• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đảo giấu vàng
  3. Trang 24

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 23
  • 24
  • 25
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 23
  • 24
  • 25
  • More pages
  • 44
  • Sau

Chương 16Bác sĩ kể chuyện: Con tàu bị bỏ lại như thế nào

L

úc đó, khoảng một giờ rưỡi chiều - hay “lúc gõ ba tiếng chuông”1 như cánh thủy thủ hay nói - hai con thuyền nhỏ rời tàu Hispaniola, bơi vào bờ. Thuyền trưởng, ngài điền chủ và tôi ngồi lại với nhau trong cabin để bàn chuyện. Giá lúc ấy trời có gió, chúng tôi đã hạ sáu tên phiến loạn ở lại trên tàu, tháo dây và dong tàu ra biển. Nhưng trời lại đứng gió; và chúng tôi lại càng thêm bất lực khi Hunter chạy xuống báo tin:

1. Ở kỷ nguyên tàu buồm, người ta dùng chuông truyền lệnh để báo giờ nhưng không theo giờ chẵn mà theo mỗi nửa giờ đồng hồ trong ca trực bốn tiếng.

Jim Hawkins đã lẻn xuống thuyền và lên đảo cùng mấy kẻ kia.

Chúng tôi không bao giờ nghi ngờ Jim Hawkins, mà chúng tôi lo cho an nguy của cậu bé. Với tâm tính của những kẻ kia, xem ra, chúng tôi khó lòng mà gặp lại cậu bé lần nữa. Chúng tôi chạy lên boong. Hắc ín sủi lên ở những kẽ ván; mùi hôi thối kinh khủng bốc lên xung quanh làm tôi phát ốm; nếu có ai từng ngửi thấy mùi sốt rét và mùi kiết lị, thì chắc chắn người đó đã ngửi thấy những mùi ấy ở chính chỗ thả neo ghê tởm này. Sáu tên vô lại đang ngồi cắn cảu nhau dưới một cánh buồm ở đằng mũi tàu; còn ở đằng bờ, ngay gần chỗ cửa sông, chúng tôi thấy có mấy chiếc thuyền con đang lao đi rất nhanh và mỗi thuyền có một người ngồi trên đó. Một gã đương huýt sáo bài Lillibullero.

Chờ đợi chỉ tổ thêm căng thẳng. Chúng tôi quyết định để Hunter và tôi cùng lấy một chiếc thuyền, chèo vào bờ để nghe ngóng tình hình.

Đoàn thuyền nhỏ kia ép về phía bên phải, nhưng Hunter và tôi vẫn tiếp tục chèo thẳng về phía trước, về phía chiến lũy vẽ trong bản đồ. Hai gã được cắt cử ở lại trông thuyền có vẻ nhốn nháo khi nhác thấy chúng tôi. Tay “Lillibullero” ngừng huýt sáo ngay tắp lự. Tôi còn thấy hai tên đó bàn nhau xem phải xử lý như thế nào. Chúng mà chạy đi báo với Silver, mọi chuyện hẳn đã rất khác; nhưng tôi đoán chúng đã nhận lệnh nên quyết định ngồi yên chỗ cũ và lại huýt sáo bài Lillibullero tiếp.

Bờ biển có chỗ hơi nhô ra nên tôi cho thuyền lượn vào trong để mỏm đất nhô ra ấy che khuất chúng tôi; ngay cả lúc chúng tôi chưa vào đến bờ, bọn canh thuyền cũng không thể nhìn thấy chúng tôi được. Tôi nhảy lên bờ, rón rén chạy tới gần chỗ bọn chúng. Tôi trùm một chiếc khăn lụa lên đầu cho mát, giắt vào người đôi súng ngắn đã nạp đạn đầy đủ để phòng thân.

Đi chưa được một trăm mét, tôi đã tới chỗ bờ lũy.

Toàn cảnh chiến lũy đó trông như thế này: một dòng suối nhỏ trong xanh uốn lượn ở gần đỉnh gò. Còn trên đỉnh gò, bao quanh con suối, lũ cướp biển xưa dựng lên một căn nhà gỗ rất chắc chắn, khá to, khi cần có thể chứa được tới bốn mươi người. Bốn mặt ngôi nhà đều được trổ lỗ châu mai để bên trong có thể chĩa súng bắn ra bên ngoài. Chung quanh lô cốt bằng gỗ đó, chúng đã phát quang một khoảng rộng, và công trình quân sự kia được hoàn thiện bằng một hàng rào bằng cọc gỗ cao gần hai mét, không có cửa hay chỗ ra vào, lại rất chắc chắn, muốn kéo đổ phải mất nhiều thời gian và công sức, còn muốn tới vây thì xung quanh quá trống trải, chẳng có chỗ để nấp. Những kẻ trong căn nhà gỗ có lợi thế hơn bên ngoài về đủ mọi mặt; chúng chỉ cần đứng yên bên trong và chĩa súng ra, bắn những kẻ ở bên ngoài như bắn những con gà gô. Chúng chỉ cần cảnh giác, quan sát cẩn thận và trữ nhiều thức ăn là đã có thể giữ vững thành trì trước cả một trung đoàn, trừ phi có sự bất ngờ xảy đến mà thôi.

