G
ió bấy giờ thổi về phía tây, rất đúng ý chúng tôi.
Tàu chúng tôi chạy từ góc phía đông bắc hòn đảo đến cửa vịnh Bắc lại càng dễ dàng hơn rất nhiều. Chỉ có điều, bây giờ chúng tôi không thả neo được nữa và cũng không dám đưa tàu vào cạn khi thủy triều chưa lên hết mức. Thời gian như đọng trong tay chúng tôi, từng giây từng phút trôi qua sao vô cùng chậm chạp. Lão thủy thủ lái chỉ tôi cách làm cho tàu đứng yên một chỗ; tôi làm mãi mới được. Rồi hai chúng tôi lại ngồi xuống với bữa ăn của mình, yên lặng nhìn nhau.
“Thuyền trưởng này!” Sau một hồi im lặng, lão lại lên tiếng, cùng nụ cười đầy khó chịu đó. “Đây là bạn tàu cũ của tôi, O’Brien; chắc ông cũng định hất nó xuống biển. Cũng chẳng phải luật lệ gì đâu, và tôi cũng không khỏi bị khiển trách vì đã biến nó thành mớ bầy nhầy như thế kia, nhưng tôi không nghĩ cái thây của nó giờ lại làm đồ trang trí được, phải không nào?”
“Tôi không khỏe đến thế đâu, mà tôi cũng chẳng thích làm thế. Cứ để hắn nằm đấy, vì tôi.” Tôi đáp.
“Tàu Hispaniola này là một con tàu xúi quẩy, Jim ạ.” Lão nói tiếp, mắt chớp lia lịa. “Đã không biết bao nhiêu người bị giết, không biết bao nhiêu tay thủy thủ đã thiệt mạng và mất xác trên con tàu Hispaniola này rồi - kể từ khi ông và tôi rời bến Bristol cho tới giờ. Tôi chưa bao giờ trông thấy chuyện gì xúi quẩy đến như thế. Còn thằng O’Brien này - nó chết rồi, đúng không? Chà, tôi không được học hành gì mấy, còn ông lại là một thiếu niên biết đọc, biết tính toán, để tôi nói thẳng nhé, thế ông nghĩ người chết rồi thì chết hẳn, hay sẽ sống lại?”
“Ông có thể giết phần thể xác người ta, ông Hands ạ, nhưng không thể giết được linh hồn; hẳn ông phải biết rõ điều đó rồi.” Tôi trả lời. “O’Brien đã sang thế giới khác, và có khi ông ta đang theo dõi chúng ta đó.”
“A!” Lão nói. “Chà, thế thì tiếc quá nhỉ - xem ra, giết chóc có vẻ là việc phí thời gian ấy nhỉ? Dù thế nào đi nữa, linh hồn cũng không tính toán được gì đâu, tôi thấy nhiều sự vụ rồi, tôi biết. Tôi dám liều với đám linh hồn đó đấy, Jim ạ. Còn ông muốn nói thế nào cũng được. Còn bây giờ, xem nào, tôi sẽ rất cảm ơn nếu ông xuống dưới cabin kia và lấy giúp tôi một - một, ờ - hà bá bắt tôi đi! - định nói cái gì mà lại quên béng mất! À rồi, lấy giúp tôi một chai rượu vang, Jim ạ. Chai rượu này nặng quá. Rượu mạnh làm tôi đau đầu.”
