• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đảo giấu vàng
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 44
  • Sau

Chương 8Quán viễn vọng

L

úc tôi ăn sáng xong, ngài điền chủ đưa cho tôi một lá thư, sai mang tới cho John Silver ở quán rượu Viễn Vọng. Ngài bảo quán ấy dễ tìm lắm, chỉ việc đi dọc theo bến tàu và chịu khó để ý một chút, sẽ thấy ngay cái quán nhỏ có treo một chiếc kính viễn vọng bằng đồng rất lớn thay cho biển hiệu. Tôi lập tức đi ngay, lòng mừng khôn xiết vì lại có dịp được nhìn ngắm tàu bè và các thủy thủ. Tôi len lỏi giữa biển người đông nghìn nghịt, lại thêm cả xe cộ và hàng hóa, vì khi ấy bến tàu đang giờ cao điểm, rất nhộn nhịp, mãi rồi tôi cũng tìm được quán rượu ngài điền chủ dặn.

Đó là một quán rượu nhỏ nhắn nhưng sạch sẽ và vui mắt. Biển hiệu vừa được sơn mới; cửa sổ treo rèm đỏ rất gọn gàng; sàn nhà được trải một lớp cát sạch. Hai bên quán đều có đường chạy qua và đều được trổ cửa ra vào, nhờ thế mà căn phòng rộng và thấp ấy, dẫu mù mịt khói thuốc lá, nom vẫn sáng sủa, dễ quan sát.

Khách tới uống rượu chủ yếu là thủy thủ. Bọn họ oang oang nói chuyện, làm tôi cứ đứng mãi ở cửa, ngần ngại không dám vào.

Lúc tôi đang tần ngần đứng ở cửa thì có một người bước từ phòng bên cạnh sang. Vừa thoạt nhìn, tôi biết ngay đó chính là Long John. Chân ông ta cụt đến tận háng, bên tay trái, ông ta kẹp một cái nạng dưới nách, ấy vậy mà ông ta vẫn đi lại rất khéo léo, thoăn thoắt nhảy từ chỗ này sang chỗ khác cứ như con chim chích. Ông ta rất cao lớn và vạm vỡ, mặt to và dẹt, da trắng bệch, gương mặt tươi cười, trông rất khôn ngoan. Phải nói, ông ta là người hớn hở nhất ở quán. Ông ta vừa đi từ bàn nọ sang bàn kia, vừa huýt sáo véo von, gặp khách quen là vỗ vai chào hỏi, không thì cũng bông đùa vài câu làm quà.

Thú thực, ngay từ lúc đọc thư của ngài điền chủ Trelawney, thấy ngài nhắc tới tên thủy thủ một chân, tôi cứ sợ Long John chính là tên thủy thủ cụt mà tôi vẫn luôn canh chừng giúp lão thuyền trưởng hồi còn ở quán trọ Đô đốc Benbow. Nhưng gặp người đàn ông này rồi, tôi cũng đủ thấy yên lòng. Tôi đã biết lão thuyền trưởng, gã Chó Mực, rồi lão Pew mù, vậy nên tôi nghĩ mình đã biết rõ bọn hải tặc, nhìn là nhận ra ngay - theo tôi, hạng người đó khác hẳn ông chủ quán sạch sẽ, tính tình dễ chịu này.

Lập tức, tôi thu hết can đảm, bước qua ngưỡng cửa và tiến thẳng tới người đang đứng tựa vào cái nạng và nói chuyện với khách kia.

“Thưa ông, là ông Silver phải không ạ?” Tôi hỏi và chìa lá thư ra.

“Phải rồi, anh bạn nhỏ.” Ông ta đáp. “Chắc chắn đó là tên tôi rồi. Anh bạn là ai nhỉ?” Rồi khi trông thấy lá thư của ngài điền chủ, tôi thấy hình như ông ta hơi giật mình.

“Ồ!” Ông ta nói, khá to, lại còn chìa tay ra cho tôi. “Hiểu rồi. Anh bạn nhỏ là thủy thủ học việc, phụ giúp cho ngài Trelawney đây mà! Rất hân hạnh được gặp cậu.” Dứt lời, ông ta nắm chặt lấy tay tôi.

