphael” (1919) hay họa phẩm “Ba nhạc sĩ” (1921). Thời kỳ này, Picasso cũng gặp gỡ các nghệ sĩ danh tiếng như Tristan Tzara, các thi sĩ Paul Eluard và Louis Aragon, cùng nhiều nhân vật khác như Giorgio de Chirico, Max Ernst, Joan Miró và Man Ray.
Năm 1921, Paulo, người con chính thức duy nhất của Picasso ra đời và từ năm này, Picasso tiếp tục cộng tác với Jean Cocteau, Igor Stravinsky, De Fallas, nhóm Vũ Ballet Nga và nhóm vũ nhạc của Erik Satie, đồng thời ông cũng liên lạc với André Breton, người quảng bá phong trào Siêu thực, một phong trào nghệ thuật quan trọng giữa hai thế chiến. Mặc dù không chính thức gia nhập phong trào Siêu thực, họa phẩm “Ba vũ công” (1925) của Picasso đã thể hiện sự thay đổi trong việc diễn tả ba người đàn bà trong điệu nhẩy cuồng loạn.
Các tác phẩm của Picasso trong những năm 1920 và 1930 diễn tả những hình người bị bóp méo, chẳng hạn tác phẩm “Người đàn bà trong ghế bành” (1929), “Người ngồi tắm nắng” (Seated Bather - 1930). Các tác phẩm điêu khắc thời kỳ này của Picasso gồm các hình biến tính bằng đồng, các kiến trúc hình học bằng thanh sắt và lá sắt, do ông chịu ảnh hưởng của nhà điêu khắc Julio Gonzáles.
Cuộc sống riêng tư của Pablo Picasso lâm vào ngõ cụt giữa thập kỷ 1930 khiến cho sáng tác của ông suy giảm. Việc ly thân với Olga năm 1935 do mối quan hệ của ông với người mẫu tóc vàng hấp dẫn Marie Thérèse Walter, rồi sự xuất hiện trong đời sống của Picasso nhà nữ nhiếp ảnh Dora Maar dẫn đến sự ra đời các họa phẩm “Người thiếu nữ trước gương” (1932) và “Người đàn bà đang khóc” (1937).
Cuộc nội chiến Tây Ban Nha năm 1936 đã gây nên trong Picasso lòng ái quốc và tinh thần đã thúc đẩy ông sáng tác nhân đạo, qua một loạt tác phẩm “Giấc mơ và lời nói dối của Franco” (1937) và “Guernica”, bức họa lớn, mô tả một thành phố miền Basque của Tây Ban Nha bị lực lượng của tướng Franco dội bom. Guernica là tác phẩm hội họa lớn diễn tả thảm cảnh bạo lực, nỗi hãi hùng của người và ngựa hấp hối, cảnh người mẹ la hét và con thơ bị giết, nói chung, bức tranh đã lên án sự tàn phá đời sống của con người một cách tàn nhẫn, hình ảnh con bò rừng là biểu tượng của chế độ phát xít. Picasso đã vẽ tác phẩm này, với kích thước 3,49 x 7,77 mét và cho Viện mỹ thuật thành phố New York mượn, tới khi Tây Ban Nha trở thành một nước Cộng hòa và sau 44 năm, vào tháng 9/1981, bức họa lừng danh Guernica mới được trả về cho Viện bảo tàng Padro ở Madrid.
Năm 1944, thành phố Paris được giải phóng khỏi quân đội Quốc xã Đức. Picasso vẫn ở Paris và hoàn thành tác phẩm điêu khắc bằng đồng “Người đàn ông với con cừu”, phản ánh nền điêu khắc cổ Hy Lạp. Trong cuộc triển lãm mùa thu năm 1944 , các tác phẩm hội họa và điêu khắc của Picasso trong 5 năm qua đã khiến người xem sững sờ, kể cả lời công bố ông đã tham gia đảng Cộng sản, sự kiện này khiến một số người biểu tình phản đối ngay tại phòng triển lãm.
