J
ohn Locke sinh năm 1632, ông là nhà triết học, nhà hoạt động chính trị người Anh. Ông là nhà triết học theo trường phái chủ nghĩa kinh nghiệm Anh trong lĩnh vực nhận thức luận. Ông cũng phát triển lý thuyết về khế ước xã hội và vai trò của nó. Qua các tác phẩm của mình, ông luôn đấu tranh chống lại sự chuyên chế và đóng góp lớn với chủ nghĩa tự do cả về mặt cá nhân và thể chế. Trên phương diện cá nhân, ông muốn con người dùng lý trí để đi tìm chân lý thay vì chấp nhận ý kiến áp đặt hoặc niềm tin mù quáng. Trên phương diện thể chế, cụ thể là nhà nước và nhà thờ, ông tách biệt các chức năng của các thể chế này, từ đó dẫn tới sự khác nhau trong việc sử dụng bạo lực của các thể chế này tương ứng với các chức năng của nó. Chính các khái niệm về quyền của tự nhiên, khế ước xã hội và nhiều đóng góp khác khiến ông trở thành một nhà tư tưởng lớn của phong trào Khai sáng và ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc cách mạng Mỹ và bản tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
John Locke sinh ngày 29 tháng 8 năm 1632 tại Wrington, Somerset trong một gia đình Thanh giáo, cha ông là một chủ đất nhỏ, hành nghề luật sư tại nông thôn và đã tham gia nội chiến trong phe của Cromwell. Năm 1646, ông vào học trường Westminster tại Luân Đôn sau đó học Đại học Oxford năm 1652. Ông lấy bằng cử nhân năm 1656 và thạc sĩ năm 1658, làm giảng viên tại trường từ năm 1660. Trong thời gian học tại trường, ông quan tâm đến khoa học thực nghiệm và là hội viên Hội Hoàng gia năm 1668.
Năm 1668, ông làm thư ký cho Huân tước toàn quyền Carolinas, Huân tước Ashley tức Bá tước Shaftesbury. Khi Ashley thuyết phục vua Charles II thành lập Ban thương mại và thuộc địa, ông đảm nhiệm vị trí thư ký của Ban này. Sau năm 1674, khi Shaftesbury rời chính trường, ông về đại học Oxford lấy bằng cử nhân Y học và giấy phép hành nghề rồi sang miền Nam nước Pháp. Khi Shaftesbury trở lại vũ đài chính trị, ông trở về Anh năm 1679. Năm 1683, ông sang Hà Lan, tại đây ông viết “Lá thư về lòng khoan dung” và trước khi rời Hà Lan, ông đã hoàn thành tác phẩm “Luận về sự hiểu biết của con người” tháng 2 năm 1689.
Cuộc “Cách mạng vinh quang” năm 1688 đã không chỉ đánh dấu bước ngoặt của nước Anh mà còn với cả John Locke. Giai đoạn này, ông cho xuất bản tác phẩm “Luận về sự hiểu biết của con người” và “Hai chuyên luận về nhà nước”. Thời gian này, tác phẩm “Lá thư về lòng khoan dung” được dịch ra tiếng Anh. Trong những năm tiếp theo, ông viết nhiều thư từ, tranh luận bảo vệ cho các tác phẩm của mình trong đó có hai bài đáng chú ý : “Tính hợp lý của Ki tô giáo” và “Một số suy nghĩ về giáo dục”.
Từ năm 1696 cho đến năm 1700, ông tham gia vào Ban thương mại. Những ngày cuối đời, Locke trở về Oates và mất ngày 28 tháng 10 năm 1704.
Locke có nhiều ảnh hưởng đến triết học, chính trị và đặc biệt là có nhiều cống hiến cho chủ nghĩa tự do. Ông đóng góp cho nhân loại con đường thực nghiệm đi đến tri thức. Tư tưởng về chủ nghĩa tự do và khế ước xã hội của ông ảnh hưởng trực tiếp tới Voltaire, Montesquieu.
