V
ladimir Ilyich Lenin là một nhà lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga. Ông là nhà lý luận thiên tài, là người lãnh đạo của giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động thế giới, người sáng tạo chủ nghĩa Marx trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản, người sáng lập Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước xã hội.
Lenin sinh tháng 4 năm 1870 ở Simbirsk (nay là Ulyanovsk), cha ông là Ilia Nikolaevich Ulyanovsk, thanh tra các trường tiểu học tỉnh Simbirsk. Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1887, Lenin vào học trường Đại học luật ở Kazan, nhưng không lâu sau ông bị bắt vì đã tích cực tham gia phong trào cách mạng của sinh viên. Sau đó ông bị đuổi khỏi trường và đày đi Shushenskoye trong 3 năm. Được phép trở về, thời gian này ông đã nghiên cứu bộ “Tư bản” và gia nhập một nhóm Mácxít. Mùa thu 1889, ông đến ở Xamara và tiếp tục nghiên cứu các tác phẩm của Marx và Engels. Năm 1891, ông thi vào trường Đại học luật ở Peterburg với kết quả xuất sắc. Lenin tổ chức nhóm Mácxít đầu tiên ở Xamara. Hồi đó, Lenin đã khiến mọi người kính phục vì ông hiểu biết rất sâu sắc về chủ nghĩa Marx. Ngày 31 tháng 8 năm 1893, ông đến Peterburg và trở thành người lãnh đạo của những người Mácxít ở thủ đô. Năm 1894, ông viết tác phẩm lớn đầu tiên, một bản tuyên ngôn chân chính của người cộng sản Nga, Những người “bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao.
Với tác phẩm này, Lenin đã “lột” mặt nạ bọn dân tuý, những “bạn dân” giả dối, chống lại nhân dân... vạch ra con đường mà giai cấp công nhân phải theo, xác định giai cấp công nhân đóng vai trò là lực lượng cách mạng tiên phong trong xã hội và nông dân là bạn đồng minh của giai cấp công nhân. Năm 1895, ông tập hợp tất cả các nhóm công nhân Mácxít Peterburg thành lập “Hội liên hiệp đấu tranh để giải phóng giai cấp công nhân”, hội này là mầm mống của Đảng vô sản cách mạng Nga.
Cuối năm 1895, Lenin bị bắt. Tuy ở trong tù, nhưng ông vẫn tiếp tục lãnh đạo “Hội liên hiệp đấu tranh”. Năm 1897, trong thời gian bị đày đi Xibêri, ở làng Susenxcôi, huyện Minútxinxcơ tỉnh Iênítxêixcơ, ông đã viết cuốn Nhiệm vụ của những người xã hội - dân chủ Nga, hoàn thành tài liệu nghiên cứu bắt đầu từ khi ở tù: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” (xuất bản năm 1899). Đầu năm 1900, ông trở về và tháng 7 năm đó thì ra nước ngoài và xuất bản tờ báo “Tia lửa”, tờ báo chính trị Mácxít cách mạng đầu tiên cho toàn nước Nga.
Tờ Tia lửa đã góp phần đánh bại kẻ thù nhằm sáng lập, tập hợp các nhóm riêng rẽ vào Đảng công nhân xã hội dân chủ duy nhất của nước Nga. Chính nhờ có sự tham gia của Lenin mà Đại hội lần thứ II Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga đã thảo ra và thông qua cương lĩnh cách mạng của đảng Mácxít. Bất chấp sự phản đối của bọn cơ hội chủ nghĩa, lần đầu tiên yêu sách về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản vẫn được ghi vào cương lĩnh của đảng xã hội - dân chủ.
Tháng 3 năm 1902, Lenin cho xuất bản cuốn “Làm gì” phê phán chủ nghĩa kinh tế và lý luận tôn sùng tính tự phát của chủ nghĩa đó, đặt nền tảng tư tưởng cho đảng Mácxít. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng xã hội - dân chủ Nga (tháng 7 năm 1903), Lenin khẳng định sự thắng lợi của chủ nghĩa Marx đối với chủ nghĩa cơ hội và tập hợp chung quanh mình những người Mácxít cách mạng. Cuộc đấu tranh vĩ đại của Lenin nhằm sáng lập một đảng cách mạng vô sản chân chính đã đạt nhiều thắng lợi. Trong cuộc đấu tranh chống phái Mensêvích tại Đại hội lần thứ I cũng như sau này, Lenin đã vạch ra những nguyên tắc tổ chức của Đảng cộng sản, một đảng kiểu mới, khác với các đảng cải lương của Quốc tế thứ hai. Tháng 5 năm 1904, cuốn “Một bước tiến, hai bước lùi” của Lenin được xuất bản có một tác dụng rất quan trọng đối với việc xác định những nguyên tắc tổ chức của chủ nghĩa Bônsêvích. Lần đầu tiên trong lịch sử, Lenin nêu rõ học thuyết về đảng Mácxít, tổ chức lãnh đạo của giai cấp vô sản, vạch trần chủ nghĩa cơ hội và hành động phá hoại tổ chức do báo “Tia lửa mới” của phái Mensêvích tiến hành.