Quan điểm của Picasso về chính trị khiến ông bị mang tiếng là người ngây thơ về lý tưởng. Cũng thời gian này, Picasso mở rộng cơ xưởng, đón tiếp các bạn bè cũ và mới, gồm các nhà văn và nghệ sĩ như Jean Paul Satre, Eluard, Pierre Reverdy, nghệ sĩ người Anh Roland Penrose, nhà nhiếp ảnh người Pháp Brassai, nhiếp ảnh gia Hoa Kỳ Lee Miller cũng như các nghệ sĩ không nổi danh khác. Picasso cũng tự nguyện đóng góp các trang trí cho các tổ chức quốc tế và hình ảnh con chim bồ câu trắng của ông đã được dùng làm bích chương của Đại hội Hòa bình thế giới tổ chức tại Wroclaw, Ba Lan, năm 1949.
Từ năm 1943, nữ họa sĩ trẻ Francoise Gilot đã tới làm việc tại xưởng vẽ của Picasso và vài tháng sau, đã thay thế Dora Maar, trở thành người tình của họa sĩ. Picasso cùng Gilot dọn nhà qua Địa Trung Hải và hai người con của họ đã ra đời: Claude sinh năm 1947 và Paloma năm 1949. Tại Antibes, Picasso làm việc trong 4 tháng ở lâu đài Grimaldi để vẽ tác phẩm “Vui sống” (1946) và các tác phẩm khác cùng các đồ gốm mỹ thuật của ông được trưng bày gần thị trấn đồ gốm Vallauris đầu năm 1947, phản ánh các truyền thống cổ điển và nguồn cội của Địa Trung Hải.
Cũng vào thời kỳ này, trong các tác phẩm của Picasso, hình ảnh các loại thần linh mình dê và mình ngựa tượng trưng cho những điều hạnh phúc khi Picasso cùng vui sống với Gilot. Picasso đã hoàn thành tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình” (1952) cùng nhiều bức chân dung của Francoise.
Năm 1952, Francoise bỏ Picasso và một người đẹp khác trở thành người đàn bà cuối cùng gợi cảm hứng sáng tác cho danh họa là Jacqueline Roque. Hai người đã ở trong nhiều biệt thự khác nhau tại Cannes, Aix-en-Provence… Sau khi Olga - người vợ ông không li dị qua đời năm 1955, Picasso đã cưới Jacqueline năm 1961 và sống tại Mougins, phần núi phía bắc tỉnh Cannes. Jacqueline không những trở thành người bạn đời mà còn là “nàng thơ” của nhà danh họa, là người mẫu chính và nguồn cảm hứng trong các họa phẩm cuối đời của ông. Picasso qua đời ngày 8 tháng 4 năm 1973 tại Mougins, nước Pháp, được chôn cất trong lâu đài Vauvenargues, một biệt thự mà ông đã mua năm 1958.
Trong thế kỷ XX, hầu như mọi họa sĩ đều chịu ảnh hưởng của Pablo Picasso. Khác với các danh họa Braque và Matisse - những người duy trì lối vẽ được khai triển từ lúc trẻ, Picasso luôn luôn đổi mới, do đó các khám phá và sáng tạo của ông, từ tác phẩm “Các cô gái“ năm 1907 đến các công trình điêu khắc về sau, luôn mang tính cấp tiến, gây tranh luận, tạo nhiều hiểu lầm và chỉ trích.
Từ năm 1920, Pablo Picasso đã bán được rất nhiều họa phẩm với giá cao, nhưng ông cũng giữ lại được một bộ sưu tập đáng kể. Các công trình nghệ thuật của Pablo Picasso gồm hơn 50.000 sáng tác thuộc nhiều loại, từ sơn dầu tới đồ gốm và điêu khắc, đã chứng minh sức làm việc và sự sáng tạo mãnh liệt của ông suốt 80 năm, đồng thời tạo được ảnh hưởng sâu đậm tới thế hệ các họa sĩ trẻ.
Picasso đã dành cả cuộc đời mình cho nghệ thuật. Ông sáng tác bằng chính những ảo ảnh của mình và làm việc say mê cho đến khi qua đời. Cuộc đời kéo dài gần một thế kỷ của ông đã để lại bộ sưu tập đồ sộ với khoảng 60.000 tác phẩm.
