• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đảo giấu vàng
  3. Trang 25

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 44
  • Sau

Chương 17Bác sĩ kể tiếp: Chuyến đi cuối cùng của con thuyền nhỏ

C

huyến đi thứ năm này của chúng tôi rất khác so với những chuyến đi trước. Ngay từ đầu, chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi đã phải chở nặng hơn bình thường. Hẳn năm người đàn ông trưởng thành, và tới ba người - ngài Trelawney, bác Redruth và ông thuyền trưởng - cao hơn mét tám, vốn đã nặng hơn tải trọng cho phép của con thuyền, đã thế, còn chở thêm chỗ thuốc súng, thịt muối, và mấy bao bánh mì. Mép thuyền ở phần đuôi đã mấp mé gần chạm mặt nước. Đã mấy lần, nước tràn chút ít vào lòng thuyền, làm quần với vạt áo tôi ướt sũng dù chỉ mới đi được gần một trăm mét.

Ông thuyền trưởng bảo chúng tôi sắp xếp, điều chỉnh lại mọi thứ cho thuyền khỏi lật, quả nhiên, thuyền cân bằng hơn, lái dễ dàng hơn. Nhưng chúng tôi vẫn không dám thở.

Nhưng vẫn còn điều này nữa, thủy triều bấy giờ đang rút - dòng nước róc rách chảy mạnh từ phía tây qua vũng, rồi lượn về hướng nam, đổ ra biển theo lối chúng tôi vào ban sáng. Chỉ mỗi những gợn sóng kia thôi cũng đã là mối nguy cho con thuyền nặng trĩu của chúng tôi, nhưng nguy hiểm nhất: chúng tôi đang bị nước cuốn ra khỏi đường muốn đi, cuốn ra rất xa nơi cập bến nằm phía sau mũi đất. Nếu chúng tôi cứ để dòng nước mặc sức xô đẩy, thuyền của chúng tôi sẽ bị dạt đến chỗ mấy chiếc thuyền con của đám phản loạn, ở đó, lũ cướp biển có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.

“Tôi không sao lái thuyền về phía chiến lũy được, thưa thuyền trưởng.” Tôi nói với ông Smollett. Tôi bẻ lái, còn ông và bác Redruth, hai người mới xuống, vẫn còn sức, chèo thuyền. “Thủy triều cứ đẩy thuyền đi. Các ông có thể mạnh tay chèo hơn một chút nữa được chăng?”

“Mạnh nữa là lật thuyền đấy.” Thuyền trưởng đáp. “Thưa ông, xin ông hãy gắng bẻ lái, bẻ đến khi nào ông thấy mình về đúng hướng thì thôi.”

Tôi cố hết sức bẻ lái, rồi dần dần nhận ra: dòng nước triều cứ xô chúng tôi về phía tây, nhưng khi tôi cho mũi thuyền hướng về đông, hay vuông góc với hướng cần đến thì thuyền chúng tôi không bị nước đẩy chệch đường nữa.

“Cứ thế này thì chúng ta chẳng bao giờ vào bờ được mất.” Tôi nói.

“Nếu đây là con đường duy nhất thì chúng ta nhất quyết phải theo, thưa ngài.” Ông thuyền trưởng đáp. “Ta cứ phải chèo ngược dòng. Ngài thấy đấy, thưa ngài.” Ông nói tiếp. “Nếu chúng ta đi ngược gió so với bến đỗ, khó mà nói trước ta sẽ vào được bờ ở chỗ nào, ấy là chưa kể đến trường hợp bị bọn kia vây và nhảy sang cướp thuyền; trái lại, khi ta cứ đi theo cách như bây giờ, ắt sẽ giảm được lực tác động của dòng nước, rồi khi đổ bộ, chúng ta có thể men theo bờ mà luồn về lại chỗ cũ.”

“Nước bây giờ đã ít xiết hơn rồi, thưa ngài.” Anh chàng Gray đang ngồi ở chỗ mấy sợi dây lèo buồm mũi nói. “Ngài có thể nới tay một chút được rồi ạ.”

“Cảm ơn anh!” Tôi đáp, giọng tự nhiên như không, vì tất cả chúng tôi đều thầm thống nhất với nhau sẽ đối đãi với gã như người cùng một hội.

Đột nhiên, ông thuyền trưởng lại kêu lên, tôi thấy giọng ông ấy có chút thay đổi.

“Khẩu pháo!” Ông nói.