Trước ngày cách mạng 1905 - 1907, trong cuộc đấu tranh chống phái Mensêvích phá hoại tổ chức như Axenrốt, Máctốp, Tơrốtxki... Lenin đã lập ra tờ “Tiền tiến” - cơ quan ngôn luận của Đảng Bônsêvích. Ông chuẩn bị cho Đảng nắm quyền lãnh đạo cuộc cách mạng sắp nổ ra. Đầu tháng 11 năm 1905, Lenin trở về Nga để lãnh đạo trực tiếp cuộc cách mạng. Ông đấu tranh chống lại phái dân chủ lập hiến (chính đảng chủ yếu của giai cấp tư sản Nga), nhóm xã hội - cách mạng, Mensêvích, Tơrốtxki - những kẻ cản trở sự phát triển của cách mạng, kêu gọi khởi nghĩa võ trang lãnh đạo toàn bộ cuộc chiến đấu của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm lịch sử “Hai sách lược của Đảng xã hội - dân chủ trong cách mạng dân chủ” xuất bản tháng 7 năm 1905, ông đặt cơ sở cho sách lược cách mạng của Đảng Cộng sản và nêu lên một quan niệm mới về quan hệ giữa cách mạng tư sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa; xác định quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng dân chủ tư sản, biến cuộc cách mạng này thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ông đưa ra lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa, không phải do giai cấp vô sản độc lập tiến hành chống toàn bộ giai cấp tư sản, mà do giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo, cùng quần chúng lao động tiến hành.
Sau khi cách mạng thất bại, Lenin lại một lần nữa buộc phải ra nước ngoài (tháng Chạp năm 1907). Trong thời gian đó, ông xiết chặt hàng ngũ những người Bônsêvích trong cuộc đấu tranh chống lại những kẻ “thủ tiêu” muốn thủ tiêu chính đảng bí mật, chống “ốtdôvít” phản đối việc lợi dụng những phương tiện hợp pháp, chống Tơrốtxki; ông dốc lòng rèn luyện một đảng kiểu mới, một đảng cách mạng Mácxít. Tác phẩm của Lenin “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” xuất bản năm 1909 có một ý nghĩa quan trọng bậc nhất đối với việc chuẩn bị tư tưởng cho một đảng như thế. Đó là sự khẳng định các nguyên tắc lý luận của đảng Mácxít - chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Những cố gắng của Lenin nhằm lập ra một đảng kiểu mới kết thúc bằng việc khai trừ phái Mensêvích, ra khỏi Đảng công nhân xã hội - dân chủ Nga, tập hợp những người Bônsêvích thành một đảng độc lập tại Hội nghị “Pơraha” (1912). Năm 1912, theo sáng kiến của công nhân Peterburg, tờ nhật báo Bônsêvích hợp pháp, tờ Sự thật ra đời, Lenin chuyển đến ở Cơracôvi, gần nước Nga hơn, để lãnh đạo trực tiếp công tác cách mạng. Bị cảnh sát nước Áo bắt rồi lại được tha, Lenin đến Thụy Sĩ. Tại đây, ông đã thảo ra lý luận và sách lược cùng Đảng Cộng sản trong các vấn đề chiến tranh, hòa bình và cách mạng. Năm 1916, ông viết tác phẩm nổi tiếng “Chủ nghĩa đế quốc”, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, nêu lên quy luật về sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, vạch rõ chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản giãy chết, là đêm trước của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong các tác phẩm “Về khẩu hiệu Liên bang châu Âu” (1915) và “Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô sản” (1916), ông đã đi đến kết luận, chủ nghĩa xã hội có khả năng thắng lợi trước hết trong một nước riêng rẽ, và chủ nghĩa xã hội không có khả năng thắng lợi cùng một lúc trong tất cả các nước hay phần lớn các nước tư bản. Ông chủ trương biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến, vạch mặt và đả kích tính giả dối của nhóm lãnh đạo Quốc tế thứ hai phản bội giai cấp vô sản, bảo vệ giai cấp tư sản lột mặt nạ phái xã hội sô vanh và Tơrốtxki, tiếp tục phát triển thêm những nguyên lý triết học và lý luận của chủ nghĩa Marx. Những bút ký và trích đoạn của ông viết thời kỳ này, sau này được tập hợp thành tập “Bút ký triết học”, là một cống hiến quý báu cho triết học Mácxít.