Ngoài vẽ tranh, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm điêu khắc, tranh khắc, đồ gốm, tranh giấy dán, quần áo và trang trí nhà hát. Picasso là nhà cách mạng nghệ thuật thế kỷ XX và là một trong những người sáng lập trường phái lập thể. Ông cũng không ngừng đổi mới khi theo đuổi trường phái siêu thực và nguyên thủy.
Không chỉ là thiên tài của thế kỷ, Picasso đã đi vào Lịch sử của ngành mỹ thuật thế giới. Ông đã thể hiện tính hiện đại nhưng vẫn không ngừng tiếp nối truyền thống.
Không chỉ là một đại danh họa, Pablo Picasso còn là chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho hòa bình, tự do và tiến bộ xã hội. Bằng tài năng và trí tuệ của mình, Picasso luôn đứng về phía nhân dân lao động, những người cùng khổ và đấu tranh chống lại áp bức, bất công, chống lại chủ nghĩa phát xít, đế quốc.
Năm 1944, Picasso trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Ông tuyên bố: “Lý tưởng của những người cộng sản về một thế giới tươi đẹp phù hợp với nghệ thuật của tôi”. Kể từ đó, Picasso trở thành một trong những chiến sĩ - “Sứ giả hòa bình” tiêu biểu của thế giới.
Bằng ngôn ngữ hội họa, Picasso tố cáo, lên án chiến tranh, ca ngợi hòa bình. Mọi người yêu nghệ thuật trên thế giới đều biết đến loạt tranh vẽ chim hòa bình nổi tiếng của Picasso. Chim bồ câu - biểu tượng của hòa bình là đề tài mà Picasso ấp ủ từ thời niên thiếu.
Suốt nhiều năm, Picasso đã vẽ đi, vẽ lại hàng trăm bức tranh về chim bồ câu với loại đơn, đôi hoặc nhóm 3 con. Năm 1949, trong Đại hội Hòa bình thế giới tổ chức ở Rome, tác phẩm “Chim bồ câu” của Picasso được chọn là biểu tượng hòa bình thế giới.
MỘT SỐ GIAI THOẠI
Picasso được cứu sống bằng khói thuốc
Mẹ của Picasso đã rất khó khăn mới có thể sinh ra ông. Lúc chào đời, Picasso rất yếu ớt đến mức bà đỡ tưởng rằng đứa bé đã bị chết yểu, vì vậy, bà đặt cậu bé Picasso lên bàn để mọi người vào chào từ biệt cậu bé tội nghiệp.
Một người bác của Picasso vốn là bác sĩ - ông Don Salvador, đã thử một biện pháp rất đơn giản để cứu sống đứa cháu trai. Ông Don Salvador vốn bị nghiện thuốc lá. Lúc vào chào từ biệt cháu, ông đang ngậm điếu thuốc trên môi. Để thử phản ứng của đứa trẻ, ông liền nhả khói thuốc lá vào mặt cậu bé. Khuôn mặt đứa cháu trai có biểu hiện khó chịu và ngay lập tức, đứa trẻ bật khóc.
Từ đầu tiên mà Picasso biết nói là “bút chì”
Picasso có lẽ đã được sinh ra để làm họa sĩ. Từ đầu tiên mà ông biết nói là “piz” - một từ viết tắt của “lápiz”, trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “bút chì”.
Cha của ông cũng là một họa sĩ, một giáo sư giảng dạy về hội họa. Chính người cha đã dạy Picasso những bài giảng đầu tiên về mỹ thuật khi ông lên 7. Khi Picasso ở tuổi 13, cha ông đã thề sẽ không bao giờ cầm cọ vẽ nữa bởi ông cảm thấy cậu con trai đã thực sự vượt qua mình.
Bức tranh đầu tiên của Picasso
Lên 9 tuổi, Piccasso đã vẽ hoàn chỉnh bức tranh đầu tiên có tên “Le picador” khắc họa một người đàn ông cưỡi ngựa trong một trận đấu bò tót. Bức tranh “nghiêm túc” đầu tiên mà Picasso dồn tâm sức thực hiện là “First Communion” (Lễ ban thánh thể đầu tiên) khắc họa cha mẹ và em gái ông đang hành lễ trước bàn thờ Chúa. Picasso mới 15 tuổi khi hoàn thành bức tranh này.
