• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đảo giấu vàng
  3. Trang 27

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 44
  • Sau

Chương 19Jim Hawkins tiếp lời: Cố thủ trong chiến lũy

V

ừa trông thấy lá cờ tung bay trên nóc ngôi nhà gỗ, Ben Gunn liền đứng lại, dang tay ngăn lấy tôi và ngồi xuống.

“Giờ thì…” Anh ta nói. “Chắc chắn đây là bạn cậu rồi.”

“Khéo lại là bọn phản loạn cũng nên.” Tôi đáp.

“Không!” Anh ta kêu lên. “Này nhé, ở chỗ như thế này, người thường không ai dám vào, nếu là mấy quý ông giang hồ kia, lão Silver chắc chắn sẽ treo cờ đen có hình đầu lâu xương chéo, cậu không phải nghi ngờ gì đâu. Nhưng đây rõ là bạn cậu. Cậu cũng biết lúc trước đã xảy ra đánh nhau rồi đấy, và tôi đoan chắc, các bạn cậu đã thắng trận; họ đã lên bờ và giờ họ đang đóng trong chiến lũy cũ này đây. Lão Flint dựng chiến lũy này từ lâu lắm rồi, hàng bao nhiêu năm trước cơ. À, lão Flint có đầu óc lắm đấy nhé! Trừ khoản rượu rum ra, lão ta không có đối thủ đâu. Lão không sợ một ai; chỉ mỗi Silver thôi - lão Silver cũng thuộc dạng có số có má đó!”

“Chà!” Tôi đáp. “Có lẽ thế thật, vậy ta cứ vào luôn đi; tôi càng có lý do để nhanh chân lên mà tới gặp bạn bè mình.”

“Không, anh bạn trẻ ạ.” Ben nói. “Không được. Cậu là một cậu bé rất tốt, hoặc tôi đã nhầm; nhưng tóm lại, cậu vẫn chỉ là một cậu bé thôi. Ben Gunn này cũng tinh lắm đấy. Không phải vì rượu rum mà tôi tới đó, tới chỗ cậu đang chuẩn bị đến ấy - không phải rượu rum, cho tới khi tôi gặp được ngài quý phái của cậu và được nghe chính miệng ông ấy hứa danh dự. Và cậu chớ quên lời tôi, “anh ấy đặt niềm tin (cậu phải nói đúng như thế) - đặt trọn vẹn niềm tin…” - rồi véo ông ấy một cái.”

Vừa nói, anh ta vừa véo tôi cái thứ ba, cùng vẻ ranh mãnh như khi trước.

“Và khi nào cần tới Ben Gunn này, cậu đã biết chỗ tìm Ben rồi đấy, Jim. Chính là chỗ cậu nhìn thấy Ben ngày hôm nay. Và người đến tìm phải cầm một vật màu trắng trong tay, và nhất là phải đi một mình. Ồ, và cậu nhớ nói như thế này nhé “Ben Gunn”, cậu nhớ đấy, “Ben Gunn có lý do riêng của mình”.”

“Được rồi!” Tôi nói. “Tôi hiểu rồi. Anh có việc muốn đề xuất, và anh muốn được gặp ngài điền chủ hoặc bác sĩ, và tìm anh ở chỗ tôi gặp anh hôm nay. Chỉ thế thôi, đúng không?”

“Và khi nào? Cậu phải nói cả việc ấy nữa.” Anh ta nói thêm. “Xem nào, gặp quãng từ chính ngọ cho đến lúc gõ sáu tiếng chuông[1].”

“Được.” Tôi nói. “Giờ tôi đi được chưa?”

“Cậu sẽ không quên đấy chứ?” Anh ta bồn chồn hỏi. “Đặt trọn niềm tin, và lý do riêng của mình, cậu sẽ nói thế chứ? Lý do riêng; đó là cái cốt yếu đấy; giữa con người với nhau. Được rồi.” Vẫn siết chặt tay tôi, anh ta nói tiếp. “Tôi thấy giờ cậu đi được rồi đấy, Jim ạ. Mà Jim này, nếu cậu gặp Silver, cậu sẽ không bán đứng Ben Gunn này chứ? Có cho tứ mã phanh thây, cậu cũng không nói ra đấy chứ? Không, đúng không? Còn nếu bọn cướp biển đã đóng quân trên bờ, Jim ạ, thì e sẽ có mấy người phụ nữ phải góa chồng đó, cậu nghĩ sao?”