Sau khi chế độ Nga hoàng bị lật đổ vào tháng 2 năm 1917, Lenin trở về Nga, đến Pêtơrôgrát ngày 3 tháng 4. Việc Lenin về nước là một sự kiện quan trọng đối với Đảng, với cách mạng. Ngày 4 tháng 4, ông đưa ra bản “Luận cương tháng tư” nổi tiếng, phát triển cương lĩnh thiên tài, cương lĩnh đấu tranh để biến cách mạng dân chủ tư sản thành cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới khẩu hiệu “Toàn bộ chính quyền vào tay các Xô Viết!” Sau vụ đàn áp cuộc biểu tình hòa bình tháng Bảy, Chính phủ lâm thời ra lệnh bắt Lenin. Ông bắt buộc phải rút vào bí mật. Tuy phải sống trong vòng bất hợp pháp, Lenin vẫn tiếp tục lãnh đạo Đảng. Chính lúc đó, ông viết cuốn “Nhà nước và cách mạng”. Trong đó, ông phát triển học thuyết của Marx và Engels về chuyên chính vô sản, vạch rõ sự cần thiết phải phá huỷ bộ máy Nhà nước tư sản thay thế bằng nền cộng hòa Xô Viết. Tháng 9 năm 1917, những người Bônsêvích chiếm đa số trong Xô Viết Peterograt và Matxcova, Đảng lại đưa ra khẩu hiệu “Toàn bộ chính quyền vào tay các Xô Viết”. Trong một loạt bài báo và thư từ gửi Ủy ban Peterograt và Matxcova, Lenin kêu gọi khởi nghĩa võ trang giành chính quyền, vạch kế hoạch cụ thể cho việc khởi nghĩa. Những thư từ của Lenin được phân phát thành chỉ thị cho các tổ chức địa phương. Ngày 7 tháng 10, Lenin bí mật từ Phần Lan về Peterograt và ngày 10 tháng 10, Trung ương Đảng thông qua nghị quyết khởi nghĩa võ trang do Lenin đề nghị. Đêm 25 tháng 10, Lenin đến cung điện Xmônny và chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Ngày 26 tháng 10 (8 tháng 11) tại phiên họp của Đại hội Xô Viết lần thứ II, ông đọc diễn văn thể hiện những sắc lệnh lịch sử về hòa bình và ruộng đất. Lenin trở thành Chủ tịch Hội đồng các uỷ viên nhân dân, chính phủ đầu tiên của công nhân và nông dân do Đại hội bầu ra.
Lenin dốc toàn lực vào việc xây dựng Nhà nước Xô Viết, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông vạch ra con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong cuốn “Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết” (1918). Trong vụ mưu sát ngày 30 tháng 8 năm 1918, do bọn xã hội cách mạng đồng lõa với Tơrốtxki và Bukharin tổ chức, Lenin bị thương nặng. Trong những điều kiện vô cùng khó khăn, giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã bảo vệ và cứu thoát nền cộng hòa Xô Viết trẻ tuổi chống lại thế lực phản cách mạng trong và ngoài nước. Cả nước trở thành một chiến hào, toàn bộ sinh hoạt kinh tế, chính trị và văn hóa được tổ chức lại cho thích hợp với yêu cầu của chiến tranh; Hồng quân được thành lập. Trong cuộc đấu tranh lâu dài và gay go trong nội chiến, Hồng quân đánh bại bọn can thiệp và bọn bạch vệ. Những cố gắng của Lenin nhằm tập hợp và tổ chức các lực lượng của vô sản thế giới đã sáng lập ra Quốc tế thứ ba tức Quốc tế cộng sản năm 1919. Lenin vạch ra cương lĩnh mới của Đảng Cộng sản Nga, được Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua. Bản báo cáo của ông tại Đại hội đã thể hiện đường lối mới của Đảng, chuyển chính sách trung lập trung nông sang chính sách liên minh vững chắc với họ. Trong tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời kỳ chuyên chính vô sản” (1919), Lenin làm sáng tỏ các vấn đề quá độ từ chính trị tư bản sang chủ nghĩa xã hội.
