W
illiam Harvey sinh ngày 1 tháng 4 năm 1578 trong một gia đình nông dân ở Folkestone, miền Nam nước Anh. Lúc nhỏ, Harvey đã yêu thích các loài động vật, thường cả ngày đùa nghịch với chó, mèo, gà, thỏ không biết chán. Ở gần nhà có một xưởng mổ gia súc. Có dịp là Harvey tới xem các nhân viên lò mổ giết thịt rồi chặt thành từng tảng thịt bò, thịt dê, thịt lợn... chuyển đi bán ở các cửa hàng. Nhìn thấy cảnh máu me bạn bè đều bỏ chạy nhưng Harvey lại chẳng sợ chút nào, thường tò mò hỏi những người làm ở đó tên gọi các bộ phận này, bộ phận khác trong nội tạng gia súc.
Năm 1593, chưa đầy 16 tuổi Harvey đã thi đỗ trường Đại học Cambridge. Năm 19 tuổi, Harvey tốt nghiệp, đạt được học vị cử nhân văn học, rồi sau đó lại chuyển tới học y ở trường Đại học Padua, Italia, một trung tâm nghiên cứu y học đương thời.
Năm 1602 Harvey tốt nghiệp đại học, nhận danh vị bác sĩ y khoa, không lâu sau, Harvey trở về nước Anh, đạt được học vị bác sĩ giải phẫu học ở trường Đại học Cambridge và trở thành một thầy thuốc có danh tiếng.
Năm 29 tuổi, ông dạy học ở trường Y hoàng gia, kiêm bác sĩ phẫu thuật ở bệnh viện Saint Bactholomew. Năm 35 tuổi, ông là giáo sư trường đại học Y ở London. Năm 40 tuổi ông được mời làm ngự y của vua nước Anh là James I, rồi Charler.
Ở London, mỗi năm Harvey đều tham gia mấy lần giải phẫu xác phạm nhân tử hình. Trong quá trình giải phẫu, ông nhận thấy sự co bóp của động mạch, hiện tượng phập phồng ở thái dương, cổ tay, đỉnh đầu... những hiện tượng đó làm cho ông nghĩ đến giả thuyết là trong cơ thể có sự hoạt động của một thứ gì đó tựa như cái bơm trung tâm, từ đó khống chế sự lưu động của máu trong toàn thân thể.
Harvey lúc đó còn là giảng viên giải phẫu. Khi giảng bài, ông thường giải phẫu động vật rồi cùng sinh viên quan sát, nghiên cứu. Mỗi cuộc giải phẫu, ông đều ghi chép tỉ mỉ các quan sát, rồi lại suy ngẫm tìm cách giải thích các vấn đề thu lượm được. Khi giải phẫu động vật và xác người, ông đặc biệt chú ý quan sát kỹ lưỡng về kết cấu quả tim, biết rằng tim là do các cơ thịt tổ chức thành và công năng chủ yếu của nó là vận động co bóp. Ông nhận ra giữa mỗi nữa quả tim đều có van tim ngăn cách, làm phân chia ra tâm nhĩ và tâm thất, chỉ cho máu chảy từ tâm nhĩ sang tâm thất, mà không thấy chảy ngược lại.
Harvey tính toán rằng chỉ trong một giờ, tim bơm đầy được một khối lượng máu gấp ba lần trọng lượng của cơ thể. Không thể tưởng tượng được rằng với tốc độ đó máu có thể tự tạo ra hoặc tự phân giải. Rõ ràng máu phải từ động mạch sang tĩnh mạch ở chỗ nào đó bên ngoài tim mà mắt thường không nhìn thấy được. Sau khi giả thiết có những mạch nối tồn tại thì rất dễ hiểu là tim phải nhiều lần bơm một khối lượng máu qua các nấc: Tĩnh mạch--tim--động mạch--tĩnh mạch--tim--động mạch--tĩnh mạch--tim...
Thời ấy, hầu hết mọi người tin rằng thực phẩm đã được chuyển đổi thành máu của gan, sau đó được tiêu thụ như nhiên liệu của cơ thể. Harvey biết đây là sai sự thật thông qua quan sát trực tiếp khi ông mổ xẻ con người và động vật. Vì vậy, ông đã viết cuốn sách “Về hoạt động của máu và tim ở động vật” để trình bày quan điểm của mình.
Năm 1628, một nhà xuất bản ở nước Ý chủ động viết thư cho Harvey xin ông cho xuất bản cuốn sách mà Harvey đã phải bỏ ra tâm huyết hơn 20 năm để hoàn thành. Mặc dù cuốn sách không dày, vẻn vẹn chỉ có 72 trang nhưng cuốn sách đã mở ra một thời kỳ mới, làm nên cuộc cách mạng hoàn toàn trong lịch sử sinh học.
Nghiên cứu của Harvey là sự thể hiện ý đồ nghiêm chỉnh đầu tiên về quan điểm mới đối với sinh học. Harvey đã đánh đổ học thuyết của Galen, và đặt nền tảng cho sinh lý học hiện đại. Các thầy thuốc những người gắn bó với trường phái cũ đều công khai chống lại Harvey nhưng họ không thể chống lại những sự thật khách quan. Ðến thời gian khi Harvey trở về già thì tuần hoàn máu của ông mới được các nhà sinh học thừa nhận mặc dù người ta chưa phát hiện được mao quản nối liền động mạch với tĩnh mạch. Những quan điểm trong cuốn sách trên bị tranh cãi rất nhiều nhưng sau này đã trở thành cơ sở cho tất cả các nghiên cứu hiện đại về tim và mạch máu.