Nhưng điểm tôi đặc biệt chú ý chính là dòng suối. Vì mặc dầu chiếc cabin trên tàu Hispaniola của chúng tôi cũng chẳng kém cạnh với đầy đủ súng ống và đạn dược, không thiếu lương thực, thực phẩm lẫn rượu ngon, nhưng lại trót bỏ qua mất một thứ - chúng tôi không tích trữ nước ngọt. Đang miên man suy tính việc mang nước ngọt về tàu thì bỗng có tiếng thét của một người sắp chết vang vọng khắp hòn đảo. Tôi không lạ gì những cái chết đau đớn vì thương tật - tôi từng phục vụ trong quân đội dưới trướng Hoàng tử William Augustus, Công tước xứ Cumberland, và đã bị thương trong trận Fontenoy - nhưng khi nghe tiếng thét ấy, tôi vẫn thấy đứng tim. “Thằng bé Jim Hawkins mất rồi” là ý nghĩ đầu tiên lóe lên trong đầu tôi.

Làm một người lính già là một điều rất tuyệt, và làm bác sĩ lại càng tuyệt hơn nữa. Nghề của chúng tôi không có thời gian để do dự. Vậy nên tôi lập tức quyết định và chạy ngay ra bờ biển, nhảy lên thuyền, không chút chậm trễ.

May mắn cho chúng tôi, Hunter chèo thuyền rất giỏi. Con thuyền lao như bay trên mặt nước, chỉ trong nháy mắt, thuyền chúng tôi đã về sát mạn tàu. Tôi vội trèo lên ngay.

Tôi thấy mọi người ai cũng hoang mang, ấy là lẽ tất nhiên. Ngài điền chủ mặt trắng bệch như tờ giấy, đang ngồi thừ người ra nghĩ ngợi. Ngài đang tự dằn vặt mình, ngài cho rằng vì ngài mà chúng tôi mới lâm vào tình cảnh này. Tội nghiệp quý ông lương thiện! Còn trong số sáu tên thủy thủ đang túm tụm ở mũi tàu, có một tên xem chừng có phần ổn hơn bọn còn lại một chút.

“Tay ấy…” Thuyền trưởng Smollett hất cằm về phía hắn và nói. “Hắn mới đi biển thôi, chưa quen nghề. Lúc nghe thấy tiếng thét, suýt nữa thì hắn lăn ra ngất đấy, ngài bác sĩ. Chỉ cần nói vào một tí thôi là hắn sẽ về phe ta.”

Tôi kể cho thuyền trưởng nghe toàn bộ kế hoạch của mình, rồi chúng tôi bàn bạc chi tiết đường đi nước bước thực hiện.

Chúng tôi phân bác Redruth phục ở hành lang giữa cabin và khoảng sân phía mũi tàu, cấp cho bác ta ba, bốn khẩu súng đã nạp đạn đầy đủ và một tấm đệm để bảo vệ. Hunter kéo thuyền vòng ra phía đuôi tàu, dưới một ô cửa sổ, còn Joyce và tôi cùng khuân thuốc súng, súng hỏa mai, bánh trái, thịt lợn muối và một két rượu cognac, cả cốp đựng thuốc vô giá của tôi nữa, chất hết xuống dưới thuyền.

Trong lúc đó, ngài điền chủ và ông thuyền trưởng ở lại trên boong. Thuyền trưởng cho gọi lão thủy thủ lái, kẻ quan trọng nhất trong nhóm thủy thủ ở lại trên tàu.

“Anh Hands ạ.” Ông nói. “Hai người chúng tôi ở đây, ai cũng có một đôi súng lục. Kẻ nào trong số sáu người các anh dám thể hiện ra bất kỳ dấu hiệu gì, thì kẻ đó sẽ phải chết.”

Nghe thế, chúng bất ngờ lắm, và sau một hồi bàn bạc, cả bọn - không trừ một kẻ nào - đang ở trên boong liền vội vã chạy xuống lòng tàu, rõ ràng định theo lối hành lang bên dưới xuống đánh úp chúng tôi từ phía sau. Nhưng khi thấy bác Redruth đứng chờ trong hành lang, chúng lại lộn lên trên ngay lập tức, và một cái đầu nhô lên trên boong tàu:

“Xuống, đồ chó!” Thuyền trưởng quát lớn.

Cái đầu đó thụt xuống trở lại; rồi từ đó, chúng tôi không nghe thấy tiếng sáu tên thủy thủ hèn nhát kia nữa.

Lúc bấy giờ, cứ lần lượt khuân các thứ cần thiết xuống, chiếc thuyền đã đầy ắp, chúng tôi không dám chất thêm gì nữa. Joyce và tôi trèo qua cửa sổ ở đuôi tàu để xuống dưới thuyền, cố hết sức chèo vào bờ thật nhanh.