Trong bài “Sáng kiến vĩ đại” (1919), ông làm nổi bật những đặc điểm chủ yếu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vạch rõ những ngày thứ Bảy cộng sản (sáng kiến của công nhân Matxcova tổ chức đi làm ngoài giờ vào ngày thứ Bảy, không lĩnh tiền công) cho nước Cộng hòa, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong thái độ đối với lao động và chế độ sở hữu Xã hội chủ nghĩa, chứa đựng những mầm của cái mới và có ý nghĩa là “bước đầu thực tế của chủ nghĩa cộng sản”.
Nội chiến chấm dứt, Lenin lãnh đạo khôi phục kinh tế quốc dân, lập kế hoạch điện khí hóa. Ông vạch ra kế hoạch nổi tiếng về chính sách kinh tế trong thời kỳ chuyên chính vô sản và lãnh đạo bước quá độ từ chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới. Lenin đấu tranh kịch liệt chống Tơrốtxki, Bukharin và những phe phái thù địch khác phá hoại sự thống nhất và tính chiến đấu của Đảng; luôn chú ý thắt chặt hàng ngũ Đảng, xem lãnh đạo tập thể là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, khuyến khích mở rộng phê bình và tự phê bình. Mùa xuân năm 1920, Lenin viết cuốn “Bệnh ấu trĩ ‘tả khuynh’ trong phong trào cộng sản”, một tác phẩm kiệt xuất về chiến lược và sách lược của chủ nghĩa Lenin. Theo đề nghị của Lenin, Đại hội Đảng lần thứ X (1921) thông qua nghị quyết về sự thống nhất trong nội bộ Đảng, về việc thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực. Tháng 3 năm 1922, Lenin viết bài ý nghĩa của chủ nghĩa duy vật chiến đấu, trong đó ông vận dụng tài tình tính đảng vào lý luận và triết học. Ngày 20 tháng 1 năm 1922, tuy ốm nặng, ông vẫn đọc diễn văn tại Hội nghị toàn thể Xô Viết Matxcova, trình bày các chính sách đối nội và đối ngoại với lời kết luận: “Từ nước Nga của chính sách kinh tế mới sẽ nảy ra nước Nga xã hội chủ nghĩa”. Đó là diễn văn cuối cùng của ông trước toàn quốc.
Năm 1923, trong một loạt bài có tác dụng rất lớn “Những trang nhật ký”, “Bàn về chế độ hợp tác”, “Về cách mạng nước ta”, “Cải tổ Viện kiểm tra công nông như thế nào”, “Thà ít mà tốt”, Lenin tổng kết công tác đã tiến hành trong các năm cách mạng, vạch ra con đường phát triển về sau của cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Trong khi vạch rõ đất nước Xô Viết có đủ tất cả những cái cần thiết để xây dựng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn, ông chỉ cho Đảng con đường phải theo trong nhiều năm tới. Ông thảo ra một cương lĩnh có căn cứ khoa học cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, gồm công nghiệp hóa quốc gia, cải tạo nông thôn theo chủ nghĩa xã hội, cách mạng văn hóa. Do điều kiện sinh hoạt gian khổ, làm việc nhiều và hậu quả của lần bị thương nặng, đã làm cho sức khỏe ông ngày một giảm sút. Ngày 21 tháng 1 năm 1924, Lenin qua đời ở Goócki gần Matxcova.
