A
belard (1079 - 1142), tên ban đầu là Pierre le Pallet. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ Bretagne tại một làng nhỏ thuộc Le Palet, cách Nantes, Britany khoảng 10 dặm về phía Đông. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã tỏ ra là một người thông minh. Được cha khuyến khích, ông đã nghiên cứu khoa học xã hội và rất xuất sắc ở khoa biện chứng (một môn trong triết học). Môn học này tại thời điểm đó, bao gồm chủ yếu là môn logic của Aristotles được viết bằng tiếng Latin.
Thay vì tham gia vào quân đội như cha mình, Abelard đã trở thành một học giả. Thời gian đầu, Abelard lang thang khắp nước Pháp, tham gia các buổi tranh luận và học tập, trở thành một “giáo viên lưu động” theo cách nói của ông. Nhà triết học Rocelnius là thầy giáo của ông trong thời kỳ này.
Những chuyến đi của Abelard đã đưa ông đến Paris. Tại đây, sau một thời gian ở thánh đường lớn của nhà thờ Đức Bà Paris, ông đã bị Wiliam, một môn đệ của Anslem vùng Laon, người đề xướng thuyết duy thực thuyết phục. Thời gian này ông đã thay đổi họ Abelard của mình, đôi khi viết là “Abailard” hoặc “Abaelardus”. Bằng tài năng của mình ông sớm có khả năng luận chiến và giành thắng lợi trước các học giả bậc thầy, nhưng sau những cuộc tranh luận lâu dài, thuyết duy thực đã sụp đổ. Sau đó vào đầu thời kỳ Trung cổ, thuyết này được Abelard, người theo thuyết khái niệm, hoặc thuyết duy danh, học thuyết đối lập chủ yếu với thuyết duy thực thay thế. Năm 22 tuổi, Abelard thành lập một trường học của riêng ông tại Melun, sau đó, ông chuyển tới dạy ở Coocbei, gần Paris.
Ông đã thành công trong việc thuyết giảng mặc dù ông bỏ việc làm này một thời gian do căng thẳng quá lớn. Sau năm 1108, ông trở về và gặp Wiliam đang thuyết giảng tại Xanh Victo. Tại đây, một lần nữa họ lại trở thành đối thủ. Và lần này, Abelard lại là người chiến thắng tuyệt đối. Wiliam chỉ tạm thời có thể ngăn ông thuyết giảng tại Paris. Từ Melun, nơi ông mở trường để thuyết giảng, Abelard đã tới thủ đô và dựng nên một ngôi trường mới trên ngọn đồi ở Montagne St Genevive, gần nhà thờ Đức Bà Paris.
Từ thành công trong phép biện chứng, ông đã chuyển sang lĩnh vực thần học, tham dự các bài giảng của Anslem tại Laon. Ông có thể thuyết giảng mà không qua đào tạo hoặc nghiên cứu đặc biệt, điều này cho thấy ông là một trong những học giả tài năng. Lúc này, khi đã ở đỉnh cao của sự thành công Abelard trở nên nổi tiếng và ông đã giành được một chân thuyết giảng tại Notre Dame, ông trở thành giáo sĩ khoảng năm 1115.
Do thuyết giảng khác biệt về hình thức và cách biểu hiện, Abelard đã có hàng ngàn học trò theo học, đến từ rất nhiều quốc gia khác nhau. Số học trò theo ông học ngày càng đông, tiếng tăm của ông được biết đến như một nhà triết học duy nhất bất khả chiến bại trên thế giới.
Về cuộc đời ông, có một người phụ nữ luôn được nhắc đến, đó là Heloise, một cô gái sống trong khu vực có tường bao quanh ở nhà thờ Đức Bà Paris, dưới sự giám quản của cha cô, giáo sĩ Fulbert. Heloise là một cô gái có những hiểu biết rất sâu sắc về thư tịch cổ do cô biết tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái. Abelard vừa gặp Heloise đã rung động, ông liền nghĩ cách để tiếp cận với giáo sĩ Fulbert, trở thành thầy giáo của Heloise, sau đó tìm cách chinh phục cô. Việc này đã tạo ra rào cản ngăn trở sự thăng tiến trong sự nghiệp của ông, nhưng Abelard rất tự hào về điều này. Một lần Fulbert phát hiện ra mối quan hệ của hai người và tìm cách tách Heloise ra khỏi Abelart. Tuy nhiên đôi trai gái vẫn bí mật gặp nhau. Khi Heloise mang thai, Abelard gửi cô đến Anh, nơi đây cô đã sinh một bé trai, đặt tên là Astrolabe.