Lúc bấy giờ, lão thủy thủ lái nói năng ấp úng như thế có vẻ không được tự nhiên cho lắm, và nhất là, lão lại chê rượu mạnh mà nhờ tôi lấy rượu vang, tôi hoàn toàn không tin một chút nào. Lão ta chỉ lấy cớ mà thôi. Lão muốn tôi rời khỏi boong tàu - chuyện đã quá rõ ràng; nhưng vì mục đích gì thì tôi không sao hình dung ra được. Mắt lão không hề nhìn vào mắt tôi, cặp mắt đó cứ đảo liên tục, hết liếc lên lại liếc xuống, khi thì ngước lên nhìn trời, giờ lại ghé sang cái xác của O’Brien. Suốt lúc đó, lão cứ nhếch mép cười, lưỡi thè ra rất gớm ghiếc và đầy tà ý, tới một đứa trẻ con cũng biết lão đang ủ mưu gian trong đầu. Tuy vậy, tôi vẫn trả lời lão ngay, vì tôi thấy như thế sẽ có lợi cho mình; và với một kẻ ngu xuẩn vô cùng như thế, tôi hoàn toàn có thể giấu được mối nghi ngờ dễ như trở bàn tay.
“Rượu vang à?” Tôi đáp. “Tốt quá đi chứ. Ông thích vang trắng hay vang đỏ?”
“Chà, tôi thấy vang trắng hay đỏ gì với tôi cũng như nhau cả, anh bạn ạ.” Lão đáp. “Miễn là rượu ngon và nhiều, trắng hay đỏ có vấn đề gì đâu cơ chứ?”
“Được rồi!” Tôi đáp. “Để tôi mang lên cho ông một chai vang đỏ, ông Hands. Nhưng phải chờ tôi tìm đã.”
Nói xong, tôi chạy xuống thang, cố ý giẫm chân thật mạnh kêu uỳnh uỳnh rồi tháo giày ra, nhẹ nhàng chạy qua hành lang dưới lòng tàu, leo lên thang dẫn lên boong đằng mũi, rồi ló đầu lên nhìn về phía đuôi. Tôi biết lão già không ngờ được tôi lại lên đằng đó để rình, nhưng tôi vẫn hết sức thận trọng và cảnh giác, và dĩ nhiên mối nghi ngờ của tôi là đúng.
Lão chống hai tay và hai đầu gối nâng người dậy từ lúc nào, và mặc dù, khi bò như vậy, chân lão sẽ đau đớn lắm - tôi nghe được cả tiếng lão rên rỉ theo từng cử động - nhưng lão vẫn cố bò thật nhanh ngang qua boong. Chỉ chừng nửa phút, lão đã ra đến chỗ mấy lỗ thông nước và thò tay vào trong cuộn dây thừng vứt ở gần đó, lôi ra một con dao lưỡi dài, hay chính xác hơn là một con dao găm người Scotland hay dùng. Lưỡi dao dính đầy những máu là máu, ngập tới tận chuôi. Lão nhìn con dao một lúc, hàm dưới lão chìa ra phía trước, lão gí thử mũi dao vào lòng bàn tay xem còn sắc hay không, và rồi, vội vàng giấu con dao vào túi áo trong ngực, xong đâu đó, lại lật đật lết về chỗ cũ, ngồi tựa vào mạn thuyền.
Tôi chỉ cần biết có thế. Israel vẫn có thể bò sang chỗ này chỗ nọ được, giờ lão lại còn có vũ khí, và nếu lão đã có dã tâm trừ khử tôi bằng mọi giá như thế, rõ ràng, nếu không cẩn thận, tôi sẽ trở thành nạn nhân của lão. Rồi lão sẽ làm gì sau đó - lão cố bò xuyên hòn đảo, từ vịnh Bắc tới chỗ đồng bọn hạ trại ở đầm lầy, hay sẽ bắn khẩu đại bác làm hiệu, tin tưởng đồng bọn sẽ kéo tới trước để cứu mình - dĩ nhiên tôi không sao đoán được.
Nhưng tôi chắc chắn mình có thể tin tưởng được lão ở một điểm, vì điểm này mang lại lợi ích cho cả hai chúng tôi: điều khiển con tàu vào cạn. Cả hai chúng tôi đều mong muốn đưa được tàu lên cạn an toàn, vào được nơi kín đáo, thuận tiện, và nhờ đó, đến khi cần, lại có thể đưa tàu ra biển mà ít nhọc công, ít nguy hiểm nhất; tôi thấy, chưa làm xong việc đó, tính mệnh tôi vẫn chưa lâm vào thế nguy.