Nói tới các tác phẩm của Lenin, chúng ta không thể không nói tới tác phẩm “Bút ký triết học”. “Bút ký triết học” gồm những đoạn dài trích ở nhiều tác phẩm triết học khác nhau (chủ yếu là trong những năm từ 1914 đến 1916). Ngoài những đoạn tóm tắt nội dung các tác phẩm đã đọc, Lenin còn kèm thêm những nhận xét có tính chất phê phán, những kết luận và khái quát rất quan trọng. “Bút ký triết học” gồm những bài ghi chép về những tác phẩm sau đây: “Gia đình thần thánh” của Marx và Engels; “Những bài giảng về bản chất của tôn giáo” của Feuerbach; “Khoa học về logic”, “Những bài giảng về lịch sử của triết học” của Hegel; “Triết học của con người buồn rầu” Heraclitus ở Êphedơ của Lát xan; “Siêu hình học”của Aristotle. Đoạn bàn về phép biện chứng trong cuốn “Bút ký triết học” trình bày vắn tắt và rõ ràng thực chất của phép biện chứng duy vật. Khi phân tích cuốn “Gia đình thần thánh” của Marx và Engels, Lenin đã nêu bật lên sự phê phán sáng suốt của hai ông đối với triết học duy tâm của Hegel và phái Hegel trẻ. Ông nhấn mạnh ngay trong cuốn sách, Marx và Engels đã đi gần tới Chủ nghĩa xã hội khoa học. Khi phân tích cuốn “Những bài giảng về bản chất của tôn giáo” của Feuerbach, Lenin đã làm nổi bật sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa duy vật của Marx và Engels với chủ nghĩa duy vật của Feuerbach. Những phân tích về tác phẩm của Hegel là kiểu mẫu về sự phê phán có tính chiến đấu chống phép biện chứng duy tâm của Hegels. Lenin nhấn mạnh chỗ khác nhau căn bản giữa phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm. Tính đảng của ông trong triết học, nhiệt tình cách mạng và thái độ không nhượng bộ của ông trong việc phê phán những mặt phản cách mạng trong triết học của Hegels, đều biểu hiện một cách rõ ràng, nhưng đồng thời ông cũng nhấn mạnh những cái có giá trị trong phép biện chứng của Hegels. Ông nói, cái hợp lý trong triết học của Hegels là lý luận về “tự thân vận động”, về sự phát triển vĩnh viễn thông qua cuộc đấu tranh của những mặt đối lập.
Vấn đề trung tâm của “Bút ký triết học” là phép biện chứng. Lenin đã làm giàu và làm rõ ràng thêm lý luận về biện chứng duy vật. Ông đã đưa ra những định nghĩa rất sâu sắc làm sáng tỏ bản chất của phương pháp đó về mọi mặt. Những điều chỉ dẫn của Lenin về tính thống nhất của phép biện chứng, của logic và của nhận thức luận đã góp phần rất lớn vào sự phát triển của triết học. Chống lại phái duy tâm và siêu hình, tách quy luật của tư duy ra khỏi quy luật của thế giới khách quan, coi logic như là một khoa học về những hình thức trống rỗng của tư duy, Lenin xem tư duy phản ánh thế giới khách quan, quy luật của tư duy phù hợp với quy luật của tự nhiên. Có thể nói “Bút ký triết học” là một kho những quan niệm sâu sắc về tất cả các vấn đề triết học, phê phán bất khả tri luận của Căng. Phê phán logic siêu hình, định nghĩa Mácxít về logic và về những phạm trù của logic. Vạch rõ quá trình biện chứng của nhận thức, nêu rõ bản chất của phép biện chứng và những yếu tố cơ bản của biện chứng... “Bút ký triết học” có nhiều điều chỉ dẫn quan trọng về việc xây dựng logic biện chứng. Về mặt này, điểm đặc biệt quan trọng là những nhận xét của Lenin về sự thống nhất trong logic, giữa lịch sử tư tưởng với những quy luật của tư duy, về sự cần thiết phải tổng kết theo quan điểm triết học lịch sử của kỹ thuật, của những khoa học tự nhiên, của sự phát triển trí lực của trẻ con và của loài vật... mới có thể xây dựng được một lý luận đúng về nhận thức. Việc phân tích cuốn “Những bài giảng về lịch sử triết học” của Hegels rất đáng chú ý. Lenin chỉ ra rằng, lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, phê phán mạnh Hegels vì Hegels đã dèm pha chủ nghĩa duy vật và tán dương chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học. Khi nhận xét những tác phẩm bàn về khoa học tự nhiên, ông đã tố cáo dã tâm muốn nhét chủ nghĩa duy tâm vào khoa học tự nhiên và vạch trần tính chất giai cấp trong những dã tâm đó.