Rất thích bị… kỷ luật
Khi còn đi học, Picasso được đánh giá là già giặn hơn hẳn bạn bè cùng lớp. Picasso ghét bị ra lệnh phải làm gì, vì vậy, cậu thường hay phạm lỗi vô kỷ luật trong lớp học, thường bị đuổi ra khỏi lớp và phải lên phòng “xưng tội” để chịu kỷ luật.
Khi ngồi trong phòng “xưng tội” - một căn phòng với bốn bức tường màu trắng và duy nhất chỉ có một chiếc ghế dài để học sinh vô kỷ luật ngồi đó mà suy ngẫm về lỗi lầm của mình - Picasso cảm thấy rất yên bình và rất thích được ở trong phòng này vì ông có thể thực sự tập trung để… vẽ.
Mỗi khi bị đuổi ra khỏi lớp và phải lên phòng kỷ luật ngồi, ông đều mang theo giấy bút để vẽ: “Tôi rất thích căn phòng đó vì tôi có thể vẽ không ngừng nghỉ, lại chẳng bị ai làm phiền. Thời đó, tôi đã nghĩ rằng mình ở trong căn phòng này mãi cũng được”.
Có thể là kẻ trộm
Năm 1911, khi bức tranh vẽ nàng Mona Lisa bị đánh cắp khỏi Bảo tàng Louvre (Pháp), cảnh sát đã tìm đến tra hỏi một người bạn của Picasso - nhà thơ Guillaume Apollinaire. Apollinaire ngẫm nghĩ rồi nói: “Rất có thể Picasso chính là kẻ trộm vì anh ta rất thích tranh.”
Cảnh sát đã tới bắt Picasso đi để thẩm vấn, nhưng sau đó ông đã được thả vì không có bằng chứng phạm tội.
Vì sao có tên gọi trào lưu lập thể
Năm 1909, Picasso và một họa sĩ Pháp có tên Georges Braque đã cùng khởi xướng xu hướng tranh Lập thể. Tuy vậy, ở thời điểm đó, hai vị họa sĩ đã không đặt tên cho xu hướng nghệ thuật mà mình đang đi tiên phong.
Chính nhà phê bình mỹ thuật người Pháp Louis Vauxcelles là người đầu tiên đặt tên cho xu hướng này, sau khi nhận thấy tranh của Picasso và Braque chỉ gồm toàn những hình khối nhỏ.
Picasso và Chagall
Picasso và Chagall đều là những người ngoại quốc trên đất Pháp, Chagall là người Nga còn Picasso là người Tây Ban Nha. Họ là hai người bạn rất thân.
Một tối khi Picasso tới dùng bữa ở nhà Chagall, trong lúc vui chuyện, Picasso hỏi: - Khi nào cậu trở về Nga?
Chagall trả lời với một nụ cười: - Sau khi anh đặt chân tới Nga, tôi sẽ trở về ngay lập tức. Tôi biết anh sẽ rất được người Nga yêu quý, ngoại trừ các tác phẩm của anh. Anh sẽ phải vật lộn kiếm sống ở nước Nga và tôi sẽ chờ đợi để xem anh sẽ sống như thế nào?
Picasso không vừa lòng với câu nói này. Sau bữa tối, khi rượu đã bắt đầu ngấm và sự tỉnh táo không còn nữa, Picasso lại gần Chagall và bảo: - Tôi cho rằng với cậu, tất cả chỉ là vấn đề tiền bạc. Tôi biết cậu sẽ chẳng trở về quê hương mình trừ phi ở đó có thật nhiều tiền cho cậu kiếm chác.
Nhà văn kiêm họa sĩ người Pháp Francoise Gilot cũng có mặt trong bữa tối hôm đó. Về sau, ông kể lại rằng thoạt tiên, Chagall nở nụ cười rất sảng khoái như chẳng có vấn đề gì khi nghe Picasso nói vậy, nhưng trong lòng Chagall rất giận. Kể từ sau bữa tối đó, tình bạn của Picasso và Chagall chấm dứt.
Có lẽ, hai “người khổng lồ” trong lĩnh vực hội họa - Picasso và Chagall - trong những năm tháng cuối đời đều có tham vọng trở nên giàu có nhờ việc bán tranh, vì vậy mà chỉ một câu nói, tình bạn của họ đã tan vỡ.
