G
eorge Wells Beadle sinh ngày 22 tháng 10 năm 1903 tại Wahoo, Nebraska, Mỹ trong một gia đình nông dân. Ông theo học trường trung học tại quê nhà và dự định trở về làm nông nghiệp cùng gia đình. Một trong những giáo viên dạy George đã hướng ông vào con đường khoa học và thuyết phục ông vào học trường đại học nông nghiệp tại Lincoln, Nebraska.
Ông đậu bằng cử nhân khoa học về nông nghiệp ở trường Nông nghiệp của Đại học Nebraska năm 1926, nơi ông là hội viên của Hội ái hữu FarmHouse. Theo sự giới thiệu của Franklin D. Keim, ông vào học trường nông nghiệp ở Đại học Cornell. Lúc đầu ông định học khoa sinh thái học, nhưng ông sớm tập trung vào di truyền học và tế bào học, theo đuổi việc nghiên cứu di truyền của ngô dưới sự hướng dẫn của Rollins Adams Emerson. Beadle nhận bằng tiến sĩ ở Đại học Cornell năm 1931.
Beadle tiếp tục làm nghiên cứu ở phòng thí nghiệm ruồi của Thomas Hunt Morgan tại học viện Công nghệ California, nơi ông nghiên cứu với Alfred Sturtevant cùng những đồng nghiệp về di truyền của loại ruồi giấm Drosophila melanogaster. Tại đây, khi làm việc với Boris Ephrussi, ông đã giúp triển khai một kỹ thuật để cấy ghép các tế bào xa lạ vào ấu trùng ruồi (tạo ra con mắt thứ 3 ở bụng ruồi); kỹ thuật này được dùng để chứng minh rằng một số đột biến làm ảnh hưởng tới màu mắt bao hàm các gen kiểm soát các bước trao đổi chất đặc thù trong việc sản xuất sắc tố của mắt. Trong một nỗ lực để định rõ đặc điểm chính xác các phản ứng và các chất có liên quan, ông cùng nhà hóa sinh Edward Lawrie Tatum đã nghiên cứu vấn đề sắc tố. Cuối cùng họ đã cách ly và nhận dạng được sắc tố trong cá thể đột biến “vermilion”, nhưng làm quá vắn tắt theo một nhóm nhà nghiên cứu Đức độc lập. Sau công trình nghiên cứu ruồi giấm Drosophila melanogaster, Beadle làm giáo sư ở Đại học Harvard, rồi Đại học Stanford.
Ông là nhà di truyền học người Mỹ phát hiện ra vai trò của gen trong việc điều chỉnh các sự kiện hóa sinh bên trong các tế bào. Các thí nghiệm then chốt của Beadle và Tattum gồm việc phơi bày mốc bánh mì Neurospora crassa rước các tia X, đã gây ra các đột biến. Trong một loạt thí nghiệm, họ đã chỉ ra rằng các đột biến này gây ra các biến đổi trong các enzym đặc thù liên quan tới các đường trao đổi chất. Các thí nghiệm này đã khiến họ đưa ra một sự liên kết trực tiếp giữa các gien và các phản ứng enzym, được gọi là giả thuyết “một gien, một enzym”.
Cùng với Tatum, Beadle tập chú vào một sinh vật mẫu thích hợp hơn với di truyền hóa sinh: Neurospora. Bởi việc cấu tạo các dòng cá thể đột biến là đòi hỏi các yếu tố dinh dưỡng đặc thù (các axit amin hoặc các vitamin). Họ đã xác minh rằng các đột biến gen cá thể chịu trách nhiệm về các bước cá nhân trong việc trao đổi chất và việc tổng hợp các chất dinh dưỡng cần cho sự sống. Điều này dẫn tới việc đưa ra “giả thuyết một gien-một enzym,” ý tưởng cho rằng 1 gien định rõ 1 enzym đơn, hơn là một bộ phức hợp các đặc tính (như quan niệm thông thường) vào năm 1941.
Năm 1946, với sự hỗ trợ của Linus Pauling, Beadle được bổ nhiệm làm người đứng đầu phân ban sinh học mới được tổ chức lại của Học viện Công nghệ California; phân ban này là một trong các phân ban đầu tiên trở thành phân ban sinh học phân tử.
Trong quá trình làm việc Beadle nhận được rất nhiều danh hiệu và giải thưởng: Tiến sĩ danh dự của các trường Đại học Yale (1947), Đại học Nebraska (1949), Đại học Northwestern (1952), Đại học Birmingham và Oxford của Anh (1959), Pomona college(1961) và Lake Forest College (1962); giải thưởng của Hiệp hội sức khỏe cộng đồng Hoa Kỳ; giải thưởng Emil Christian Hansen (Đan Mạch), giải thưởng khoa học tưởng niệm Anhxtanh (1958)... Ông là thành viên Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ với vai trò chủ tịch hội đồng nghiên cứu ảnh hưởng đến di truyền của bức xạ nguyên tử; thành viên hội đồng khoa học hoàng gia Anh...
Năm 1958, Beadle và Tatum được nhận giải thưởng Nobel Sinh lý và Y khoa cho công trình nghiên cứu của họ về di truyền học hóa sinh. Ngoài giải Nobel nói trên, ông cũng đoạt Giải Albert Lasker cho nghiên cứu y học cơ bản năm 1950.
Beadle làm chủ tịch Đại học Chicago từ 1961-1968, thông qua việc lập quỹ và tuyển mộ để tái lập danh tiếng của trường như một đại học nghiên cứu hàng đầu. Năm 1966 ông xuất bản quyển “The Language of Life”.
Sau khi từ chức chủ tịch đại học, Beadle trở lại việc nghiên cứu về quan hệ tiến hóa giữa ngô và cỏ dại. Ông tiếp tục nghiên cứu tới cuối thập kỷ 1970, khi bệnh Alzheimer khiến ông không thể tiếp tục làm việc được nữa. George Beadle mất năm 1989.