Ben nói tới đây, bỗng có một tiếng nổ lớn chen ngang, và một quả đạn đại bác bay vù đến, đâm xuyên qua những hàng cây, xói vào cát, chỉ cách chỗ hai chúng tôi đứng nói chuyện chưa đầy một trăm mét. Chúng tôi liền vắt chân lên cổ mà chạy tháo thân, mỗi người mỗi ngả.

Suốt một tiếng đồng hồ sau, pháo nổ liên tiếp, trái phá xé toạc rừng cây, làm cả hòn đảo rung chuyển.

Tôi nấp vào chỗ nọ, rồi lại chạy sang chỗ kia, nhưng sao vẫn thấy những viên đạn đáng sợ kia cứ bám theo mình hoài. Nhưng càng về cuối cuộc oanh tạc, dẫu vẫn chưa dám đánh liều chạy về phía chiến lũy, nơi đạn thường xuyên rơi xuống nhất, nhưng tôi cũng đã bắt đầu can đảm hơn lên, và sau hồi lâu vòng về hướng đông để tránh đạn, tôi bò rạp người, luồn lách qua những rặng cây ven bờ.

Mặt trời đã lặn, gió biển len lỏi qua rừng, vò đám lá cây nghe xào xạc, và làm mặt nước xám xịt chỗ tàu thả neo sóng gợn lăn tăn. Nước triều lúc bấy giờ đã rút xuống rất thấp, phơi ra những dải cát vàng dưới đáy. Trời trở lạnh, dẫu ban ngày nóng hầm hập như một cái lò hơi, tôi mặc áo khoác mà vẫn thấy rùng mình.

Tàu Hispaniola vẫn nằm ở chỗ chúng tôi thả neo lúc trước, nhưng quả nhiên, lúc này, lá cờ Jolly Roger - lá cờ đen có hình đầu lâu xương chéo của bọn cướp biển - đang bay phần phật trên ngọn cột buồm. Ngay lúc tôi quan sát, lại có ánh lửa đỏ lòe lên và một tiếng nổ đinh tai, rồi một viên đạn xé gió bay vút trên không. Đó là phát đạn cuối cùng.

Tôi nằm im một chỗ, quan sát nốt cảnh tất bật sau cuộc tấn công. Có một tốp đang dùng rìu phá cái gì đó ở bờ biển chỗ gần chiến lũy - là con thuyền nhỏ tội nghiệp, về sau tôi mới biết. Phía đằng xa, gần cửa sông, có ánh lửa bập bùng sau mấy hàng cây, và giữa chỗ đống lửa lớn đó với nơi tàu đang neo, có một chiếc thuyền con cứ bơi qua bơi lại. Tốp người mà tôi thấy ban nãy, quát tháo, hò hét, mấy tay chèo hệt như lũ trẻ con. Nhưng nghe giọng thì biết ngay chúng vừa nốc đẫy rượu rum.

Tới lúc đó, tôi thấy mình đã có thể chạy thẳng tới chỗ chiến lũy. Bấy giờ, tôi đang nấp ở xa tít trên mũi cát thấp gần chỗ tàu thả neo về phía đông. Bãi cát đó rất gần với đảo Xương Người, chỉ cần lội một đoạn ngắn là tới. Lúc đứng dậy, tôi thấy dưới mũi cát, tít đằng xa, giữa những lùm bụi thấp, có một tảng đá khá cao đứng trơ trọi, chỉ độc một màu trắng khác thường. Trông thấy tảng đá, tôi sực nhớ tới lời Ben Gunn. Có lẽ đó chính là phiến đá trắng mà anh ta nhắc tới. Rồi một ngày nào đó, khi cần tới một con thuyền, tôi có thể tới đó để tìm.

Rồi tôi cứ men theo rừng mà đi, mãi cho tới lúc quay lại bìa rừng ở phía bờ, phía sau lưng chiến lũy, và chẳng mấy chốc đã được những thủy thủ trung thành ở đó chào đón nhiệt tình.