Picasso chôn ở đâu?
Picasso được chôn cất trong khuôn viên của một tòa lâu đài mà ông đã mua hồi năm 1958, nằm ở ngôi làng Vauvenargues, miền nam nước Pháp. Ngôi mộ của ông thu hút rất đông du khách đến thăm. Ông đã yên nghỉ tại đây sau khi qua đời ở tuổi 91 năm 1973.
Picasso đã mua lại lâu đài này sau khi phát hiện ra nó nằm trên sườn đồi Mont Sainte-Victoire - ngọn đồi đã từng xuất hiện hơn 30 lần trong tranh của họa sĩ Pháp theo trường phái Ấn tượng - Paul Cézanne. Khi mua được lâu đài này, ông đã nói với mọi người rằng: “Thế là tôi đã tự mình mua được ngọn đồi của Cézanne.”
Chuyện tình của Picasso
Suốt cuộc đời mình, Picasso có rất nhiều mối tình. Thực tế người ta không thể biết hết những người tình “thoảng qua” của ông. Picasso có hai đời vợ. Người vợ thứ nhất - Olga Khokhlova - kém ông 10 tuổi. Người vợ thứ hai - Jacqueline Roque - kém ông 52 tuổi. Trong suốt thiên tình sử của mình, Picasso luôn chỉ hẹn hò với những cô gái trẻ, thường ở độ tuổi ngoài 20.
Picasso là người có rất nhiều mâu thuẫn. Ông là người tốt bụng và nhạy cảm, nhưng cũng là người ích kỷ, bạo ngược và độc đoán. Patrick O’Brian, một nhà viết tiểu sử về Picasso, cho biết: “Tình cảm của Picasso đối với phụ nữ thường thay đổi một cách cực đoan, lúc thì rất âu yếm, lúc thì lại cực kỳ ghét”.
Picasso từng tuyên bố: “Với tôi chỉ có 2 loại phụ nữ - nữ thần và người đáng khinh”.
Les Demoiselles d’Avignon, các bức tranh nổi tiếng vẽ 5 cô gái hành nghề khỏa thân, luôn được coi là minh chứng cho thái độ coi thường phụ nữ của ông. Tuy nhiên, Picasso rất ngưỡng mộ mẹ mình và cuối cùng đã lấy tên thời con gái của bà - Picasso - để làm họ chứ không dùng họ Ruiz của cha.
Tài năng nghệ thuật của Picasso được thể hiện rất rõ ngay từ khi ông còn nhỏ. Sau khi học trường nghệ thuật ở Madrid, năm 1900, ở tuổi 19 ông rời Tây Ban Nha tới Paris cùng 2 họa sĩ đồng hương. Một trong số đó là Carlos Casagemas. Anh có người yêu tên là Germaine, nhưng do bất lực nên Carlos không thể giữ được tình yêu của mình. Picasso đã thế vào vị trí của bạn, Germaine và việc đó đã khiến Carlos đau khổ của ông tự vẫn.
Bi kịch đó đã đưa Picasso vào Thời kỳ xanh khi ông đã trút nỗi đau mất bạn vào một loạt những serie tranh thể hiện sự đau buồn. Năm 1904, ông định cư ở Paris, mở một studio trong một tòa nhà nằm trên bờ sông Seine. Ở đây, ông đã gặp Fernande Olivier, người mẫu của nhiều nghệ sĩ, người có mái tóc đỏ, đôi mắt hình trái hạnh đào và dáng người khêu gợi.
Picasso đã bị người phụ nữ đẹp và tự do đó mê hoặc. Trước đó, ông chỉ gặp những quý bà Tây Ban Nha ngoan đạo hoặc các cô gái hành nghề. Còn Fernande lại hút hồn ông. Bà đã chuyển tới sống với Picasso trong studio nhỏ, bẩn thỉu của ông.