Trong nhận thức luận, ông xem con người bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh giống như khi sinh ra chỉ là tờ giấy trắng mà sự trải nghiệm tự do viết lên đó. Khi con người suy nghĩ, đối tượng của sự hiểu biết chính là ý niệm. Và ý niệm bắt nguồn từ kinh nghiệm (hay trải nghiệm). Kinh nghiệm có hai dạng, một dạng là thực tại bên ngoài qua các giác quan mà con người có được những ý niệm đơn về sự vật và quá trình xung quanh. Một dạng khác chính là sự suy nghĩ cho ta biết sự vận động bên trong tâm thức của chúng ta, hay nói cách khác qua suy nghĩ hay hồi tưởng mà ta có được những ý niệm mới dựa trên những ý niệm đơn giản đã có từ trước trong tâm thức chúng ta. Vì vậy, suy nghĩ cũng là một dạng nhận thức nội tại. Các ý niệm đều có nguồn gốc từ cảm giác, suy nghĩ.
Từ kinh nghiệm, con người có được những ý niệm đơn. Khi đã trữ đầy nhiều ý niệm đơn, tâm thức con người có thể kết hợp chúng lại thành những ý niệm phức. Ý niệm đơn không thể do con người tự tạo ra, chúng chỉ có thể có từ kinh nghiệm, trong quá trình nhận thức đó, tâm thức con người ở trạng thái thụ động. Còn khi kết hợp các ý niệm đơn thành nhiều kiểu ý niệm phức, tâm thức con người ở trạng thái hoạt động. Chính vì vậy ông được xem là người theo chủ nghĩa kinh nghiệm do quan niệm không có thứ gì trong thế giới tâm thức mà lại không ở dạng ý thức trước đó, khi ý thức được mở rộng để bao hàm cả sự suy nghĩ.
Locke cũng xem các ý niệm đơn chính là phản ánh sát nhất của thực tại. Con người càng suy nghĩ làm giàu thêm những ý niệm mới thì càng đi xa thực tại bấy nhiêu. Tuy nhiên các ý niệm này không cùng mức độ ý nghĩa với thực tại. Có ý niệm đơn như màu sắc, mùi vị, âm thanh không có sự tương đồng với vật thể trong đó nhưng có thuộc tính về hình ảnh, về chuyển động của vật thể không cảm thấy được, tức là có “sức mạnh để tạo ra sự cảm nhận trong chúng ta” và được gọi là đặc tính thứ cấp của vật thể. Mặt khác, những khái niệm như sự vững chắc, hình ảnh, chuyển động cũng là những ý niệm đơn nhưng lại có sự tương đồng với đặc trưng của vật thể, “mẫu hình của chúng tồn tại thực bên trong bản thân vật thể và do vậy chúng là đặc tính sơ cấp của vật thể”.
Bản chất của ngôn ngữ là liên hệ với các ý niệm và đóng vai trò quan trọng trong tìm kiếm tri thức. Ông xem ngôn từ chỉ là để giao tiếp và cần phân biệt cái danh và cái thực chất. Trong tự nhiên không hề có biên giới rõ ràng nào và luôn tồn tại các trường hợp nằm ở vùng giáp ranh. Do vậy cái thực chất không thể được hiểu chỉ thông qua việc đưa ra ngữ nghĩa của tên gọi được dùng để chỉ thực thể.
Locke xem tri thức là “nhận thức về sự chuyển tiếp, chấp nhận hoặc không chấp nhận về bất kỳ một ý niệm nào trong các ý niệm của chúng ta”. Sự chấp nhận hay không chấp nhận được chia thành bốn loại: đồng nhất hoặc đa dạng; quan hệ; cùng tồn tại hoặc chuyển tiếp nếu cần thiết; và sự tồn tại thực. Locke cũng phân biệt hai mức độ của tri thức: trực giác và chứng minh. Trong trực giác, sự đồng ý hay không được nhận thức ngay. Còn với loại sau, nó được nhận thức thông qua sự trung gian điều hòa của một ý niệm thứ ba, tuy nhiên từng bước của chứng minh cũng vẫn là trực giác khi sự chấp nhận hay không được nhận thức tức thì. Ông xem toán học và luân lý học thuộc loại chứng minh. Về cái tôi, Locke cùng quan điểm với Descartes: sự tồn tại của cái tôi được biểu hiện trong mọi trạng thái ý thức.