Nhằm xoa dịu Fulbert, Abelard đề nghị Heloise bí mật kết hôn, vì làm như vậy, triển vọng thăng tiến trong sự nghiệp của ông mới được đảm bảo. Ban đầu Heloise phản đối, nhưng sau đó đã đồng ý. Biết chuyện, Fulbert cố phơi bày sự thật về cuộc hôn nhân bí mật này. Để bảo vệ Abelard, Heloise đã tới nhà tu kín Argenteuil, nơi Abelard thuyết phục cô đến. Kết cục, Heloise bị buộc phải trở thành một nữ tu. Thời gian này, Heloise đã viết rất nhiều thư cho Abelard, luôn day dứt với câu hỏi tại sao cô phải chấp nhận một cuộc sống tôn giáo mà cô không bao giờ muốn.
Theo sử gia Mews Constant, cuốn sách “Những bức thư tình của Heloise và Abelard” là một bộ sưu tập gồm 113 bức thư tình vô danh được tìm thấy trong một bản thảo viết tay ở thế kỷ XV, có thể đây là các thư từ trao đổi giữa Heloise và Abelard giai đoạn đầu cuộc tình của họ.
Thời gian sống trong tu viện St Denis, lúc này Abelard đã 40 tuổi, đã tìm cách chôn mình như một tu sĩ với những nỗi thống khổ vô biên. Không thể tìm được một nơi giải thoát trong tu viện, ông đã dần quay về với việc nghiên cứu. Ông mở cửa trở lại trường học của ông tại một tu viện hẻo lánh. Các bài thuyết giảng của ông bấy giờ đóng khung trong một tinh thần mộ đạo và một lần nữa, ông lại có rất đông học trò theo học, ông lại trở nên nổi tiếng dù vẫn còn rất nhiều kẻ thù.
Không lâu sau, ông đã cho xuất bản các bài giảng thần học nhiều hơn so với đối thủ trong việc giải thích duy lý về đức tin và về thuyết ba ngôi. Sau đó, năm 1121, trong một hội nghị tôn giáo được tổ chức tại Soisons, ông bị buộc tội là theo tà giáo. Các giáo sĩ của hội nghị này đã thông qua một điều luật không chính thức lên án việc giảng dạy của ông, buộc ông phải đốt cuốn sách của mình trước khi đóng cửa tu viện Thánh Médard ở Soisons. Đây là trải nghiệm cay đắng nhất đối với ông.
Cuộc sống trong tu viện đã trở nên không thể chịu được đối với Abelard. Cuối cùng, ông được phép rời khỏi tu viện, và đến một nơi hoang vắng gần Nogent sur Seine, ông dựng một túp lều lau sậy, và sống cuộc đời một ẩn sĩ. Song việc rời khỏi tu viện lại khiến ông trở nên nổi tiếng, học trò của ông từ Paris kéo đến và dựng vô số túp lều xung quanh vùng hoang dã nơi ông ở. Khi bắt đầu thuyết giảng lại, ông cảm thấy đã tìm được sự an ủi và lòng biết ơn vì ông đã thể hiện tài hùng biện của một triết gia.
Lo sợ một sự truy đuổi mới, Abelard ngừng thuyết giảng, tìm một nơi ẩn náu và quyết định chấp nhận lời mời của giáo chủ tới chủ trì tu viện St Gil dasderuy ở vùng bờ biển hẻo lánh Hạ Britany. Đây là một vùng không mấy thân thiện, lãnh địa của việc săn bắn bất hợp pháp với những người dân man rợ và hỗn loạn. Tuy vậy, gần 10 năm sống ở đây, ông vẫn tiếp tục đấu tranh chống lại số phận nghiệt ngã của mình.
Nỗi thống khổ cuộc đời ông đã được giảm bớt bởi sự đổ nát của tu viện mà Heloise ở tại Argenteil, đưa cô lên như người đứng đầu một ngôi nhà tôn giáo mới tại vùng hoang dã Paraclete, và do cương vị lãnh đạo, ông thường được mời tới thăm lại tu viện, điều này khiến Heloise ngày càng thân thiết gắn bó với ông. Có thể nói, thời gian này, Heloise đã được sống đàng hoàng và ngày càng có uy tín trong cộng đồng tôn giáo, nơi cô cuối cùng trở thành tu viện trưởng.
Sống cách biệt một thời gian, sau chuyến đi ngắn từ tu viện St Gildas, Abelard đã viết “Lịch sử Calamitatumla”, đây là cuốn sách nổi tiếng của ông. Sau khi cuốn sách ra đời, Heloise đã viết cho ông bức thư đầu tiên, trong đó vẫn không có gì khác hơn là bày tỏ những tình cảm nồng nàn nhân thế và sự chân thành của một người phụ nữ. Sau bức thư này, Heloise còn viết thêm hai bức thư khác, trong thư cuối cùng bà đã chấp nhận từ chức tu viện trưởng, điều mà Abelard đã đề nghị với bà.
