M
arie Salome Sklodowska sinh ngày 7/11/1867 tại thành phố Varsovie (Ba Lan) trong một gia đình trung lưu, cả cha mẹ đều là nhà giáo. Khi Marie chào đời, gia đình Sklodowski không gặp may mắn, mẹ của Marie mắc chứng bệnh nan y: bệnh ho lao, cho nên tuy yêu thương các con, bà không bao giờ dám ôm hôn chúng. Do thiếu tình thương của mẹ, Marie thường quấn quít bên người chị cả Zosia để nghe các câu chuyện cổ tích. Ngoài ra, Marie còn ưa thích đứng ngắm cái tủ đựng các dụng cụ khoa học của cha cô trong đó có bày nhiều thứ: các ống nghiệm, phong vũ biểu, cân tiểu li, những cục đá địa chất
Năm 1872, khi Marie lên 5 tuổi, nước Ba Lan bị xâu xé bởi ba đế quốc: Nga, Đức và Áo. Quê hương của Marie thuộc khu vực ảnh hưởng của Sa hoàng. Sau cuộc cách mạng nhân dân thất bại năm 1831, vua Nicolas nước Ba Lan, dưới sự giật dây của nước Nga, đã thẳng tay đàn áp các nhà cách mạng ái quốc: cầm tù, đầy ải, tịch biên gia sản. Ngoài ra, chính quyền còn cố tình áp dụng một đường lối giáo dục vô nhân đạo: chính sách ngu dân. Thời bấy giờ, khoa học và triết học bắt đầu phát triển rất mạnh tại châu Âu, vậy mà các tư tưởng của Auguste Comte, Darwin, những phát minh của Pasteur, Faraday... không thể lọt nổi vào nước Ba Lan.
Marie bắt đầu đi học trong bối cảnh lịch sử đó. Thoạt nhìn bề ngoài, cô bé không có vẻ gì là thông minh, xuất chúng mà trái lại, khuôn mặt cô hơi dài, đôi mắt nâu mơ màng, cô bé còn có vẻ hơi chậm chạp. Tuy nhiên, Marie nổi tiếng học giỏi từ thuở nhỏ. Luôn luôn kém các bạn từ 2 tới 3 tuổi mà với môn học nào cô cũng đứng đầu lớp: từ các môn học chính như toán, lịch sử, văn học đến những môn phụ như tiếng Pháp, tiếng Đức và cả Thánh Kinh nữa.
Năm Marie lên 10 tuổi, người chị Zosia mất do mắc phải bệnh truyền nhiễm: bệnh chấy rận. Ít lâu sau, mẹ Marie sau nhiều năm bị vi trùng lao phổi tàn phá, đã từ giã cõi đời, để lại cho người chồng gánh nặng nuôi dạy bốn đứa con thơ: một trai Joseph và các gái Hela, Bronia và Marie, tất cả đều đang trong tuổi đi học.
Năm 1883, Marie tốt nghiệp trung học xuất sắc, được thưởng huy chương vàng. Cô muốn học tiếp nhưng lúc ấy ở Ba Lan phụ nữ không được học đại học, gia đình cô lại gặp khó khăn. Marie đành nhận làm gia sư cho một số gia đình giàu có. Những lúc rảnh rỗi cô tự học toán và vật lý. Lúc đó Joseph đang theo học tại trường Đại học Y khoa, Bronia cũng học xong trung học và muốn trở thành bác sĩ nhưng vào thời đó, trường Y khoa không nhận các nữ sinh viên, vì vậy chị phải xin đi dạy học.
Năm 1884, Bronia sang Pháp theo học tại Đại học ở Paris. Sở dĩ Bronia chọn nước Pháp một phần vì Đại học Sorbonne là một trường có nhiều giáo sư danh tiếng hơn nữa, nước Pháp là một nước tự do. Ở Pháp, mọi ý kiến dị biệt đều được tiếp nhận. Trong khi chị Bronia theo học để trở thành bác sĩ thú y tại Paris thì ở Ba Lan, Marie xin được một chân giáo sư tại một vùng quê hẻo lánh.
Nghề gõ đầu trẻ không phải là nghề mà Marie ưa thích. Sau 6 năm trời kéo dài cuộc sống khó khăn ấy, đến năm 1891, Marie quyết định viết thư cho chị Bronia, xin chị giúp đỡ cho cô sang Pháp du học. Vào ngày lên đường, Marie ngập ngừng nói với cha: “Cha ơi, con sẽ không đi lâu, chừng hai hay ba năm học xong, con sẽ trở về sống bên cha mãi mãi”.