Vừa lúc đó, một người khách ngồi ở góc bên kia phòng lật đật đứng dậy, đi vội ra cửa. Vị khách đó ngồi sát cửa nên chỉ trong chớp mắt đã ra được ngoài đường. Nhưng vẻ vội vã của ông ta làm tôi chú ý, và vừa thoạt nhìn, tôi liền nhận ra ngay. Đó chính là người đàn ông mặt bủng beo, da xám ngoét, tay cụt mất hai ngón, là kẻ lạ mặt đầu tiên đến quán trọ Đô đốc Benbow khi xưa.

“Ơ kìa!” Tôi hét lên. “Mau ngăn hắn lại! Hắn là Chó Mực!”

“Là ai cũng mặc!” Silver kêu lên. “Nhưng hắn ta chưa trả tiền. Harry, mau chạy theo, tóm lấy hắn!”

Một người đang ngồi ở gần cửa liền lập tức đứng dậy, chạy ra ngoài, đuổi theo gã nọ.

“Đến Đô đốc Hawke vào đây còn phải trả tiền nữa là.” Silver kêu lên, rồi lúc đó, ông ta mới chịu buông tay tôi ra. “Cậu bảo tay ấy tên là gì ấy nhỉ?” Ông ta hỏi. “Chó gì ấy?”

“Chó Mực ạ, thưa ông.” Tôi đáp. “Ngài Trelawney chưa kể gì với ông về đám cướp biển ư? Hắn ta là một tên trong đám đó.”

“Vậy kia à?” Silver kêu to. “Lại còn ở trong nhà ta! Ben, chạy ra giúp Harry đi. Một tên trong đám cướp, phải không? Này Morgan, ông vừa uống rượu với hắn phải không? Lại đây!”

Người ông ta gọi là Morgan kia là một thủy thủ đã luống tuổi, tóc hoa râm, da bánh mật. Ông ta lúng túng bước tới, vừa đi vừa cuốn thuốc lá.

“Này Morgan!” Long John nghiêm mặt, lạnh tanh nói. “Trước đây, ông chưa từng gặp thằng Chó... Chó Mực đó bao giờ, phải không?”

“Chưa, thưa ngài.” Morgan vừa nói vừa đưa tay lên chào.

“Ông không biết tên hắn, đúng không?”

“Không, thưa ngài.”

“Có thủy thần chứng giám, Tom Morgan ạ, may phúc cho ông đấy!” Ông chủ quán rượu nói. “Nếu ông còn đi lại với hạng người đó, ông sẽ không bao giờ được bước chân vào nhà tôi nữa, chắc chắn đấy! Thế hắn đã kể những gì với ông?”

“Tôi cũng không rõ thế nào nữa, thưa ngài.” Morgan đáp.

“Ông gọi cái gắn ở trên cổ ông kia là cái đầu hay cái cửa luồn dây[1], hả?” Long John quát. “Không rõ thế nào ấy à? Vậy chắc ông cũng không rõ ông đang nói chuyện với ai đâu, đúng không? Nào! Nói mau, hắn ba hoa gì với ông? Chuyện đi biển, chuyện thuyền trưởng, hay chuyện tàu bè? Nói to lên! Hắn ta kể chuyện gì?”

“Chúng tôi nói chuyện chui long cốt[2] thôi ạ.” Morgan đáp.

“Chui long cốt hả? Nghe hợp quá đi nhỉ? Ông liệu đấy! Thôi, về chỗ của ông đi, Tom, đồ thủy thủ hạng bét!”

Sau đó, lúc Morgan quay lại chỗ ngồi, Silver ghé tai tôi nói thầm, làm như nói chuyện gì bí mật, khiến tôi khoái trá lắm: “Ông Tom Morgan này thật thà lắm, mỗi tội ngốc thôi.” Rồi Silver lại đứng thẳng lên và nói to: “Xem nào - Chó Mực à? Không, tôi chưa nghe cái tên này bao giờ. Nhưng hình như tôi đã gặp tay đi sông hạng bét ấy rồi. Phải, phải. Hắn thường tới đây cùng một lão ăn xin mù.”

“Chắc chắn là thế rồi.” Tôi đáp. “Cháu cũng biết lão mù ấy. Lão ta tên là Pew.”