Bên cạnh hai dạng tri thức trên, Locke đề cập đến một dạng tri thức thứ ba, đó là sự hiểu biết không phải về Chúa trời và về cái tôi mà là tri thức về cái khách thể thực hay thế giới bên ngoài qua sự lĩnh hội của cảm giác. Cuối cùng, Locke đưa ra cái gọi là lương tri, để phân biệt với tri thức khi tâm thức con người ngay lập tức đi đến sự chấp nhận hay không trước một ý niệm mà không đòi hỏi “phải có bằng chứng chứng minh trong quá trình nhận thức”.
Lý thuyết về quyền tự nhiên và khế ước xã hội là cốt lõi cơ bản trong quan điểm của ông về nhà nước và tổ chức nhà nước. Quyền tự nhiên trước tiên là quyền mưu cầu sinh tồn của con người. Ông quan niệm tài sản là quyền tự nhiên và sinh ra do lao động. Chính lao động sinh ra giá trị tài sản của một vật thể. Và tài sản là tính có trước cả nhà nước và do vậy nhà nước không có quyền can thiệp.
Ông quan niệm lao động tạo ra của cải, nhưng của cải cũng có giới hạn khi tích lũy vì khả năng sản xuất và tiêu thụ có hạn của con người. Để giải quyết vấn đề này cần có lưu thông tiền tệ. Tiền tệ khiến việc tích lũy là có thể mà tránh không bị lãng phí hay hư hỏng như khi tích lũy hàng hóa. Ông cho rằng bất bình đẳng sinh ra chính là do sự thỏa thuận ngầm trong việc sử dụng tiền tệ chứ không phải từ khế ước xã hội trong xã hội văn minh hay do các luật lệ điều chỉnh quyền sở hữu đất đai. Ông cũng nhận thức được vấn đề sẽ có khi việc tích lũy không có giới hạn, nhưng mới chỉ ám chỉ rằng chính quyền cần điều hòa mâu thuẫn giữa việc tích lũy của cải không có giới hạn với việc phân phối của cải bình đẳng hơn, mà chưa hề đề cập đến những nguyên tắc theo đó chính quyền làm được việc này.
Theo ông, nguồn gốc của thể chế nhà nước không chỉ xuất phát từ nhu cầu kinh tế. Cũng như Hobbes, Locke quan niệm trong trạng thái tự nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng và độc lập, không ai có quyền làm tổn hại đến người khác, mọi người đều có quyền trừng phạt kẻ vi phạm. Xã hội văn minh ra đời nhằm mục đích quản trị tốt hơn, do vậy nhà nước hay hệ thống chính quyền ra đời được thể chế bằng “khế ước xã hội”. Vì thế, quyền lực của nhà nước là có giới hạn, và nhà nước có nghĩa vụ đối với người dân. Ngoài ra, quyền lực của nhà nước có thể bị thay đổi bởi chính người dân, người bị trị, những người đã trao quyền cho nhà nước.
Ông còn cho rằng con người vốn ích kỷ và đầy ham muốn vì vậy mà ngay từ thời ở trạng thái tự nhiên, khi nhà nước chưa ra đời, con người bên cạnh quyền tự nhiên của mình đã tự cho mình quyền xét xử và trừng phạt kẻ khác để duy trì luật của tự nhiên. Do đó, khi xã hội văn minh ra đời với thể chế nhà nước là hệ quả của khế ước xã hội, là một bước tiến văn minh hơn và giúp duy trì luật của tự nhiên thông qua luật lệ của xã hội văn minh. Thậm chí ngay cả một nhà nước chuyên chế do vua chúa cai trị cũng vẫn phải thực hiện đúng các chức năng của khế ước xã hội như một chính quyền dân sự nếu không muốn bị diệt vong. Chức năng của một chính quyền dân sự hợp lẽ là phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người, tức là quyền của mỗi công dân được sống, được tự do, có sức khỏe và của cải. Ông cũng phân biệt quyền hạn của nhà nước do thế tập với quyền hạn chính trị và độc tài. Quyền thế tập là hạn chế còn quyền hạn chính trị là lấy từ quyền của mỗi cá nhân để đảm bảo việc thực hiện luật của tự nhiên. Quyền của độc tài thì ngược lại, lấy quyền sống, tự do, sức khỏe và cả một phần của cải của người khác để phục vụ cho quyền lực của mình.