Đây cũng là lúc Picasso chấm dứt Thời kỳ xanh và bắt đầu Thời kỳ hồng khi ông vẽ nhiều bức tranh đầy cuốn hút về người tình này. Nhưng bà Fernande là người hết sức lười biếng, nên Picasso buộc phải làm việc nhà. Điều này trái ngược hẳn với những mối quan hệ trước đó của họa sĩ, khi những người phụ nữ phải “hầu hạ”, chăm sóc ông. Tuy vậy, Picasso vẫn cảm thấy rất mãn nguyện khi sống với bà Fernande. Nhiều năm sau, ông chỉ vào tòa nhà xám xịt với tuyên bố: “Đó là nơi duy nhất tôi cảm thấy hạnh phúc”.
Năm 1909, Picasso rời studio nhỏ bé đó để tới một nơi tươm tất hơn. Lúc đó, ông đã có những người bảo trợ - các nhà sưu tầm nghệ thuật Mỹ giàu có Gertrude và Leo Stein - tác phẩm của ông đã được đem triển lãm. Nhưng Fernande thì không chịu nổi tính tình của ông và năm 1912, bà rời bỏ ông để đến với một họa sĩ Italia. Picasso trả đũa bằng cách quan hệ với một người bạn của bà - Marcelle Humbert, một phụ nữ trẻ, yếu đuối, người mà ông gọi là Eva. Cuộc tình của họ rất mãnh liệt, nhưng điều đó cũng không ngăn cản được Picasso đến với những người phụ nữ khác.
Năm 1915, khi Eva bị bệnh lao, Picasso chăm sóc bà rất tận tình, nhưng trong những lần tới thăm bà, thì ông lại bí mật ngủ với một phụ nữ trẻ tên là Gaby. Sau khi Eva qua đời vào năm 1916, Picasso đã cố gắng tự an ủi mình bằng việc quan hệ với nhiều người tình, nhưng nỗi đau buồn khiến ông không thể sống chung với người phụ nữ nào.
Picasso rời nước Pháp bị tàn phá do chiến tranh để tới thành Rome, nơi đoàn Ballets Russes đang lưu diễn. Picasso nhanh chóng đem lòng yêu một nữ nghệ sĩ ballet, một cô gái Nga tên là Olga Koklova.
Mê mẩn thân hình mềm mại, uyển chuyển của người phụ nữ này nhưng lại tức bực với thái độ lạnh lùng xa lánh của cô, cuối cùng Picasso đã quyết định sở hữu cô bằng được. Sau này, Koklova đã mềm lòng và trở thành tình nhân của ông, rồi năm 1918 trở thành vợ Picasso.
Họ có một ngôi nhà ở Paris và ban đầu cuộc hôn nhân này rất hạnh phúc, mặc cho có những khác biệt giữa hai người. Bà sinh cho ông cậu con trai - Paulo - mà Picasso rất yêu quý. Sự ra đời của cậu con trai tạo cho ông cảm hứng vẽ một serie tranh mang tên Maternité. Nhưng niềm hạnh phúc đó không kéo dài. Lúc đó, Picasso đã có khả năng kinh tế và thuê được người giúp việc, còn bà Koklova thì chẳng có việc gì để làm. Buồn chán và cay đắng khi mất cả sự nghiệp rồi đến khi phát hiện ra một loạt vụ ngoại tình của chồng, bà đã gần như phát điên.
Thời gian này, tranh của Picasso bắt đầu mô tả những người phụ nữ trông kỳ cục, méo mó và ông tìm mọi cách để thoát khỏi Koklova. Năm 1927, ông gặp cô gái xinh đẹp, tóc vàng Marie-Thérèse Walter, trên một đường phố Paris. Trong vòng một tuần, họ đã trở thành tình nhân của nhau mặc dù lúc đó, Picasso đã 46 tuổi, còn Thérèse Walter mới 17 tuổi.
Thérèse Walter là mối tình lâu dài nhất trong cuộc đời ông và có lẽ là người phụ nữ duy nhất khiến ông thực sự hạnh phúc. Thông minh nhưng không có học thức, Thérèse Walter là người dễ bảo và dễ tha thứ.
Năm 1928, Picasso đưa gia đình đi nghỉ ở khu resort Dinard và sắp xếp để Marie-Thérèse tham gia trại hè gần đó. Sáng nào ông cũng bỏ mặc vợ và con trai để đi vui vẻ với người tình trẻ. Không chịu đựng nổi thói trăng hoa của chồng, bà Koklova đã đưa con tới miền Nam nước Pháp.