“Tôi cũng vừa mới chớm nghĩ tới.” Tôi đáp. Tôi đoan chắc ông thuyền trưởng sợ lũ làm phản bắn phá pháo đài. “Chúng không mang được pháo lên bờ đâu, mà nếu có, chúng cũng không thể kéo được qua rừng.”

“Ngài bác sĩ, hãy nhìn ra đằng sau.” Thuyền trưởng nói.

Chúng tôi đã quên bẵng rằng khẩu trường pháo dùng đạn bốn cân[1] trên tàu; và bấy giờ, năm tên vô lại đang túm tụm quanh khẩu pháo, tất bật cởi “áo súng” - chúng vẫn gọi tấm bạt bằng vải dầu dùng để che súng những khi tàu chạy như thế - khiến chúng tôi kinh hãi vô cùng. Không chỉ có thế, khi ấy tôi sực nhớ ra cả đạn pháo lẫn thuốc mồi của khẩu pháo đều để lại trên tàu hết, chỉ cần quai một nhát rìu, lũ phản loạn sẽ lấy được ngay.

“Israel là pháo thủ của Flint đấy.” Gray kêu lên, lạc cả giọng.

Chúng tôi liều mạng hướng mũi thuyền thẳng về phía bến vẫn đỗ. Lúc đó, chúng tôi đã gần thoát khỏi dòng chảy, không cần phải cố bẻ lái nữa mà chỉ cần giữ làm sao cho thuyền thăng bằng trước nhịp chèo tuy khẽ nhưng tối cần thiết là đã có thể tiến vào bờ. Nhưng khốn nỗi, chèo theo hướng ấy lại khiến chúng tôi quay cả mạn thuyền, thay vì chỉ hướng mỗi phần đuôi về phía tàu Hispaniola, chẳng khác nào biến mình thành một tấm bia to bằng cả một cái cửa kho cho địch.

Tôi nghe và còn nhìn thấy tên Israel Hands bất lương mặt đỏ gay như vừa mới nốc rượu đang hì hục lắp đạn vào khẩu pháo trên boong.

“Ai là tay súng giỏi nhất?” Thuyền trưởng hỏi.

“Ngài Trelawney, vô cùng xuất sắc.” Tôi đáp.

“Ngài Trelawney, ngài có thể hạ được một tên trong số chúng không, thưa ngài? Tên Hands, nếu được.” Thuyền trưởng nói.

Ngài Trelawney mặt lạnh như tiền. Ngài cẩn thận nhồi thuốc nổ vào súng.

“Còn giờ…” Thuyền trưởng kêu to. “Xin ngài cẩn thận, hãy bắn cho khéo kẻo nước vào thuyền. Tất cả mọi người đều phải ngừng tay chèo và ngồi sao cho khéo để thuyền cân khi ngài ấy khai hỏa.”

Ngài điền chủ nâng khẩu súng lên, các tay chèo ngừng lại. Chúng tôi chúi người về trước để giữ cho thuyền cân bằng. Chúng tôi khéo lắm nên không một giọt nước nào lọt được vào trong thuyền.

Lúc bấy giờ, năm tên kia đang hò nhau quay khẩu pháo trên ụ, còn tên Hands đứng trước họng súng, tay cầm que nhồi thuốc, phơi mình ra ngay trước tầm ngắm của chúng tôi. Ấy thế mà, chúng tôi lại không gặp may vì ngay lúc ngài Trelawney bóp cò, hắn lại thụp người xuống, viên đạn xé gió bay sượt qua đầu hắn, làm một tên khác trong bọn ngã xuống.

Tiếng thét của gã bị trúng đạn không chỉ khiến cả bọn trên tàu rống lên theo, mà còn làm lũ trên bờ cũng gào lên ầm ĩ. Và nhìn theo hướng ấy, tôi thấy mấy tên cướp biển khác túa ra từ những lùm cây, nhảy ào xuống dưới thuyền.

“Chúng lao thuyền đến rồi, thưa ngài.” Tôi nói.

“Vậy phải lên bờ mau.” Thuyền trưởng kêu to. “Có làm nước vào thuyền cũng đành chịu. Nếu bây giờ ta không lên bờ được thì coi như xong!”

“Chúng chỉ cho có một thuyền đi thôi, thuyền trưởng ạ.” Tôi nói tiếp. “Đám còn lại chắc chắn sẽ chạy men theo bờ để chặn đường chúng ta.”

“Chúng sẽ phải chật vật lắm đấy, thưa ngài.” Thuyền trưởng đáp lại. “Ngài biết thủy thủ lên bờ thì sẽ thế nào mà. Cái tôi sợ không phải bọn chúng mà là khẩu pháo kia. Dễ như chơi bóng gỗ vậy! Đến một cô hầu cũng bắn trúng được chúng ta. Ngài điền chủ ạ, khi nào ngài thấy ngòi nổ cháy thì báo ngay để chúng tôi dừng chèo.”