Năm 1891, lúc này kinh tế gia đình đã khá hơn, Marie quyết định ra nước ngoài học. Cô đã đi trên một toa xe lửa hạng ba từ Ba Lan tới tận Paris (Pháp) để theo học chuyên ngành Toán và Vật lý của Đại học Sorbonne.
Mới đầu Marie sống ở nhà chị gái là Bronia, sau đó cô đến ngụ cư trong một tầng hầm tối tăm ở khu Latinh. Cô ăn uống rất kham khổ và không đủ củi sưởi trong mùa đông nhưng những khó khăn đó không làm cô nản chí mà càng quyết tâm học tập. Marie thường nghiên cứu nhiều giờ liền trong các thư viện. Chỉ hai năm sau cô đã nhận được tấm bằng cử nhân Vật lý một cách xuất sắc và được nhận vào làm việc tại phòng thí nghiệm của giáo sư Lippmann. Năm sau cô nhận tiếp bằng toán học. Từ đó cô chuyên tâm vào nghiên cứu vì lòng say mê khoa học.
Cũng trong năm 1894, Marie đã tiếp xúc với Pierre Curie, một nhà vật lý người Pháp, lúc đó đang giữ một vị trí quan trọng trong phòng thí nghiệm vật lý của Đại học Sorbonne... Trong thời gian nghiên cứu về hiện tượng điện từ của các chất gang thép, hai người đã gặp nhau. Pierre cảm thấy có cảm tình và kính trọng người thiếu nữ tài ba này. Lúc đó Pierre đã 35 tuổi, vẫn sống độc thân vì còn mải mê nghiên cứu. Sau vài lần gặp mặt và thảo luận với Marie về khoa học, Pierre thấy ở Marie hình bóng của người vợ lý tưởng. Đối với Marie, sau khi mối tình đầu tại Ba Lan tan vỡ, Marie không còn muốn nghĩ gì đến chuyện yêu thương. Tuy thấy Pierre rất xứng đáng nhưng vì còn nhớ đến cha già, đến lời thề sẽ học thật nhanh để quay về sống bên cha và phục vụ cho Tổ quốc Ba Lan, Marie quyết định rời Paris. Khi tiễn Marie về nước, Pierre đã nói như van xin: “Cô là người có tài. Cô nên trở lại nước Pháp để nghiên cứu khoa học. Cô không có quyền bỏ rơi khoa học”.
Marie là kỹ sư đầu tiên của nước Ba Lan nhưng vào thời bấy giờ, người ta không tin tưởng lắm vào tài năng của phụ nữ nên Marie không được trọng dụng. Quá chán nản, ở Ba Lan chưa đầy một năm, Marie quyết định trở lại nước Pháp.
10 tháng sau, Marie nhận lời cầu hôn của Pierre. Hôn lễ cử hành rất đơn giản vào ngày 25/7/1895: ngoài những người thân trong gia đình như bác sĩ Eugène - cha của Pierre, giáo sư Sklodowski - cha của Marie, vợ chồng chị Bronia, anh Jacques, họ chỉ mời vài người bạn thân thiết. Từ đây Marie mang họ tên là Marie Curie. Cũng năm 1895, Pierre nhận được học vị Tiến sỹ khoa học vì những công trình đầu tiên của ông về từ học. Sau ngày cưới, Marie về làm việc cùng phòng thí nghiệm của chồng, bà nghiên cứu những đặc tính từ của các hợp kim và đã viết công trình khoa học đầu tiên trong số rất nhiều công trình của đời mình.
Cùng thời với Marie Curie, nhà vật lý người Đức là Wilhelm Rentgen đã phát hiện ra những “tia xuyên” vô hình từ một ống điện, chưa rõ bản chất của nó, ông đặt tên cho nó là tia X. Những tia này có thể xuyên qua da thịt và nhiều chất khác nhưng không xuyên qua được những vật cứng và dày đặc như xương và kim loại dày. Một thời gian ngắn sau đó, tia X và hiệu quả của nó trở nên nổi tiếng trên thế giới.
Pierre và Marie rất quan tâm đến phát minh này. Năm 1896, một nhà vật lý khác là Henri Becquerel tìm ra những tia xuyên khác, tia xuyên này phát ra từ một mẩu urani. Henri để mẩu urani trong ngăn kéo, đặt trên một tờ giấy ảnh. Vài ngày sau ông thấy tờ giấy ảnh phủ một lớp hơi nước.