Trong lúc đầu óc mải suy tính, tôi vẫn không chịu ngồi yên. Tôi lộn lại về cabin, xỏ lại giày, và vớ đại một chai rượu vang, và bây giờ, khi đã lấy được rượu rồi, tôi quay lên trên boong.
Tôi thấy lão Hands lại ngồi gục đầu như lúc tôi bỏ xuống bên dưới lòng tàu, nhưng có phần co quắp hơn và mắt nhắm tịt lại, tựa hồ như lão đã yếu quá, không chịu được nắng chói. Nhưng lão ngẩng lên nhìn khi thấy tôi tới gần, lão cầm lấy chai rượu, đập vỡ cổ chai, động tác dứt khoát, rất thạo, ra dáng một kẻ đã làm điều đó thường xuyên lắm. Lão tợp một hơi thật dài và nói: “May mắn tới đây!” - câu chúc ưa thích của lão. Rồi lão ngồi yên một lúc, sau đó lại lôi ra một thanh thuốc lá, năn nỉ tôi cắt giúp cho một mẩu.
“Thuyền trưởng hãy cắt giúp tôi một mẩu.” Lão nói. “Vì tôi chẳng có dao, mà có đi chăng nữa thì cũng chẳng đủ sức để mà cắt. À, Jim, Jim ạ, tôi thấy mình lỡ mất chuyến tàu này rồi! Hãy cắt giúp tôi một mẩu, chắc có lẽ đây cũng là lần cuối cùng tôi nhờ ông đấy, vì tôi sắp về với đất mẹ, ông thuyền trưởng nhí ạ, tôi nói không sai đâu.”
“Chậc!” Tôi nói. “Tôi sẽ cắt giúp ông mấy mẩu thuốc, nhưng nếu tôi là ông, khi thấy mình khó bề qua khỏi, tôi sẽ cầu nguyện như một con chiên ngoan đạo.”
“Sao?” Lão nói. “Ông nói cho tôi biết tại sao đi xem nào.”
“Sao à?” Tôi kêu lên. “Ông vừa mới hỏi tôi về cái chết. Ông tự lừa dối mình. Ông sống trong tội lỗi và dối trá, và cả máu nữa; kia là kẻ ông vừa giết chết, hắn ta hãy còn nằm ngay dưới chân ông, thế mà ông còn hỏi tôi tại sao ư? Vì ơn cứu rỗi của Chúa, ông Hands ạ, vì thế đấy!”
Tôi nói năng nghe cũng hùng hồn lắm, nhưng vẫn không quên nhớ tới con dao găm đẫm máu lão giấu trong túi áo ngực và đang rắp tâm đoạt mạng tôi. Còn lão, lão nốc một hơi rượu rồi nói với vẻ trang nghiêm đến lạ, khác hẳn lão bình thường.
“Suốt ba mươi năm qua.” Lão nói. “Tôi lênh đênh trên biển, đã chứng kiến nhiều chuyện tốt - xấu, chuyện hay, chuyện dở, lúc sóng yên bể lặng cũng trải mà những khi bão táp mưa sa cũng từng, lúc lương ăn cạn hết, khi chém giết điên cuồng, không sao kể xiết. Chà, tôi nói cho ông nghe, tôi chưa thấy ai ở hiền mà lại gặp lành cả. Ra tay trước mới được lợi thế, sống trên đời phải thật nhẫn tâm, tôi thích như thế hơn. Kẻ chết rồi đâu có cắn được - chết là hết! Phương châm của tôi đó - Amen! Mà này, giờ ông nghe đây!” Lão đột ngột đổi giọng, nói tiếp. “Chúng ta tán nhảm đủ rồi đấy. Giờ nước triều cũng lên cao rồi. Ông hãy theo lệnh tôi, thuyền trưởng Hawkins ạ, chúng ta cho tàu vào cạn thôi, làm chóng cho xong!”