Chốc sau, tôi kể lại mọi chuyện xảy ra với mình, rồi quan sát xung quanh. Căn nhà gỗ được đóng từ những thân cây thông, nhưng không được đẽo vuông vức. Từ mái, bốn bức tường đến sàn nhà cũng đều đóng bằng gỗ thông hết. Sàn nhà cao hơn mặt đất chừng ba, bốn mươi phân. Ở cửa có mái hiên, dưới mái hiên đó là một con suối nhỏ chảy vào một cái bể nhân tạo nom ngồ ngộ - Chẳng qua đó là cái nồi hơi dùng trên tàu, đã bỏ đáy và vùi xuống cát, sâu “đến tận miệng”, như lời ông thuyền trưởng nói.

Ngoài cái khung nhà, trong nhà chẳng có đồ đạc gì mấy, nhưng ở một góc có xếp mấy phiến đá làm lò sưởi và một cái rổ sắt đã han gỉ dùng để đựng than.

Hai bên sườn gò và bên trong bờ lũy, cây cối đã bị phạt hết để dựng nhà. Cứ nhìn mấy gốc cây bị chặt thì biết ở đây từng là một rừng cây xanh tốt um tùm. Đất đã bị rửa trôi hết hoặc người ta lấy đi lấp các hố sau khi đào gốc cây; chỉ có chỗ dòng suối nhỏ chảy xuống từ chỗ cái nồi hơi là có một thảm rêu dày cùng mấy cây dương xỉ, và mấy bụi dây leo xanh um bò lan trên cát. Xung quanh, gần sát bờ lũy - sát tới nỗi không sao phòng vệ được, người ta nói thế - là rừng cây sum sê vừa cao vừa dày, phía hướng vào bờ chỉ toàn thông là thông, nhưng phía hướng ra biển thì lại có các cây họ sồi mọc lẫn lộn.

Gió lạnh ban đêm luồn qua những kẽ ván, vừa rít, vừa liên tục rải những cơn mưa cát lên khắp sàn nhà. Cát bay vào mắt chúng tôi, cát chui vào kẽ răng, cát nằm lẫn với thức ăn, cát nhảy nhót trong lòng suối dưới đáy nồi hơi, nom giống hệt như một nồi cháo đang bắt đầu sôi. Ống khói của chúng tôi là một cái lỗ vuông khoét trên mái nhà, nhưng khói chỉ thoát ra ngoài theo lối ấy có một phần nhỏ, phần còn lại mù mịt lan ra khắp nhà, làm tất cả chúng tôi ho và chảy nước mắt liên tục.

Đã thế, anh Gray, anh lính mới nhập bọn, mặt phải quấn băng vì má bị thương lúc bỏ chạy khỏi đám nổi loạn, còn bác Tom Redruth vẫn chưa được chôn cất, đặt nằm dài ở sát tường, người cứng đờ, mình phủ lá cờ Anh.

Nếu chúng tôi cứ ngồi nguyên như thế mà không có việc gì làm, tất cả đám đều sẽ buồn chán đến chết đi được. Nhưng thuyền trưởng Smollett không phải là người chịu để cho thủy thủ đoàn của mình ngồi không. Ông cho gọi mọi người lại trước mặt, và chia thành từng nhóm. Bác sĩ, anh Gray cùng tôi vào một nhóm; ngài điền chủ, anh Hunter và anh Joyce một nhóm. Dẫu sáu người, ai cũng mệt nhưng hai người phải đi kiếm củi, hai người khác phải đào huyệt để chôn bác Redruth, bác sĩ được phân làm bếp, tôi ra cửa đứng canh phòng, còn thuyền trưởng thì hết đến chỗ người nọ lại đến chỗ người kia, khích lệ tinh thần chúng tôi và cả giúp chúng tôi nữa.

Chốc chốc, bác sĩ lại chạy ra cửa hít chút không khí trong lành và để cho mắt đỡ cay, vì trong nhà khói quá.

Cứ mỗi lần ra, bác sĩ lại nói với tôi mấy câu.

“Tay Smollett này...” Có lần, bác sĩ nói. “… Thật giỏi hơn ta nhiều. Ta mà nói thế tức là ta phục ông ấy thật đấy, Jim ạ.”

Lần khác, bác sĩ ra và im lặng một lúc. Rồi bác sĩ nghiêng đầu nhìn tôi.

“Gã Ben Gunn ấy đàng hoàng chứ?” Bác sĩ hỏi.

“Cháu không biết ạ, thưa bác sĩ.” Tôi đáp. “Nhưng cháu thấy anh ta không được bình thường cho lắm.”