Một tác phẩm khác của Lenin mở đầu một thời đại mới trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng là cuốn Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Cuốn sách viết năm 1908 và xuất bản năm 1909, chuẩn bị lý luận cho đảng Mácxít kiểu mới. Lý do trực tiếp làm cho Lenin quyết định viết tác phẩm này là sự cần thiết phải vạch mặt nhóm người Nga theo chủ nghĩa Ma khơ, đã viện cớ “bảo vệ chủ nghĩa Marx” để chống lại triết học Mácxít. Một nhiệm vụ cấp thiết đề ra cho những người Mácxít là: phải giáng một đòn thật mạnh vào tất cả những kẻ phản bội lý luận Mácxít và bảo vệ những cơ sở lý luận của đảng Mácxít. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lenin đã hoàn thành nhiệm vụ đó; ông không những vạch rõ thủ đoạn hai mặt, tính chất phản động của Ma khơ mà còn bảo vệ và phát triển những nguyên tắc lý luận của đảng Mácxít, khái quát những thành quả quan trọng mà khoa học đã đạt được, trước hết là khoa học tự nhiên trong suốt thời kỳ lịch sử, sau khi Engels tạ thế. Tác phẩm này là một mẫu mực của chủ nghĩa Marx sinh động, bao quát tất cả những vấn đề triết học Marx - Lenin.
Trong phần mở đầu, Lenin đã vạch ra hết thảy những phát hiện của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và của các trào lưu phản động khác đều chỉ là một biến thể của chủ nghĩa duy tâm chủ quan của giám mục Anh Béccơli. Trong ba chương đầu, khi phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lenin đã trình bày những vấn đề cơ bản về nhận thức luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Điểm trung tâm của chương I, là vấn đề vật chất là cái có trước và ý thức là cái có sau. Toàn bộ lịch sử khoa học tự nhiên đều chứng thực nguyên lý cơ bản đó. Cũng trong chương này, Lenin đã phát triển thêm một bước những tư tưởng của Engels về việc vật chất hữu cơ phát sinh từ vật chất vô cơ.
Trong chương II, Lenin phê phán bất khả tri luận của Căng, chủ nghĩa tín ngưỡng của Ma khơ, và chứng minh học thuyết Marx về tính có thể biết được của thế giới và quy luật của thế giới, về chân lý khách quan và về thực tiễn được xem là tiêu chuẩn của chân lý.
Ông phân biệt rõ bất khả tri luận và chủ nghĩa duy tâm với chủ nghĩa duy vật, vạch rõ sự đối lập căn bản giữa hai chủ nghĩa đó. Bất khả tri luận, không vượt xa hơn cảm giác. Nó dừng lại ở phía bên này của hiện tượng không thừa nhận bất cứ cái gì có tính chất xác thực ở ngoài cảm giác và cho rằng không thể hiểu biết một tí gì xác thực về sự vật cả. Lenin đã trình bày rõ ràng nhận thức luận Mácxít. Ông nêu ra ba kết luận cơ bản của nhận thức luận: 1. Sự vật tồn tại một cách khách quan và độc lập đối với ý thức của chúng ta; 2. Giữa hiện tượng và “vật tự nó” không có một sự khác biệt có tính cách nguyên tắc nào cả. Chỉ có sự khác biệt giữa những cái đã nhận thức với những cái chưa nhận thức được; 3. Sự nhận thức hiện thực phát triển từ chỗ không biết đến chỗ biết, từ nhận thức không đầy đủ, không chính xác đến nhận thức đầy đủ hơn, chính xác hơn. Lenin đã nêu lên một định nghĩa hoàn chỉnh nhất về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, thực tại khách quan đó là cái mà người ta cảm thấy được, những cảm giác này ghi chụp và phản ánh vật chất đó; thực tại khách quan đó tồn tại một cách độc lập đối với cảm giác”.
Trong chương III, Lenin trình bày một cách tường tận vấn đề tính vật chất và các quy luật của thế giới, vạch ra những lời lẽ rối ren, hồ đồ của Ma khơ che dấu chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Ông nhận xét: “Chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một câu chuyện trá hình và ngụy trang về ma quỷ mà thôi”.
Trong chương IV, Lenin đã nghiên cứu chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán qua sự phát triển lịch sử và những mối liên hệ của nó với những khuynh hướng triết học khác. Ông phê phán tỉ mỉ các biến chủng của chủ nghĩa Ma khơ: “Thuyết kinh nghiệm phù hiệu”, “Thuyết kinh nghiệm nhất nguyên và môn phái nội tại luận”. Lenin còn đặc biệt chú trọng phê phán thuyết kinh nghiệm nhất nguyên của Bốpđanốp, trình bày thế giới một cách duy vật chủ nghĩa: thế giới vật chất tồn tại một cách độc lập với ý thức của con người và đã tồn tại từ lâu trước khi có con người; tinh thần, tức ý thức, là sản phẩm tối cao của vật chất, là cơ năng của bộ óc.
