F
laubert (Gustave Flaubert) là nhà văn Pháp, ông là người mở đầu cho trào lưu văn học hiện thực nửa sau thế kỷ XIX ở Pháp. Ông sinh năm 1821 tại Rouen, cha ông là một thầy thuốc giải phẫu. Năm 18 tuổi, ông lên Paris theo học ngành luật. Nhưng sự nghiệp văn chương có sức hấp dẫn đối với ông từ lâu và càng ngày càng trở nên mãnh liệt. Những năm sống ở Paris chính là cơ hội để ông làm quen với giới văn nghệ.
Năm 1845, sau khi cha mất, Flaubert về ở hẳn tại dinh cơ Croaxê, gần Rouen và chuyên tâm vào công việc viết văn. Năm 1849, ông đọc cho bạn bè nghe một truyện ngắn viết theo phương pháp lãng mạn: “Xmar” và được mọi người khuyên ông nên hướng ngòi bút về những đề tài của đời sống hiện thực, ông đã nghe theo.
Bảy năm sau, vào năm 1856, tiểu thuyết “Bà Bovary” ra đời. Từ đó, nhà văn bắt đầu nổi tiếng. Hình ảnh Emma, nhân vật trung tâm của tiểu thuyết, thể hiện một cách cô đọng sự phản kháng của cá nhân chống lại cuộc sống chật hẹp, ti tiện trong xã hội tư sản.
Bà Bovary là cuốn tiểu thuyết hay nhất của Flaubert, cũng là tác phẩm hiện thực phê phán lớn trong văn học Pháp những năm 50-60 thế kỷ XIX. Một số người đã khái quát thành “chủ nghĩa Bovary” với nhiều cách lý giải khác nhau - cho đó là thiên hướng của con người tự tạo ảo tưởng về bản thân, là sự khát khao hạnh phúc hư ảo, hoặc là cách nhìn khắc khổ u ám trong nghệ thuật, chỉ thấy mặt xấu của con người và sự vật... Flaubert chủ trương, nghệ sĩ phải hoàn toàn “khách quan”, chỉ trình bày các biến cố, các cảm nghĩ của nhân vật, không có nhận xét riêng. Toàn bộ tác phẩm là sự lên án gay gắt cuộc sống trưởng giả tầm thường dung tục thời Đế chế II đối lập với những ước mơ lãng mạn của nữ nhân vật. Đồng thời, Flaubert cũng phê phán tính chất tầm thường của chính những ước mơ lãng mạn ấy và miêu tả sự thoái hoá không tránh khỏi của nhân vật sống trong môi trường ti tiện. Sức tố cáo của “Bà Bovary” quá mạnh, khiến Phlôbe bị Toà án thời Đế chế II đưa ra xét xử vì tội “xúc phạm đến đạo đức xã hội và tôn giáo”. Tác phẩm còn nổi tiếng vì ngôn ngữ trau chuốt, vì sự khắc họa nội tâm, ngoại cảnh tinh vi, chính xác. Nhiều đoạn đã trở thành những mẫu mực trong văn xuôi Pháp. Tuy nhiên, “Bà Bovary” cũng bộc lộ những giới hạn của Flaubert, những mầm mống suy đồi của chủ nghĩa hiện thực phê phán nửa sau thế kỷ XIX như thái độ bi quan, chua chát.
Sau đó, năm 1862, ông tiếp tục cho ra đời tác phẩm thứ hai, “Xalambô”, viết về một câu chuyện xảy ra trong khung cảnh đô thị Cactagiơ thời cổ đại. Ngòi bút hiện thực của nhà văn bộc lộ ở chỗ làm nổi rõ cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội trong thời đại xa xưa ấy. Năm 1869, xuất hiện cuốn tiểu thuyết thứ ba: “Giáo dục tình cảm”, miêu tả số phận bi thảm của chàng thanh niên Phrêđêric Môrô trong xã hội tư sản, nhằm tố cáo xã hội tư sản có ảnh hưởng tai hại đến sự hình thành tính cách của cá nhân, biến cá nhân thành kẻ vô dụng. “Giáo dục tình cảm” còn là một bức tranh về đời sống Paris trong những năm 40 của thế kỷ XIX. Flaubert còn viết một vài tác phẩm nữa như “Ba truyện ngắn” (1877), tiểu thuyết “Bouvard et Pecuchet” (chưa hoàn thành, in 1881, sau khi tác giả qua đời).
Flaubert căm ghét xã hội tư sản nên các tác phẩm của ông vạch trần những ung nhọt của nó, xé toang bức màn thơ mộng mà giai cấp tư sản che phủ cuộc sống xấu xa. Đặc biệt, nhà văn khinh bỉ sự nghèo nàn về tâm hồn và tính chất ti tiện, bỉ ổi của chúng. Về mặt này, Flaubertkế tục truyền thống hiện thực phê phán của Bandăc và Xtanhđan. Tuy nhiên, từ sau cách mạng năm 1848, xã hội tư sản tạm thời đi vào thế ổn định. Đó là nguyên nhân phát sinh tư tưởng bi quan khá trầm trọng ở Flaubert. Nhà văn phê phán trật tự tư sản nhưng lại không nhìn thấy một triển vọng nào khác. Flaubert là một nhà văn đặc biệt chú ý đến sự hoàn thiện về phương diện hình thức nghệ thuật. Không có trang nào ông không dụng công sửa đi chữa lại hai, ba, thậm chí mười, mười hai lần. Ông không viết nhiều mà viết kỹ. Tất cả khoảng một chục tác phẩm, trong số đó có ba, bốn kiệt tác. Chủ nghĩa bi quan cũng ảnh hưởng ít nhiều đến quan điểm thẩm mỹ của Flaubert. Nhà văn tuyên bố một thứ “Nghệ thuật thuần tuý”, “nghệ thuật khách quan”, tuy rằng trong thực tiễn sáng tác, ông không bao giờ tách rời nghệ thuật với cuộc sống hoặc khách quan chủ nghĩa; các tác phẩm của ông rõ ràng là những tác phẩm có khuynh hướng.