Khoảng năm 1136, Abelard quay trở lại nơi đầu tiên ông giành chiến thắng và thuyết giảng trên đồi St Genevieve, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn vì một thử thách cuối cùng đang chờ đợi ông. Ông vội trở lại vùng hoang dã Paraclete. Lúc này, kẻ thù chính của ông - Bernard vùng Clairvau, một trong những người hiện thân cho sự nhiệt tâm và không do dự đức tin, buộc tội nổi loạn. Nhân cớ này, Bernard ra sức xúi giục kích động nhằm trừng phạt con người mà ông ta cho là phạm tội táo bạo nhất này.
Năm 1141, sau các cuộc bàn luận sơ bộ, Bernard đã bị kích động trước sự kiên định vững vàng của Abelard với toàn bộ sức mạnh của ông. Hội đồng thành phố đã phải tổ chức một cuộc họp ở Sens. Trước đó, Abelard chính thức bị buộc tội dị giáo và ông phải chuẩn bị để đưa ra những lời biện hộ. Khi ấy, Bernard lại tiếp tục buộc tội ông khiến ông phải chống án lên Rome. Tuy nhiên, do Bernard là người có quyền chỉ trích buộc tội nên bản án đã được thông qua trong hội đồng mà không được đưa lên tòa án Rome.
Trong khi đó, Abelard tiếp tục gửi đơn thỉnh cầu tới Rome, và vẫn sống trong tu viện ở Clunny. Đây là nơi ông sống lay lắt vài tháng trước khi qua đời.
Bị các tu sĩ xa lánh, để giảm nỗi đau khổ của mình, ông đã tới ở Nhà dòng Thánh Marcel, gần Chalon Saône, rồi mất ở đó. Lúc hấp hối, ông đã thốt lên những lời cuối cùng “tôi không biết”.
Đầu tiên ông được chôn tại Xanh Marcel, sau đó được bí mật đưa đến Paraclete, dưới sự chăm sóc thương yêu của Heloise. Sau này, bà đã tự nguyện nằm yên nghỉ bên ông năm 1163 ở Cimetière du Père Lachaise tại Paris.
Hài cốt của họ đã được di chuyển nhiều lần sau đó, nhưng vẫn được bảo toàn thậm chí trải qua thăng trầm của cuộc Cách mạng Pháp. Giờ đây, người ta cho rằng hài cốt của họ được đặt trong hầm mộ nổi tiếng thuộc nghĩa trang Père Lachaise, phía Đông Paris. Việc di chuyển di hài của họ năm 1817 được đánh giá là đã góp phần làm cho nhiều người tìm đến nghĩa trang này. Theo truyền thống, những người yêu nhau hoặc thất tình thường để các bức thư ở trong hầm mộ, để tỏ lòng tôn kính hoặc với niềm hy vọng sẽ tìm thấy tình yêu thật sự.
Tầm quan trọng nổi bật của Abelard là ở chỗ ông đã dịch nhiều tác phẩm của Hy Lạp cổ đại giúp cho sự hiểu biết của người Tây Âu ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, ông đã khai thác kiến thức ấy để phục vụ cho thần học, vận dụng một cách xuyên tạc học thuyết của các triết gia Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhất là của Aristotles. Ông đã chú thích toàn bộ các tác phẩm của Aristotles thuộc các lĩnh vực logic học, siêu hình học, luân lý học, vật lý học, thiên văn học, địa lý học, động vật học, thực vật học, qua đó chứng minh rằng giáo lý của đạo Kitô không hề trái ngược với triết học và khoa học tự nhiên.
Triết học của ông có đặc điểm là áp dụng phương pháp biện luận cực kỳ rắc rối, rất chú trọng logic hình thức, cho rằng đối với các hiện tượng tự nhiên, người ta không cần phải quan sát, thí nghiệm mà chỉ cần dùng phương pháp tư duy trừu tượng cũng có thể đạt đến chân lý.
Abelard cũng được biết đến với tư cách là một nhà thơ và nhà soạn nhạc. Abelard đã sáng tác một số ca khúc tình yêu dành tặng cho Heloise, các ca khúc này đến nay đã bị thất lạc. Heloise đã ca ngợi những bài hát này trong một bức thư: “Sự quyến rũ tuyệt vời và vị ngọt trong ngôn ngữ và âm nhạc, sức hấp dẫn một giai điệu mềm mại thậm chí không thể diễn đạt bằng lời”.
Sau này Abelard còn soạn cuốn thánh ca dành cho cộng đồng tôn giáo mà Heloise tham gia. Cuốn sách này được viết sau năm 1130, khác với các sách thánh ca đương thời. Các cuốn thánh ca này dày hàng mét, điều này cho thấy giai điệu tương đối ít được sử dụng. Chỉ có một giai điệu từ các tập sách thánh ca này còn tồn tại.