Năm 1935, Picasso có con gái với Marie-Thérèse và đặt tên con là Maya. Ông vui sướng tột độ, nhưng hạnh phúc đó không ngăn được ông đi tìm mối quan hệ khác. Lần này là Dora Maar, một nhiếp ảnh gia 29 tuổi có tài và xinh đẹp và lúc đó chỉ bằng gần nửa tuổi ông. Ban đầu, Picasso cố gắng không để hai người tình của mình gặp nhau. Nhưng một ngày, họ tình cờ gặp nhau trong studio của ông. Và họa sĩ đã mô tả thời khắc đó trong bức tranh “Những con chim trong lồng”, trong đó mô tả một con chim bồ câu đen (Dora) chiến đấu với chim bồ câu trắng (Marie-Thérèse). Và chim bồ câu đen thắng. Dora chuyển tới sống với Picasso, còn Marie-Thérèse và con gái họ sống trong một căn hộ gần đó.
Sau đó, Picasso dành toàn bộ tình cảm cho người tình trẻ Françoise. Họ dành nhiều thời gian bên nhau ở khu nghỉ Antibes, thuộc Địa Trung Hải, nhưng hạnh phúc của họ không được trọn vẹn do sự xuất hiện thường xuyên của người vợ bị bỏ rơi - Koklova, lúc đó đang sống gần đấy.
Françoise sinh cho Picasso 2 người con, Claude và Paloma. Ông vô cùng hạnh phúc, nhưng Françoise nhanh chóng cảm thấy bực bội với công việc nội trợ và cuộc sống với hai đứa con.
Thói trăng hoa lại đưa Picasso đến với một người phụ nữ trẻ khác. Geneviève Laporte, nhà thơ mà ông gặp lần đầu tiên khi bà còn là một nữ sinh trong thời chiến ở Paris, trước khi trở thành người tình của ông vào năm 1951.
Lúc đó, Picasso đã 70 tuổi, còn Laporte mới 24. Picasso đã là một họa sĩ nổi tiếng quốc tế, nên ông phải giữ kín mối quan hệ này nhằm tránh scandal. Nhưng năm 1953, Laporte đã rời bỏ ông do vài chuyện hiểu lầm nhỏ.
Buồn chán, Picasso lang thang khắp các câu lạc bộ đêm ở Cote d’Azur với hy vọng tìm thấy người yêu. Cùng năm đó, Françoise cũng đã bỏ ông để đi theo một người đàn ông Hy Lạp. Đau khổ vì bị bỏ rơi, Picasso lao vào công việc. Lúc đó, một trong những người làm mẫu cho ông là Jacqueline Roque, cô gái 27 tuổi có vẻ đẹp kỳ lạ. Cô gọi ông là “Chúa Trời”, hôn lên đôi tay ông và tôn thờ họa sĩ. Ban đầu, Picasso rất dửng dưng, nhưng rất nhanh sau đó họ yêu nhau. Năm 1961, Picasso cưới Roque.
Hai mươi năm chung sống với Roque, ông đã vẽ hơn 400 bức tranh về bà. Đây là thời kỳ sáng tác mãnh liệt, nhưng nhiều người cho rằng nó phải trả giá bằng hạnh phúc của ông. Trong những năm cuối đời, Picasso gần như sống ẩn dật và bạn bè ông đổ lỗi cho tính ích kỷ của Roque, bà đã ngăn cấm các con và cháu tới nhà ông.
Tháng 4 năm 1973, Picasso mất, bên ông có bà Roque. Khi chôn cất họa sĩ, một bức tượng Marie Thérèse - có lẽ là tình yêu lớn nhất của Picasso - được đặt trên mộ ông. 4 năm sau, bà Marie Thérèse đã treo cổ tự vẫn vì bà không thể sống nổi khi Picasso không còn nữa. Còn bà Roque trở nên nghiện rượu và năm 1986 đã tự sát bằng súng. Picasso đã mang lại những giây phút hạnh phúc tuyệt đỉnh cho những người phụ nữ yêu ông, nhưng ông cũng là người mang lại đau khổ cho họ.