“Đúng rồi!” Silver kêu lên. “Pew! Đúng hắn tên là thế rồi. A, hắn trông như con cá mập vậy, thật thế! Nếu ta tóm được tên Chó Mực, thì ngài chủ tàu Trelawney sẽ mừng lắm đấy! Ben chạy nhanh lắm; chẳng có mấy thủy thủ chạy nhanh được hơn Ben đâu. Thể nào anh ta cũng đuổi kịp hắn, bẻ quặt lấy tay hắn, dong về đây, có thủy thần chứng giám! Hắn kể chuyện chui long cốt à? TA sẽ cho hắn chui long cốt!”

Lúc nói ra những lời đó, ông ta chống nạng, đi đi lại lại trong quán, tay đập rầm rầm xuống mặt bàn, tỏ vẻ tức giận cực độ, tới nỗi vị quan tòa thông tuệ ở Old Bailey[3] hay viên cảnh sát phố Bow[4] sắc sảo cũng phải tin ông ta sái cổ. Lúc thấy tên Chó Mực ở quán Viễn Vọng, lòng tôi lại dấy lên nghi ngờ nên tôi để ý lão đầu bếp này khá kĩ. Nhưng ông ta quá thâm hiểm, quá nhanh trí và quá gian ngoan đối với tôi, nên khi hai người kia quay trở lại, hổn hển không ra hơi, bảo rằng họ bị mất dấu gã Mực do ngoài đường đông quá, đã thế còn bị người ta mắng là đồ trộm cắp, tôi lại mắc bẫy Long John Silver, lại tin ông ta ngay thẳng.

“Cậu thấy đấy, cậu Hawkins.” Ông ta nói. “Chuyện này đối với tôi thật khó chịu quá, cậu công nhận không?

Còn ngài Trelawney nữa, không biết ngài ấy sẽ nghĩ thế nào đây? Tên khốn kiếp quỷ tha ma bắt đó chễm chệ ngồi trong quán của tôi mà ung dung uống rượu rum kia đấy! Cậu đã tới bảo cho tôi biết, thế mà chúng tôi vẫn vuột mất hắn ngay trước mặt! Cậu làm ơn làm chứng cho tôi trước ngài chủ tàu nhé. Cậu mới tuổi thiếu niên thôi, nhưng cậu sáng sủa lắm. Nhìn một cái là tôi biết ngay. Mà đấy, cậu cũng thấy: Tôi phải chống nạng thế này thì còn làm được cái gì nữa cơ chứ? Phải như hồi tôi còn làm sĩ quan hải quân dưới quyền ngài Hawke bất tử, tôi sẽ đuổi theo hắn ngay tức khắc, tóm lấy hắn, xích cổ hắn lại, nhưng còn giờ thì...”

Rồi sau đó, đột nhiên ông ta ngừng lại, miệng há hốc như vừa sực nhớ ra chuyện gì.

“Còn tiền rượu nữa!” Ông ta thốt lên thật to. “Ba cốc rượu rum! Ôi hà bá lôi hắn đi! Sao tôi lại quên tính tiền cơ chứ!”

Nói xong, ông ta ngồi phịch xuống ghế, cười như nắc nẻ, cười đến nỗi nước mắt chảy ròng ròng xuống hai bên má mới thôi. Tôi cũng không nhịn cười nổi. Thế là tất cả chúng tôi cùng cười vang, hết tràng này tới tràng khác, tiếng cười vang khắp cả quán rượu.

“Ái chà! Xem tôi có vô dụng không kia chứ!” Rồi ông ta đưa tay lên chùi má và nói: “Tôi với cậu thế nào cũng thân lắm cho mà xem, Hawkins ạ. Tôi thề, thể nào người ta nhìn vào sẽ đánh giá tôi chỉ đáng ở hàng thủy thủ học việc. Nhưng thôi, chuẩn bị chuyển hướng[5], không đứng đây nói chuyện phiếm nữa. Chuyện phiếm chẳng giải quyết được gì. Nghĩa vụ là nghĩa vụ, đồng đội ạ. Để tôi đội cái mũ vành ba góc cũ kĩ kia vào rồi đi cùng cậu tới gặp ngài Trelawney, báo cáo với ngài chuyện vừa xảy ra ở đây. Nghe này, Hawkins trẻ tuổi ạ, việc này nghiêm trọng lắm. Cả cậu lẫn tôi đều hiểu chuyện vừa xảy ra chẳng có gì đáng để vênh váo hết. Cậu với tôi, hai ta chẳng có ai lanh lẹ cả. Nhưng mẹ kiếp! Chuyện quên tính tiền mới nực cười thật chứ!”

