N
orbert Wiener sinh ngày 26-11-1894 tại Columbia, Missouri, Hoa Kỳ. Ông là nhà toán học nổi tiếng trên cả phương diện toán học thuần túy và toán học ứng dụng, được coi là cha đẻ của ngành Điều khiển học, là người tiên phong nghiên cứu về quá trình ngẫu nhiên và quá trình ồn (noise).
Cha ông - Leo Wiener, một giáo sư ngôn ngữ người Nga Do Thái là người sớm nhận ra khả năng thiên bẩm của con trai và đã hướng cho Wiener theo một nền tảng tốt về giáo dục. Mẹ ông là một người Đức Do Thái, ông đã từng nói về mẹ của mình là “một người phụ nữ nhỏ bé nhưng mạnh mẽ và sôi nổi”.
Ông được cha mẹ giáo dục tại nhà cho đến năm 1903 (một phương pháp giáo dục quen thuộc của người Do Thái cho con trẻ nhằm khơi gợi phát hiện năng khiếu của chúng). Ông trở thành một thần đồng nổi tiếng chính là do sự hướng dẫn của người cha vốn là một giảng viên ngôn ngữ nhưng lại là một người học rộng và có một thư viện riêng. Leo cũng là một người có khả năng về toán học và ông truyền đạt một số kiến thức về toán cho con trai của mình ngay từ thuở ấu thơ.
Tốt nghiệp trường trung học Ayer năm 1906, lúc chỉ mới 11 tuổi, Wiener đậu vào đại học Tufts và lấy bằng cử nhân Toán khi 14 tuổi (1909), rồi tiếp tục làm nghiên cứu sinh về động vật học tại Harvard. Năm 1910 ông chuyển sang Đại học Cornell học triết học. Một năm sau ông quay lại Harvard trong khi vẫn tiếp tục học triết. Ở Harvard ông chịu ảnh hưởng nhiều từ Edward Vermilye Huntington, một người có nhiều mối quan tâm tới toán học từ các tiên đề đến những bài toán ứng dụng trong kỹ thuật. Wiener được nhận bằng tiến sĩ năm 1912 tức là khi chỉ 18 tuổi, cho luận văn về Logic toán dưới sự hướng dẫn của Karl Schmidt.
Năm 1914 ông sang châu Âu, và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của các nhà toán học danh tiếng Bertrand Russell, G. H. Hardy (Cambridge University), David Hilbert, Edmund Landau (University of Göttingen). Năm 1915 đến 1916, ông giảng dạy triết học tại Harvard, tiếp đó làm cho công ty General Electric rồi tham gia viết Encyclopedia Americana. Khi chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ, Oswald Veblen mời ông làm việc về đạn đạo học tại Aberdeen Proving Ground, Maryland. Wiener sinh hoạt và làm việc với các nhà toán học khác và chính điều này đã làm cho sự quan tâm đến toán học của ông trở nên mạnh mẽ, sâu sắc hơn.
Theo Wiener thì những năm 1920 - 1925 là thời kỳ ông say sưa với toán học. Ông có khát vọng giải các vấn đề phức tạp của vật lý và kỹ thuật bằng những phương pháp toán học trừu tượng hiện đại. Ông nghiên cứu lý thuyết chuyển động Brao, thử sức mình trong lý thuyết thế, đi sâu vào giải tích điều hòa tổng quát nhằm áp dụng cho lý thuyết thông tin. Kiến thức bách khoa của Wiener được tích lũy dần dần, chậm chạm nhưng chắc chắn.
Năm 1932 khi đó ông đã là giáo sư chính thức, có danh tiếng xứng đáng trong hàng ngũ các nhà bác học châu Âu và châu Mỹ. Ông hướng dẫn học trò viết luận án; xuất bản những cuốn sách giá trị về toán học như: “Giải tích điều hòa tổng quát”, “Định lý Taubre”, “Tích phân Phuriê và một vài ứng dụng”, cùng nghiên cứu với nhà toán học Đức E. Gopf về trạng thái cân bằng của các sao và đưa vào khoa học “Phương trình Wiener-Gopf”. Một công trình khác nữa ông viết cùng với nhà toán học Anh R. Peli “Biến đổi Phuriê trong vùng ảo”. Cuốn sách này đang viết dở thì R. Peli bị chết trong một lần trượt tuyến, sau đó ông viết tiếp với nhà bác học Trung Quốc Li và V. Bus. Trong những năm 1935-1936 ông là phó chủ tịch hội toán học Mỹ.
Thời kỳ 1920 - 1930 Wiener thường sang châu Âu làm quen với nhiều nhà bác học trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông sống khá lâu ở Kembrid và Gơttinhghen, tham gia vào những hội nghị toán học quốc tế, đặc biệt quan hệ với những nhà bác học lớn đương thời như: M. Prese, I. Adammar, N. Bo, Dj. Golden, Dj. Bernal.
Năm 1935 - 1936 ông sang thăm Trung Quốc và giảng bài tại Trường Đại học Tổng hợp Bắc Kinh. Mối quan hệ của ông với các nhà bác học ngày càng được củng cố và mở rộng, điều này đã gây được ảnh hưởng tốt đến sự nghiệp khoa học của ông. Thời kỳ này kiến thức của nhà bác học đang nở rộ. Ông đã hồi tưởng: “Những công trình của tôi bắt đầu kết quả, tôi đã kịp đăng hàng loạt những vấn đề tự nghiên cứu và đã làm xong việc chuẩn bị cho một hướng phát triển mới mà trong khoa học sẽ có chỗ cho nó”. Chính khuynh hướng này đã đưa ông đến sự hình thành khoa học về điều khiển.