Theo quan điểm của Locke về khế ước xã hội, nhà nước không cần có quá nhiều quyền lực, vì như vậy chỉ khiến người dân bị đè nén. Ông cũng nhận thấy nguy cơ của quyền lực tuyệt đối, quyền của độc tài dù trao cho một cá nhân hay một nhóm người. Dạng nhà nước tốt nhất chính là quyền lực của hệ thống chính quyền được hạn chế bằng cách chia thành các nhánh, mỗi nhánh có quyền hạn riêng đủ cần thiết để thực hiện chức năng của mình. Ông cho rằng một hệ thống nhà nước cần có quyền xét xử độc lập mà việc ra quyết định được thực hiện chỉ dựa trên duy nhất hiến pháp của quốc gia. Ông tin rằng trách nhiệm của quốc hội là lập pháp và nhiệm vụ của nhà vua là hành động như một người chấp pháp tối cao.
Cơ cấu nhà nước đối với Locke không quan trọng bằng quyền lập pháp - quyền quyết định trật tự xã hội và phúc lợi chung qua việc đặt ra luật lệ về việc chuyển nhượng, bảo toàn và thu nhận tài sản - phải được thực hiện theo cách mà mọi người đều đồng thuận. Vì luật lệ duy trì một thời gian dài sau khi được thiết lập, nên cơ quan lập pháp không cần phải họp thường xuyên nhưng nhánh hành pháp nơi chịu trách nhiệm đảm bảo luật pháp được thực thi cần được duy trì hoạt động liên tục trong xã hội. Chức năng hành pháp được thực hiện bởi các quan chức, các vị bộ trưởng mà quyền lực của họ được trao từ nhánh lập pháp. Khi nhánh lập pháp ngừng hoạt động, cơ quan hành pháp có đặc quyền xử trí tình hình khẩn cấp khi chưa có luật lệ quy định cho những tình huống này. Locke cũng đề cập: nếu lạm dụng đặc quyền này sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định và trật tự của quốc gia. Khi đó một trật tự mới, một khế ước xã hội mới sẽ ra đời để thực hiện quyền phán xét tối cao theo đúng luật của tự nhiên.
Quan điểm về tôn giáo của Locke là phải khoan dung. Một xã hội mới muốn thực hiện tốt chức năng của nó cần phải thống nhất không phải bằng một tôn giáo mà bằng lòng khoan dung. Và do vậy nhà thờ cần phải là các tổ chức tự nguyện chứ không gắn liền với nhà nước như Nhà thờ Anh giáo.
Locke là người đặt ra nguyên tắc khoan dung đối với tôn giáo. Quan điểm của Locke về khoan dung tôn giáo phù hợp với quan điểm của ông về chính quyền dân sự. Ông cho rằng quyền sống, tự do, sức khỏe và của cải là các quyền lợi dân sự và đây cũng là các quan tâm của chính quyền dân sự và các quan tòa. Các quan tòa có thể dùng sức mạnh và bạo lực nếu cần để duy trì các lợi ích dân sự và để chống lại bạo lực phá vỡ những quyền trên, đấy là chức năng của nhà nước. Còn đối với mối quan tâm tới sự cứu rỗi thì đấy không phải là lợi ích dân sự và nằm ngoài quyền hạn của chính quyền dân sự và các quan tòa. Trên thực tế, Locke đã bổ sung vào các quyền tự nhiên như quyền sống, quyền tự do, quyền có sức khỏe và của cải một thứ quyền nữa - đấy chính là quyền tự do lựa chọn con đường cứu rỗi của riêng mình. Ông cũng xem sự can thiệp của nhà nước để duy trì niềm tin đều không hợp lẽ vì sức mạnh mà quan tòa sử dụng không phải là phương tiện hiệu quả để thay đổi niềm tin, chỉ có nhà thờ chân chính mới có quyền lực đó, nhưng mỗi nhà thờ đều cho rằng chính nhà thờ của mình mới là chân lý, trong khi không ai ngoài Chúa có thể phán xét điều này. Do vậy, điểm cốt lõi trong biện luận của ông về khoan dung tôn giáo là sự hoài nghi về khả năng hiểu biết tôn giáo.