Rồi ông ta lại sằng sặc cười tiếp, nghe sảng khoái lắm, làm tôi dù không hiểu chuyện có gì đáng cười vẫn không sao cưỡng được mà phải cười theo.

Lúc đi cùng nhau một quãng ngắn ngoài bến, ông ta tỏ ra mình là một người bạn đường cực kỳ thú vị. Ông ta kể cho tôi về những con tàu chúng tôi gặp trên đường, giảng giải về những thiết bị trên tàu, trọng tải của tàu, rồi tàu của nước nào với nước nào, lại trỏ những công việc người ta đang làm ở trên tàu và giải thích cho tôi biết - chiếc này đang dỡ hàng xuống, chiếc kia đang chuyển hàng lên, còn chiếc nọ thì đang chuẩn bị ra khơi. Thỉnh thoảng, ông ta lại kể cho tôi vài câu chuyện về tàu bè và thủy thủ, hoặc lặp đi lặp lại một câu người ta vẫn dùng khi đi biển làm tôi thuộc nằm lòng. Tôi bắt đầu thấy ông ta là người bạn tàu tuyệt nhất.

Khi chúng tôi vào trong quán trọ, thấy ngài điền chủ và bác sĩ Livesey đang ngồi cùng với nhau, trước mặt là chai bia. Hai ngài định uống xong sẽ xuống bến kiểm tra tàu.

Long John kể lại đầu đuôi câu chuyện, rất sốt sắng và không hề thêm bớt lấy một câu. “Chuyện đã xảy ra như thế, đúng không, cậu Hawkins?” Cứ mỗi lần ông ta hỏi như thế, tôi chỉ có thể gật đầu xác nhận.

Hai ngài Trelawney và Livesey biết Mực đã chạy thoát thì lấy làm tiếc lắm, nhưng tất cả chúng tôi đều công nhận rằng chẳng thể làm gì hơn được nữa. Sau khi được nghe những lời tán thưởng, Long John chống nạng ra về.

“Tất cả mọi người đều phải có mặt dưới tàu đúng giờ chiều nay.” Ngài điền chủ hô với theo.

“Vâng, vâng, thưa ngài!” Lão bếp tàu vừa đi vừa nói với lại.

“Chà, ngài điền chủ ạ.” Bác sĩ Livesey nói. “Thường thì tôi không tin tưởng những khám phá của ngài cho lắm, nhưng phải nói, tôi rất vừa ý với tay bếp trưởng John Silver này đấy.”

“Anh ta thật sự cừ lắm đó!” Ngài điền chủ dõng dạc.

“Thế còn bây giờ…” Bác sĩ nói. “Jim có được xuống tàu xem xét cùng chúng ta không?”

“Chắc chắn là được rồi.” Ngài điền chủ đáp. “Đội mũ vào đi, Hawkins, rồi chúng ta cùng xuống xem tàu.”


[1] . Nguyên văn: “dead-eye”, là một dụng cụ dùng thể giữ dây buồm, thường có ba lỗ, nhìn rất giống một khuôn mặt với hai mắt và miệng, tạm dịch là “cửa luồn dây”.

[2] . Bộ phận không thể thiếu của tàu/thuyền buồm, nằm ở dưới đáy tàu theo trục dọc, kéo dài từ trước ra sau, được coi là phần xương sống của con tàu (keel). Chui long cốt (nguyên văn: keel-haul) là một hình phạt man rợ của giới đi biển ngày xưa, trong đó, người bị phạt bị buộc vào dây thừng, thả xuống biển từ một bên mạn tàu rồi bị kéo ngược lên mạn bên kia, hoặc bị kéo dọc thân tàu. Nạn nhân nếu không chết đuối cũng bị hà biển và các sinh vật biển khác bám dưới đáy tàu cứa nát người.

[3] . Con phố ở London, nơi tòa án hình sự nổi tiếng của Anh tọa lạc.

[4] . Bow Street Runners: lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp đầu tiên của Anh, thành lập năm 1749. Nhóm giải tán năm 1839.

[5] . Một khẩu lệnh khi lái tàu. Một điểm thú vị ở John Silver là ông ta rất hay dùng từ ngữ về tàu bè và khẩu lệnh lái tàu.