Tính ra, chúng tôi chỉ phải đi hơn ba cây số nữa; nhưng đoạn đường biển này phải đi hết sức cẩn thận, đường vào bến phía bắc này không những hẹp về hai phía đông - tây mà lại còn cạn, phải lái sao cho thật khéo mới đưa tàu vào được. Tôi thấy mình là một anh trợ việc rất đắc lực và lanh lẹ, còn lão Hands, tôi đảm bảo lão là tay hoa tiêu lành nghề, cực kỳ xuất sắc. Đường đi khó là thế nhưng lão chỉ tôi lái sao cho tàu chạy lắt léo, dần dần lượn sát vào bờ một cách chắc chắn và gọn gàng, nhìn rất thỏa mãn.
Chúng tôi vừa vào được cửa vịnh thì đã thấy đất liền bao xung quanh. Bờ vịnh Bắc cũng um tùm cây cối giống như chỗ tàu thả neo ở phía nam, nhưng chỗ này dài hơn, hẹp hơn và giống cửa sông hơn - và sự thật đúng là như vậy. Ngay trước mặt chúng tôi, ở mũi phía nam, có một xác tàu đắm đã gãy nát, ọp ẹp, có lẽ nó nằm đó từ lâu lắm rồi. Nó từng là một con tàu ba cột buồm to lớn, nhưng phải phơi mình chịu trận trước sự tàn phá của thiên nhiên suốt một thời gian quá dài nên rong biển bám lủng lẳng, ken đặc như cái mạng nhện khổng lồ. Cây cối phía trên bờ cũng đã bén rễ xuống dưới tận boong tàu, mọc xanh um, tươi tốt và còn trang trí cho xác tàu bằng những bông hoa nở rộ. Cảnh tượng xác tàu đắm buồn thảm là thế, nhưng đồng thời, cũng cho thấy chỗ bỏ neo này gió yên sóng lặng.
“Nào!” Lão Hands nói. “Nhìn mà xem; chỗ này mà cho tàu vào cạn là đẹp đấy. Cát phẳng lì, đến một gợn gió nhẹ cũng không có, cây cối mọc xanh xung quanh, còn hoa thì nở tưng bừng như trong vườn cảnh trên con tàu kia vậy.”
“Khi đã cho tàu lên cạn rồi…” Tôi thắc mắc. “Làm sao sau này ta đưa tàu ra biển lại được?”
“Sao à?” Lão trả lời: “Chăng dây ra đằng kia lúc nước ròng, tức là lúc nước triều xuống mức thấp nhất ấy! Ông cầm một đầu dây vòng qua mấy thân thông to ở mạn kia kìa, rồi tiếp tục kéo dây về quấn vào trục tời, quay một vòng tời, rồi ngồi đợi nước triều. Đợi lúc nước lớn, tức là lúc thủy triều lên cao nhất, ta cùng xúm vào kéo, tàu lại ra biển ngon ơ! Còn giờ, ông chuẩn bị chờ lệnh đi, ông nhõi ạ. Chúng ta gần tới nơi rồi đấy, mà tàu chạy nhanh quá. Sang phải một chút... rồi... thẳng thế... sang phải... sang trái một chút... thẳng thế... thẳng thế!”
Lão truyền lệnh, còn tôi làm theo muốn hết hơi, rồi bất thình lình, lão kêu to: “Này, anh thủy thủ, lái vào chiều gió đi!” Tôi đẩy mạnh cần lái lên, tàu Hispaniola lượn lại rất nhanh, đi thẳng về phía bờ cạn có nhiều cây cối mọc um tùm.