Thời gian này, Marie quyết định nghiên cứu sự bức xạ bí hiểm mà Becquerel khám phá để làm đề tài tiến sĩ của mình. Bà đã nghiên cứu trong điều kiện nghèo nàn về vật chất: Phòng thí nghiệm chật chội, ẩm ướt và không có lò sưởi. Với chiếc tĩnh điện kế do chồng và em chồng là Jacques Curie sáng chế, bà tìm kiếm các nguồn xạ không phải của urani. Bà khám phá được một chất là thori cũng có đặc tính ấy. Bà cũng nhận thấy rằng dù xử lý urani và các chất có urani như thế nào thì lượng bức xạ vẫn y nguyên. Từ đó, Marie nhận định rằng bức xạ không phải do các phản ứng hoá học vì nếu như vậy nó sẽ thay đổi khi urani được thêm vào hay bị tách khỏi các hoá chất khác. Phải chăng nó từ những phân tử nhỏ nhất của chính urani mà ra. Ý tưởng đó trái ngược với các lý thuyết khoa học thời ấy, nhưng sự đúng đắn của nó đã được chứng minh. Marie và Pierre cũng nghiên cứu tác động của những bức xạ mới tìm thấy, nó làm cho một số chất có hiện tượng huỳnh quang. Chất urani mà Marie sử dụng chủ yếu là ở dạng quặng uraninit, hỗn hợp tự nhiên chưa được làm sạch gồm đất đá và một số chất khác. Quặng chancolit cũng chứa urani. Năm 1898, những thí nghiệm và tính toán của Marie chỉ ra rằng uraninit và chancolit phát bức xạ nhiều hơn mức dự kiến do thành phần urani chứa đựng trong nó. Vậy thì trong quặng đó phải có chất nào khác tạo ra lượng bức xạ dôi dư. Marie dùng phương pháp hoá học, giã viên quặng, rây, đun sôi làm tan rã để chất lỏng bay hơi, lọc bã cặn, chưng cất và cho nó chịu tác động của một dòng điện. Ở mỗi công đoạn, Marie cùng đồng sự kiểm tra thành phần và độ tinh khiết của chất mới thu được. Bà tách phần phát nhiều tia bức xạ nhất và lại xử lý tiếp. Cuối cùng bà có được một chất mới ở thể thuần khiết, một nguyên tố hoá học mới, bà đặt tên là Pôlôni để tôn vinh quê hương của bà (Pôlôni nghĩa là Ba Lan). Trong bản báo cáo khoa học bà đã dùng từ “phóng xạ” để chỉ những chất như Urani hay Pôlôni phát tia xuyên hay bức xạ.
Pôlôni là chất đầu tiên có độ phóng xạ mạnh được tách ra dưới dạng thuần khiết. Sự bức xạ của nó làm cho không khí xung quanh phát quang và bản thân chất Pôlôni sờ vào cũng thấy nóng. Pôlôni không phải là nguyên nhân duy nhất sự phóng xạ của Uraninit. Marie tiếp tục nghiên cứu và làm sạch một chất chứa một nguyên tố mới mà bà gọi là Rađi. Một số chất phóng xạ được ông bà Curie tinh chế có tính phát quang.
Năm 1899, Marie chuyên tâm vào một công việc to lớn: tạo được Rađi nguyên chất dưới một dạng có thể chứng minh sự tồn tại của nó. Hàng tấn quặng bã phóng xạ từ Bôhem và châu Phi được gửi đến phòng thí nghiệm ở Paris để đưa vào quá trình làm phân rã bằng hóa học. Thời đó những mối nguy do phóng xạ gây ra chưa được biết đến bao nhiêu, vì thế mà sức khoẻ của Marie bị suy kiệt kéo dài. Triệu chứng bệnh lao xuất hiện sau khi bà sinh cô con gái Irene, bà luôn cảm thấy mệt mỏi, khó tiêu do bị nhiễm xạ. Tay bà trở nên cứng đờ, bị thương tổn, nổi đầy mụn lở loét do phải pha trộn, đun nấu chất phóng xạ, nhiều năm sau những sổ tay và ghế ngồi của bà ở phòng thí nghiệm còn nhiễm độ phóng xạ rất cao. Bà đã hoàn thành được đến cùng công việc nhọc nhằn như thế, bà vừa nghiên cứu Rađi vừa tiến hành các nghiên cứu khác, cùng với nhà vật lý Henri Becquerel và một nhà khoa học khác là Fritz Giesel. Bà đã khám phá được những đặc tính của bức xạ vào năm 1899.