Chuyến cập bến lần thứ hai này làm mấy tên canh gác chú ý. Tên “Lillibullero” lại im bặt lần nữa; và khi chúng tôi còn chưa kịp khuất sau mũi đất đã nói lúc trước, một tên trong số bọn chúng nhảy vội lên bờ và biến mất. Tôi đã toan thay đổi kế hoạch và phá hủy thuyền của bọn chúng, nhưng tôi sợ Silver và đồng bọn ở gần ngay đó; vả lại nếu cố làm nhiều việc quá, dễ sẽ hỏng hết.

Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã vào đến chỗ lúc trước và chuyển các thứ vào lô cốt. Ở chuyến đầu tiên, thuyền chở nặng trĩu, cả ba chúng tôi hì hục khuân các món dự trữ ném qua hàng rào vào trong sân. Sau đó, chúng tôi cắt Joyce ở lại canh giữ đạn dược và chỗ thức ăn dự trữ - dĩ nhiên, để cho chắc, cậu ta được trang bị nửa tá súng ống - còn Hunter và tôi quay về thuyền để tải tiếp đồ. Chúng tôi luôn tay khuân vác, không nghỉ chút nào, đến dừng lại để thở một hơi cũng không, mãi cho đến khi mọi thứ trên thuyền đều được đưa hết lên bờ. Khi hai anh hầu đã yên vị trong lô cốt và vào vị trí canh gác, tôi cố chèo hết tốc lực về lại tàu Hispaniola.

Có lẽ chúng tôi khi ấy đã rất liều, chuyến thứ hai, chúng tôi bạo gan hơn hẳn lần trước. Dĩ nhiên bọn chúng đông người hơn, nhưng chúng tôi lại có nhiều vũ khí hơn. Trên đảo, bọn địch chẳng kẻ nào có súng hỏa mai, và khi chúng chưa kịp tiến vào tầm bắn của súng lục thì chúng tôi khéo đã hạ được ít nhất sáu, bảy tên địch rồi.

Ngài điền chủ đang đứng chờ tôi sau ô cửa sổ phía đuôi tàu, giờ ngài đã bình tĩnh hơn hẳn, không còn vẻ gì là bải hoải nữa. Ngài tóm lấy dây néo thuyền, buộc thật nhanh vào mạn tàu rồi vội vã cùng tôi khuân nhu yếu phẩm xuống thuyền. Lần này, chúng tôi chỉ chở có thịt lợn muối, bánh mì và thuốc súng. Ngài điền chủ, tôi, bác Redruth và ông thuyền trưởng mỗi người giắt một khẩu súng cùng một thanh đoản kiếm, rút xuống thuyền. Chỗ vũ khí và thuốc súng còn lại, chúng tôi đem thả hết xuống nước, ở chỗ sâu chừng hai sải rưỡi, đứng trên tàu nhìn xuống vẫn thấy ánh thép sáng loáng nơi đáy cát dưới ánh mặt trời.

Khi ấy, nước triều bắt đầu rút, con tàu tròng trành, lắc lư trên neo. Chúng tôi nghe thấy tiếng í ới gọi nhau vang vang ở đằng xa, phía hai chiếc thuyền con; nghe vậy, tuy có thể yên tâm về an nguy của Joyce và Hunter vì hai người họ ở tít mạn phía đông, nhưng cũng đủ thúc nhóm chúng tôi phải lập tức rời đi.

Bác Redruth rời chỗ nấp trong hành lang và nhảy xuống dưới thuyền, lúc bấy giờ chúng tôi đã cho thuyền lượn vào sát mạn tàu để thuyền trưởng Smollett tiện bề nhảy xuống.

“Này, các anh!” Ông nói. “Có nghe thấy tôi không?” Phía đằng mũi tàu không có tiếng trả lời. “Abraham Gray, tôi đặc biệt nói riêng với anh đấy!” Vẫn không có tiếng trả lời.

“Gray ạ.” Ông Smollett lại nói, tiếng có phần to hơn khi trước một chút. “Tôi sắp rời tàu và tôi lệnh cho anh phải đi theo thuyền trưởng của mình ngay. Tôi biết anh bản chất lương thiện, và tôi dám khẳng định anh không có chút nào là xấu xa như anh làm bộ. Tôi đang cầm đồng hồ trong tay đây; tôi cho anh ba mươi giây để đi theo tôi.” Im lặng một lúc.

“Nào, anh bạn.” Thuyền trưởng nói tiếp. “Chớ dùng dằng thế kia. Tôi đang đánh cuộc cả mạng sống của mình lẫn của các quý ông đây từng giây đấy.”

Thình lình, có tiếng xô xát, tiếng đấm đá huỳnh huỵch, và rồi, Abraham Gray ào ra, trên má có một vết dao, te tái chạy về phía thuyền trưởng như con chó lúc người ta huýt sáo gọi về.

“Tôi xin theo ngài.” Anh ta nói.

Dứt lời, anh ta và ông thuyền trưởng cùng nhảy xuống thuyền với chúng tôi. Cả đoàn lập tức lao thuyền đi.

Chúng tôi đã cách xa con tàu, nhưng vẫn chưa vào được chỗ có chiến lũy.