“Việc ấy không có gì phải ngờ cả, Jim ạ.” Bác sĩ nói. “Một người phải ngồi cắn móng tay trông ngày tháng trôi qua trên một hoang đảo suốt ba năm ròng như cậu ta, Jim ạ, thì không thể mong đầu óc người ta bình thường như cháu hay ta được đâu. Như thế không đúng với tự nhiên. Cháu nói cậu ta thèm pho mát à?”

“Vâng ạ, chính là pho mát.” Tôi trả lời.

“Jim này!” Bác sĩ nói. “Nhìn mà xem mặt tốt của việc ăn uống cầu kỳ nhé. Cháu đã thấy hộp thuốc lá của ta rồi, phải không? Và cháu chưa bao giờ nhìn thấy ta hít hơi thuốc nào hết, nhỉ? Nguyên nhân là vì ta cất trong hộp thuốc ấy một mẩu pho mát Parmesan - pho mát làm ở nước Ý, cực kỳ bổ dưỡng. Chà, ta sẽ cho Ben Gunn!”

Trước khi ăn tối, chúng tôi chôn bác Tom xuống hố cát và đứng quanh huyệt, đầu để trần trước gió, để đưa bác đi. Củi cũng kiếm được kha khá, nhưng theo ý thuyền trưởng, thế vẫn chưa đủ. Thuyền trưởng cứ lắc đầu suốt và bảo chúng tôi “sáng mai phải năng nổ mà kiếm nhiều hơn”. Rồi, khi chúng tôi ăn xong thịt lợn muối, và mỗi người được một cốc nhỏ brandy, ba vị chỉ huy ngồi lại một góc bàn bạc về tình hình sắp tới.

Có vẻ các ông đều đã lâm vào thế bí, chỗ thức ăn dự trữ quá ít, khéo chúng tôi sẽ chết đói mà đầu hàng trước khi tàu cứu viện tới nơi. Giờ chỉ còn nước hạ sát lũ cướp biển, cho đến khi chúng chịu hạ cờ hoặc lên tàu Hispaniola mà bỏ trốn. Trước đây chúng có mười chín người, bây giờ chỉ còn có mười lăm, hai tên bị thương, và một tên - tên bị bắn cạnh khẩu trường pháo - nếu chưa chết, chí ít cũng đang bị thương rất nặng. Mỗi lần bắn nhau với địch, chúng tôi phải hết sức cẩn thận, tránh để bị thương hay mất mạng. Và bên cạnh đó, chúng tôi còn có hai đồng minh có hạng: rượu rum và khí hậu.

Đồng minh thứ nhất, dẫu ở cách xa quân địch cả cây số, chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng chúng gào rú và hát hò tới tận khuya vì hơi men; còn đồng minh thứ hai, bác sĩ quả quyết rằng, chúng đóng quân ở đầm lầy mà lại không có thuốc men gì hết, đảm bảo chưa tới một tuần, một nửa quân số phải nằm bẹp một chỗ.

“Vậy nên…” Bác sĩ nói. “Nếu chúng ta không bị chúng hạ gục, chúng sẽ vội vàng thu dọn mọi thứ mà lên tàu. Tàu nào mà chả là tàu, chúng sẽ dùng con tàu ấy mà hành nghề cướp bóc tiếp, tôi cho là vậy.”

“Lần đầu tiên tôi bị mất tàu đấy.” Thuyền trưởng Smollett nói.

Chẳng cần nói, chắc quý bạn cũng biết tôi đã mệt rũ; đến khi đi ngủ, sau một hồi trằn trọc, tôi ngủ say như chết.

Lúc tôi bị đánh thức do những tiếng huyên náo thì những người còn lại đã dậy từ lâu. Tất cả đã dùng xong bữa sáng và đã kiếm được thêm chừng một nửa chỗ củi lấy về hôm trước nữa.

“Có cờ trắng!” Tôi nghe tiếng ai đó nói; và rồi, ngay kế tiếp là tiếng kêu ngạc nhiên: “Silver kìa!”

Nghe thấy thế, tôi bật dậy, dụi mắt và chạy ra chỗ châu mai trên bờ tường, ngó ra ngoài.


[1] . Tức ba giờ chiều, theo cách tính giờ của giới thủy thủ kỷ nguyên tàu buồm.