Khi lái cho tàu lượn được như thế, tôi phấn khích ghê lắm, cũng vì phấn khích quá mà tôi không để ý tới lão thủy thủ lái sát sao như trước. Thậm chí, tới lúc chờ tàu cập vào bến, tôi vẫn còn thích thú lắm, tới nỗi quên mất mối nguy đang lơ lửng treo trên đầu mà ung dung nghển cổ nhìn qua mạn tàu bên phải, ngắm những đợt sóng trắng xóa xòe rộng đằng mũi tàu. Chắc tôi đã mất mạng mà chẳng kịp chống cự nếu không bỗng dưng thấy bất an và quay đầu lại. Không rõ vì tôi nghe thấy tiếng cọt kẹt hay nhìn thấy bóng người thấp thoáng qua đuôi mắt; hay do bản năng xui khiến nữa. Nhưng lúc đó, khi quay đầu lại nhìn, tôi thấy lão Hands đã gần tiến tới chỗ tôi, tay phải lăm lăm con dao găm nhọn hoắt.
Khi nhìn thấy nhau, cả hai chúng tôi cùng kêu rú lên thật to, nhưng tôi rú lên vì sợ, còn lão gầm lên vì tức giận, như một con bò điên đang muốn xông thẳng vào người tôi. Ngay lúc đó, lão lao bổ tới trước, còn tôi nhảy tránh sang một bên, hướng về phía mũi tàu. Lúc tránh lão, tất nhiên tôi phải thả cần lái ra, làm nó bật mạnh tới trước, đập ngay vào ngực lão Hands, khiến lão ngã lăn ra bất tỉnh. Nhờ thế mà tính mạng tôi được cứu trong gang tấc.
Trước khi lão kịp tỉnh lại, tôi đã an toàn thoát khỏi góc chết, giờ tôi có thể chạy khắp boong để tránh lão. Lúc chạy ra trước cột buồm chính, tôi đứng lại, rút khẩu súng lục trong túi ra, bình tĩnh ngắm bắn, dù khi đó, lão cũng đã lồm cồm bò dậy và xông lại gần tôi. Tôi bóp cò. Búa đập xuống nhưng không có tia lửa lóe lên mà cũng không có tiếng nổ, thuốc súng đã bị nước biển làm ướt hết. Tôi tự trách mình vì đã quá lơ đễnh. Sao tôi không nhồi lại thuốc súng và nạp lại đạn cho món vũ khí duy nhất của mình từ sớm cơ chứ? Nếu thế thì tôi đã không lâm vào tình cảnh ngặt nghèo này, giờ tôi chẳng khác nào con cừu đang cố tìm cách thoát khỏi mũi dao của tay đồ tể.
Dẫu bị thương nặng là thế, lão vẫn nhanh nhẹn lạ thường. Mớ tóc hoa râm trên đầu xòa hết xuống mặt lão, còn mặt lão đỏ gay như gà chọi vì vội vã và thịnh nộ. Tôi không kịp thử khẩu súng còn lại, mà tôi cũng chẳng muốn thử, vì tôi biết chắc chắn khẩu súng ấy giờ đã vô dụng. Tôi chỉ thấy rõ một điều: Chuyện không đơn giản chỉ là tôi phải tránh được lão, nếu không, lão sẽ lại dồn tôi vào chỗ bí ở đầu tàu, hệt như lúc lão suýt lùa được tôi vào góc kẹt ở đuôi tàu mới vừa rồi. Một khi đã bị tóm, chỉ cần con dao găm kia cắm phập một phát chừng mươi phân vào người, tôi sẽ phải yên giấc nghìn thu. Tôi chống tay vào cột buồm chính to lớn, căng thẳng chờ đợi.
