J
ames Dewey Watson sinh ngày 6 tháng 4 năm 1928. Ông theo học tại Đại học Chicago và Đại học Indiana, sau đó làm việc tại phòng thí nghiệm Cavendish của Đại học Cambridge tại Anh.
Năm 1956, Watson trở thành giáo viên giảng dạy tại các phòng thí nghiệm của Đại học Harvard. Năm 1968, ông làm giám đốc phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor tại Long Island, New York và chuyển trọng tâm nghiên cứu của trung tâm này sang nghiên cứu ung thư.
Năm 1994 ông đã giữ chức chủ tịch của trung tâm này 10 năm, sau đó trở thành hiệu trưởng của trường cho đến năm 2007. Từ năm 1988 tới 2002, Watson làm việc với Viện Y tế quốc gia, đóng góp cho việc xây dựng đề án liên quan đến di truyền của con người.
James Watson còn là một nhà tổ chức tài ba. Trong 35 năm lãnh đạo phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor - một trong những trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu Mỹ, ông đã tập hợp được một tập thể các nhà khoa học làm việc và nghiên cứu rất hiệu quả.
Ở tuổi 80, ông vẫn khẳng định chưa bao giờ mất hứng thú đối với khoa học. Nhưng ông làm nhiều người ngạc nhiên khi cho biết ông không nghiên cứu khoa học trong những năm lãnh đạo phòng thí nghiệm kể trên, bởi công việc chính của ông là tìm kiếm nhân tài. Ông thú nhận đã tìm mọi cách để không thu nhận những nhà khoa học danh tiếng. Thay vào đó, ông quan tâm tới những người trẻ muốn tìm hiểu về bệnh ung thư - một đề tài Watson cũng rất hứng thú. Ông cũng không trực tiếp cầm tay chỉ việc những người mình thu nhận. Ông chỉ thực hiện thật tốt nguyên tắc phân quyền, sao cho “nếu tôi có đi khỏi đó một năm, mọi việc vẫn đâu vào đấy”. Watson kể đã cố làm sao cho mình trở nên “vô dụng một cách tối đa”.
Một nguyên tắc nữa của Watson trong lãnh đạo phòng thí nghiệm là ủng hộ việc thay đổi nhân sự. Ông không để các nhà khoa học làm việc tại Cold Spring Harbor quá lâu. Vì thế tuổi trung bình của nhân viên ở đó chỉ khoảng 40.
Ngoài chính sách nhân sự, Watson còn nỗ lực “không làm bực mình các nhà tài trợ”. Ông khẳng định nhờ đó mà Cold Spring Harbor không bao giờ túng tiền. Để lôi cuốn các nhà đầu tư cho phòng thí nghiệm, Watson ra sức chăm sóc khuôn viên tòa nhà, cụ thể là xây mới, trồng cây... để tạo sức thu hút cho trung tâm.
Watson nhiều lần nhắc tới tốc độ: tốc độ của các nghiên cứu và tiến trình ra quyết định. Ông nhấn mạnh: tốc độ cần thiết để khám phá, phát minh sớm hơn kẻ khác. “Đừng bao giờ nhận những công việc nếu bạn không tin mình sẽ không thể nào (làm) tốt hơn người khác” - ông viết. Một trong những yếu tố làm trì trệ các công trình khoa học, theo ông, là thành lập các ban bệ khác nhau. Dưới thời ông lãnh đạo phòng thí nghiệm, Watson tuyệt đối không để những cơ cấu quan liêu này xuất hiện tại đây.
Năm 1953, ông cùng đồng nghiệp là Francis Crick khám phá ra cơ cấu phân tử của ADN. Sau ADN, James Watson tiếp tục nghiên cứu về sinh vật học phân tử. Ông nhận được nhiều giải thưởng khác nhau và viết nhiều sách, trong đó có sách giáo khoa chuyên ngành sinh vật học phân tử cũng như các tác phẩm khoa học nổi tiếng khác.
Watson nghiên cứu ảnh hưởng của những biến đổi gen lên sự phát triển các loại bệnh như tự kỷ, hội chứng Asperger. Ông khẳng định để nghiên cứu bệnh tự kỷ hoặc tâm thần phân liệt, cần có bản đồ gen của người bệnh. Ông cho rằng trong tương lai, các công nghệ sẽ hoàn thiện, cho phép mỗi người nhận được giải mã gen đầy đủ của mình với giá tương đương giá mua một ôtô loại thường. Khi nghiên cứu về gen, Watson cho rằng những phụ nữ nào không quan tâm tới trẻ em thường có khiếm khuyết gen liên quan tới tự kỷ. Tình yêu trẻ em và sự quan tâm tới chúng là những tính cách tự nhiên của phụ nữ. Một khi không có mong muốn này, có thể những phụ nữ này có những nhiễm sắc thể bị khiếm khuyết nhưng bệnh tật không bộc lộ trọn vẹn.
Năm 2007, ông đã sai lầm khi nhận xét, năng lực tri thức của người da đen và da trắng khác nhau, cụ thể là người đa đen kém thông minh hơn người da trắng. Nhận xét của Watson khiến ông bị chỉ trích là phân biệt chủng tộc, dẫn tới việc ông phải rời Cold Spring Harbor.
Tuy nhiên, trong cuộc đời mình, ông đã sống theo phương châm “Đừng bao giờ nói những điều tẻ nhạt mà ai đó từng nói... Để không làm người khác chán, cần nỗ lực để chính mình không ngán bản thân mình... Thành công thường đến với những ai kịp làm gì đó sớm hơn những người còn lại, chứ không phải với những người thông minh hơn đối thủ của họ”.
Ông cũng đã viết rất nhiều sách khoa học, bao gồm những cuốn như “The Molecular Biology of the Gene” (1965) hay cuốn sách bán chạy nhất của ông “The Double Helix” (1968) nói về việc phát hiện ADN. Ông đã cùng Francis Crick và Maurice Wilkins nghiên cứu và khám phá ra cấu trúc ADN. Watson, Francis Crick và Maurice Wilkins đã được nhận giải Nobel vật lý và y khoa năm 1962 cho “sự khám phá liên quan đến cấu trúc phân tử của nucleic acids và tầm quan trọng của nó đối với việc trao chuyển thông tin trong vật chất sống”.