Trong khi đó, chúng tôi cũng đã đi được một đoạn khá xa dẫu con thuyền chở nặng quá mức cho phép, trong lúc đi, nước có tràn vào thuyền chút ít. Giờ chúng tôi đã vào khá gần bờ, chỉ cần chèo thêm ba, bốn chục lượt nữa thôi là đã vào đến bãi cạn, có thể rời thuyền, do thủy triều rút làm lộ dải cát hẹp bên dưới mấy khóm cây. Cũng không phải sợ con thuyền của đám cướp biển kia nữa; mỏm đất nhỏ đã che cho chúng tôi. Thủy triều rút khi trước làm chúng tôi chậm trễ, bây giờ chuộc lỗi bằng cách giúp giữ chân kẻ địch cho chúng tôi. Chỉ còn lại duy nhất một mối nguy: khẩu pháo trên tàu.

“Nếu được…” Thuyền trưởng nói. “Tôi sẽ dừng lại mà hạ thêm một tên nữa.”

Nhưng rõ ràng, có làm thế cũng không khiến bọn kia chậm khai hỏa dù chỉ một giây. Chúng thậm chí còn chẳng thèm nhìn tên đồng bọn bị thương lấy một cái, dù hắn chưa chết, tôi còn thấy hắn ta lết ra chỗ khác kia mà!

“Chúng sắp bắn đấy!” Ngài điền chủ hô.

“Dừng chèo!” Thuyền trưởng hô theo, nhanh như tiếng vang dội lại.

Chưa kịp dứt lời, thuyền trưởng và bác Redruth đã văng ra sau thật mạnh, làm đuôi thuyền chìm hẳn xuống dưới nước. Cùng lúc đó, vang lên tiếng pháo nổ. Đó chính là tiếng nổ đầu tiên mà cháu Jim nghe thấy, vì cậu bé không nghe thấy tiếng súng của ngài điền chủ. Viên đạn bắn vào đâu, không ai trong số chúng tôi biết cả, nhưng tôi đoán nó đã bay sượt qua đầu chúng tôi và làm gió bạt vào thuyền, khiến chúng tôi gặp họa.

Dù sao thì đuôi thuyền cũng đã bị đâm xuống nước, chìm dần dần xuống tận gần một mét, chỉ còn có ông thuyền trưởng với tôi đứng quay mặt vào nhau. Ba người kia đều lao đầu xuống nước, rồi lóp ngóp đứng dậy, ướt sũng từ đầu đến chân.

Cho tới lúc ấy, thiệt hại vẫn không lớn lắm. Không ai thiệt mạng và chúng tôi an toàn lội vào bờ. Nhưng chỗ thức ăn dự trữ đều chìm cả xuống đáy; và tệ nhất, trong năm khẩu súng, chỉ còn có hai khẩu dùng được. May sao khi thuyền đắm, tôi lại rút khẩu súng bấy giờ đang giắt ở ủng lên và giơ lên cao quá đầu theo phản xạ. Còn ông thuyền trưởng, vốn tính cẩn thận, đeo súng trên vai và ngửa khóa lên trên. Ba khẩu còn lại đều chìm cả theo thuyền.

Thế vẫn chưa hết, chúng tôi còn nghe thấy tiếng động mỗi lúc một gần phát ra từ cánh rừng dọc bờ biển, không chỉ có nguy cơ bị chặn đường về chiến lũy khi hơn nửa số người trong nhóm đã mất vũ khí, tôi còn sợ Hunter và Joyce không đủ sáng suốt và giữ được phẩm giá mà bảo vệ thành nếu chẳng may bị nửa tá quân địch vây đánh. Hunter là người kiên định, chúng tôi đã quá rõ; nhưng Joyce thì chưa biết thế nào. Cậu ta là người dễ mến, lễ độ, làm hầu phòng, giúp nâng khăn sửa túi cho người thì tốt, chứ làm chiến binh thì e không hoàn toàn hợp.

Với tâm sự nặng trĩu, chúng tôi cố lội vào bờ thật nhanh, bỏ lại con thuyền tội nghiệp và một nửa số lương ăn cùng thuốc súng đằng sau.


[1] . Nguyên văn: “Long nine” một loại đại pháo bắn đạn nặng 9 pound (tương đương 4kg), thường gắn ở mũi hoặc đuôi tàu.