Thời gian này, danh tiếng của ông bà Curie rất lớn nhưng họ vẫn nhận được rất ít kinh phí để nghiên cứu. Để có thêm tiền mua sắm thiết bị, nguyên liệu, Pierre phải nhận một chân phụ đạo ở trường Bách khoa, còn Marie thì nhận thêm việc giảng dạy vật lý ở trường Sư phạm Sèvres. Tuy khó khăn vất vả nhưng các nghiên cứu của họ vẫn có những bước tiến kỳ diệu: Năm 1902, Marie thu được một loại muối Rađi nguyên chất, chỉ bằng 1/10 gam, nhỏ gần như là không thể nhận thấy (cần 7 tấn quặng Uraninit mới có được 1 gam Rađi) nhưng điều đó cũng đủ để biết được đặc tính lý hóa của Rađi. Đó là đỉnh cao trong sự nghiệp của bà. Pierre và Marie được mời phát biểu tại viện hoàng gia London và đã được tặng huy chương tôn vinh Humphrey Davy. Trở về Paris, Marie được nhận bằng tiến sĩ khoa học vì công trình của bà. Nhưng ông bà đã chịu những nỗi bất hạnh khi đứa con họ sinh ra không sống được do bị nhiễm phóng xạ. Cũng trong năm này, Pierre, Marie và Henri Becquerel đã nhận được giải thưởng Nobel về vật lý vì những công trình nghiên cứu về phóng xạ.
Năm 1904, Eve - cô con gái thứ hai của họ ra đời. Pierre cũng được bổ nhiệm giáo sư ở Sorbonne, ông có một phòng thí nghiệm tốt hơn và Marie trở thành trợ lý chính của ông. Năm sau Pierre được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học. Chất Rađi đã được công nhận, người ta biết đến đặc tính của nó phát sáng trong bóng tối và bắt đầu dùng nó để chữa một số bệnh.
Một ngày tháng tư năm 1906, Pierre đang đi trên phố ở Paris, chìm đắm trong suy tư, ông không nhìn thấy một cỗ xe ngựa chất nặng đang lao tới, cỗ xe hất ông ngã văng ra. Ông chết ngay tại chỗ. Cái chết của Pierre khiến Marie rất đau khổ, bà bị hẫng hụt một thời gian dài. Bà tìm sự giải thoát nỗi đau bằng cách tiếp tục công việc. Bà được nhận chức vị của Pierre và trở thành người phụ nữ đầu tiên làm giáo sư ở Sorbonne. Chú tâm vào công việc hơn bao giờ hết, bà tiếp tục làm sạch Rađi và Pôlôni. Năm 1910, bà đã thu được Rađi nguyên chất, một thứ kim loại màu trắng lóng lánh và tìm được điểm nóng chảy của nó là 700 độ C. Cũng trong năm ấy bà công bố công trình: “Chuyên luận về sự phóng xạ”. Năm sau, 1911, bà được tặng giải Nobel về hóa học vì đã tách được Rađi nguyên chất. Năm 1922, bà được bầu vào Viện hàn lâm Y học Pháp.
Những nghiên cứu của bà và nhiều nhà bác học khác đã giúp cho việc nghiên cứu cấu trúc của nguyên tử và những điều kiện tạo ra sự giải toả năng lượng. Sự phóng xạ cũng cho khả năng phát hiện và chữa một số bệnh. Nhờ liệu pháp tia X người ta có thể diệt một số tế bào ung thư bằng cách “bắn phá” nó bằng bom, tức là phát những tia bức xạ của côban vào các tế bào có bệnh. Marie Curie được mệnh danh là nhà khoa học nữ vĩ đại nhất thế kỷ XX.
Cuộc đời tận tụy với khoa học của Marie Curie là một tấm gương lớn cho mọi thế hệ làm khoa học về sau. Tên tuổi của nhà nữ bác học Marie Curie luôn được nhắc đến với lòng kính phục. Năm 1995, tro xương của bà được đưa vào điện Panthéon, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên được an nghỉ tại đây vì những cống hiến vĩ đại của mình.