Trong thời gian đại chiến Thế giới lần thứ hai (1939-1945), ông nghiên cứu lý thuyết về mạng điện, kỹ thuật tính toán. Chậm hơn một chút nhưng không phụ thuộc gì vào A. N. Kolmogorop, ông đã phát biểu lý thuyết nội suy và ngoại suy của những quá trình ngẫu nhiên tĩnh. Ông đã cống hiến cho hướng phát triển lý thuyết “lọc”, một lý thuyết được áp dụng rộng rãi trong kỹ thuật. Trong thời gian ở Mehico ông đã nêu lên sự cần thiết phải hình thành một ngành khoa học thống nhất nhằm nghiên cứu các quá trình nhận, giữ và nhào nặn thông tin, các quá trình điều khiển và kiểm tra. Ông đề nghị đặt tên cho ngành khoa học mới mẻ và đầy tương lai là xibecnêtic. Chính C. Sennon cũng có công lớn trong việc hình thành xibecnêtic, nhưng ông là người đầu tiên truyền bá ý nghĩa của điều khiển học trong toàn bộ hệ thống nhận thức của con người.
Chiến tranh kết thúc, ông được William Fogg Osgood mời sang MIT như một phụ giảng về toán học. Ở đây ông quan tâm đến lý thuyết xác suất và bắt đầu nghiên cứu về chuyển động Brown. Wiener tham gia vào đại hội Toán học thế giới năm 1920 tại Strasbourg khi cùng làm việc với Fréchet. Ông cũng trở lại châu Âu thường xuyên vào những năm tiếp theo đó để thăm viếng các nhà toán học Anh, Pháp và Đức. Đặc biệt trong đó có Paul Lévy và tại Đại học Göttingen nơi ông tìm ra những liên hệ quan trọng giữa những kết quả của ông với cơ học lượng tử. Điều này dẫn tới một sự cộng tác của ông với Max Born.
Năm 1926, Wiener lập gia đình với Margaret Engemann, rồi sang châu Âu trong chương trình học bổng Guggenheim. Ông gặp gỡ Hardy tại Đại học Cambridge rồi trở về Göttingen cũng là nơi đoàn tụ với vợ ông khi bà thôi công việc giảng dạy ngôn ngữ tại Juniata College, Pennsylvania. Vào những năm 1931 - 1932 Wiener có những tiến triển trong công việc nghiên cứu toán của mình khi ông chủ yếu ở Anh và thường xuyên gặp gỡ Hardy tại Cambridge. Ông có các khóa giảng về tích phân. Fourier và Cambridge cũng tạo điều kiện cho ông có thể gặp gỡ nhiều nhà toán học khác, trong đó có Blaschke, Menger, Frank, Hahn, Artin và Gödel. Wiener đưa ra nhiều ý tưởng quan trọng trong các công trình của mình về biến đổi Fourier, chuyển động Brown, bài toán Dirichlet và định lý Tauber, lý thuyết thế (potential theory)...
Wiener là người đã tạo nền tảng cho điều khiển học, công nghệ người máy, điều khiển máy tính và tự động hóa. Ông cũng chia sẻ các lý thuyết mà ông tìm ra với những nhà nghiên cứu khác. Wiener là một người ủng hộ mạnh mẽ ý tưởng tự động hóa để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống tại các nước kém phát triển. Ý tưởng của ông có ảnh hưởng lớn ở Ấn Độ, nơi mà chính phủ nước này thường xuyên được ông cố vấn trong thập kỉ những năm 1950.
Sau khi chiến tranh kết thúc ông ngày càng trở nên quan tâm hơn đến những gì trước kia ông thấy như sự can thiệp của chính trị vào khoa học, sự quân sự hóa khoa học. Ông viết bài báo “Một nhà khoa học nổi loạn” trên tờ Nguyệt san Atlantic tháng 1-1947 để kêu gọi các nhà khoa học xem xét ý nghĩa đạo đức trong công việc nghiên cứu của họ. Ông đã chối từ bất kỳ nguồn tài trợ nào của chính phủ hướng các nghiên cứu của ông về các dự án quân sự. Lập trường của ông về vũ khí hạt nhân khi chiến tranh lạnh xảy ra hoàn toàn tương phản với John von Neumann. Hai ông đều là người Do Thái, đều là các thần đồng, đều cùng có ảnh hưởng lớn lao đến sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong thế kỷ XX nhưng lại hoàn toàn đối lập nhau trong lập trường về sự tham gia của khoa học vào quân sự, vũ khí hạt nhân.
Wiener đã viết hai cuốn sách về cuộc đời và sự nghiệp của mình đó là các cuốn “Thần đồng tuổi thơ”, “Tôi là nhà Toán học” trong đó chứa đựng nhiều thông tin thú vị về đời tư của ông và con đường mà ông đã trở thành một nhà khoa học lớn như thế nào. Wiener nhận giải thưởng Bôcher năm 1933 và Huân chương Quốc gia về Khoa học của Hoa Kỳ năm 1963.
Norbert Wiener từ giã cõi đời năm 1964 tại thủ đô Stockholm, Thụy Điển nhưng tên tuổi và những cống hiến của ông cho nền khoa học kỹ thuật của nhân loại của ông vẫn còn đó. Tên của ông được đặt cho một miệng núi lửa ở nửa bị che khuất với trái đất trên mặt trăng. Tại Đại học Maryland người ta thành lập trung tâm Norbert Wiener về Giải tích điều hòa và ứng dụng. Giải thưởng Norbert Wiener cho toán ứng dụng được thiếp lập bởi Hội toán học Mỹ (AMS) và Hội toán học Công nghiệp và ứng dụng (SIAM) từ năm 1967.