Chương V phân tích cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm vật lý. Trước hết, Lenin giải thích nguyên nhân sinh ra khủng hoảng của khoa học tự nhiên. Hồi thế kỷ XIX, vật lý học cổ điển đã phát triển đến chỗ cao nhất. Chủ nghĩa duy vật đã chiến thắng trong địa hạt này. Tuy nhiên, bước vào đầu thế kỷ XX, những sự phát hiện to lớn đã đảo lộn về căn bản quan điểm vật lý cũ đối với thế giới. Trước kia, các nhà bác học đã giải thích những đặc tính của vật chất theo một ý nghĩa siêu hình; các nhà vật lý học đã nhận rằng, vật chất có những đặc tính không thể cải biến được, cứ mãi mãi như vậy (tính không thể thấm qua, tính ỳ, khối lượng). Những phát hiện mới đã vạch rõ nhiều đặc tính mới của vật chất: điện tử không có khối lượng, theo ý nghĩa thông thường, khối lượng của nó có tính chất điện từ; nguyên tử trước kia tựa như một phần nhỏ vật chất không thể phân chia được, thì nay tỏ ra là một hiện tượng phức tạp hơn. Việc phát hiện ra tính phóng xạ chứng tỏ những nguyên tố trước kia xem như không thể biến đổi, thì nay lại được chuyển hóa lẫn nhau. Những thành tựu phi thường của khoa học tự nhiên, những phát hiện mới trong vật lý học, đã không thể không bó hẹp mãi trong phạm vi những quan niệm máy móc cũ. Muốn thoát khỏi bế tắc đó, các nhà bác học phải tự giác chuyển sang lập trường biện chứng duy vật; nhưng nhiều người trong số đó bị giáo dục theo thế giới quan duy tâm, nên đã rút ra những phát hiện đó những kết luận duy tâm chủ nghĩa, và khẳng định “vật chất đã tiêu vong”. Trong các nhà vật lý học, người ta đã thấy xuất hiện các môn phái duy tâm chủ nghĩa (chủ nghĩa duy tâm vật lý của Ôtvan) tìm cách giải thích những thành tựu của vật lý học theo tinh thần duy tâm chủ nghĩa. Lenin đã khái quát những phát hiện mới trong vật lý học, nêu bật thực chất cuộc khủng hoảng của khoa học tự nhiên, chỉ ra phương pháp thoát khỏi sự khủng hoảng đó bằng con đường duy vật chủ nghĩa, và vạch ra tiền đồ vô hạn đang mở ra trước mặt những khoa học đó. Như vậy, ông đã làm giàu thêm chủ nghĩa duy vật triết học Mácxít và đem lại cho nó một hình thức mới. Lenin đã ứng dụng một cách xuất sắc phép biện chứng vào nhận thức luận và đã phát triển một cách sâu sắc nhận thức luận Mácxít bằng cách làm sáng tỏ nhiều vấn đề căn bản (phản ánh luận - chân lý khách quan và chân lý tương đối, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn).
Việc Lenin đã khái quát những thành tựu của khoa học và phê phán chủ nghĩa Ma khơ, có một ý nghĩa trọng đại đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên. Sự tiến triển sau này của vật lý học và của các khoa học khác, hoàn toàn chứng thực sự phân tích tài tình của ông. Những phát hiện mới mẻ của vật lý học hiện đại không những chứng tỏ sự đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà còn chứng tỏ rằng, nhờ có ánh sáng của những tư tưởng được trình bày trong cuốn “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” mới hiểu rõ và giải thích được những phát hiện đó. Tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” đã vũ trang cho các nhà bác học Xô Viết và tất cả những nhà bác học tiến bộ trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa ngu dân trong khoa học và triết học, vạch cho họ con đường để đạt những cao điểm mới trong bước tiến bộ của khoa học.
Trong chương VI, Lênin phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Ma khơ trên địa hạt xã hội; ông phát triển và làm giàu thêm chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx và Engels. Lenin nêu rõ tính đảng trong triết học, phê phán triệt để những mưu toan của đám triết gia tư sản muốn đứng lên trên các đảng phái chủ yếu trong khi đấu tranh trên địa hạt triết học.