Thấy tôi định tìm đường chạy, lão cũng dừng lại; lão làm vài động tác giả để nhử tôi và tôi cũng nhử lại lão. Thật chẳng khác gì trò tôi vẫn chơi cùng chúng bạn khi chúng tôi nấp sau những tảng đá ở vịnh Đồi Đen nơi quê nhà! Nhưng chắc chắn, hồi ấy, tim tôi chưa bao giờ đập loạn xạ đến thế này. Nhưng, như tôi đã nói, đây chỉ là một trò trẻ con, và tôi thấy mình hoàn toàn có thể chống cự được một lão thủy thủ già với cái chân đang bị thương. Quả thực, tôi bắt đầu vững dạ hơn, tới nỗi trong đầu còn thoáng nghĩ không biết chuyện này sẽ kết thúc như thế nào, và tuy biết chắc mình có thể kéo dài trò mèo đuổi chuột này, tôi lại không thấy có hy vọng trốn thoát được lão.
Lúc đó, khi lão Hands và tôi vẫn còn đang rình nhau, bất ngờ, tàu Hispaniola đâm phải chướng ngại, loạng choạng, mắc luôn vào bãi cát một lúc, rồi sau đó, nhanh như tên bắn, tàu nghiêng hẳn về bên trái làm boong nghiêng một góc tới bốn mươi lăm độ, nước ùa xối xả vào lỗ thông nước và đọng lại thành vũng giữa boong với thành tàu.
Lão Hands và tôi cùng ngã sấp, cả hai chúng tôi cùng lăn xuống chỗ những lỗ thông nước, cả tên đội mũ đỏ đã chết, hai tay vẫn dang ngang, cũng bị xô thẳng vào chúng tôi. Tôi bị xô tới gần lão Hands, đầu tôi đập vào chân lão thủy thủ lái, mạnh tới nỗi hai hàm răng của tôi cũng va mạnh vào nhau, kêu lách cách. Dẫu đau là thế, tôi vẫn là người đầu tiên đứng dậy, vì lão Hands bị vướng xác tên mũ đỏ. Tàu bị nghiêng bất ngờ, dốc đến như thế, không thể chạy trên boong được nữa; tôi phải tìm đường khác mà chạy trốn, và phải thật nhanh, vì kẻ thù của tôi đã sắp chạm được vào tôi. Nghĩ là làm, nhanh như chớp, tôi phóng lên chỗ mạng dây néo đằng sau cột chính, cố bám chặt lấy dây mà đu lên, mãi đến khi ngồi được lên trên cây ngang[1] gần đỉnh cột buồm, tôi mới dám thở.
Nhờ nhanh chân, tôi mới thoát chết; con dao găm phóng xuống chỗ chỉ cách tôi chừng mười lăm phân tính từ dưới lên, vì vừa lúc ấy, tôi lấy hết sức bình sinh, kịp thời nhảy lên cao; lão già Israel Hands đứng như trời trồng, miệng há hốc, mặt ngửng lên nhìn tôi, vừa bất ngờ hết sức vừa thất vọng tràn trề.
Tạm thoát được lão, không để phí thời gian, tôi nhanh chóng nhồi lại thuốc súng, vậy là một khẩu súng đã có thể dùng được, và để cho thêm phần chắc chắn, tôi cũng nạp đạn mới và nhồi lại thuốc từ đầu cho khẩu súng thứ hai.
Tôi làm như thế khiến lão Hands điếng hết cả người. Lão bắt đầu thấy mình sắp thất thế. Sau một lúc ngần ngừ thấy rõ, lão cũng lết tới chỗ dây néo, răng cắn chặt con dao, tay bám chắc vào dây, từ từ trèo lên, trông đau đớn lắm. Lão mất rất lâu mới leo được lên dây, vừa leo vừa rên xiết lê cái chân bị thương theo sau. Còn tôi, trong lúc đó, cứ im lặng mà nhồi thuốc. Lão chưa leo được một phần ba đường, tôi đã chuẩn bị xong xuôi cả hai khẩu súng. Rồi, mỗi tay cầm một khẩu, tôi ngắm thẳng vào lão.
“Ông Hands, chỉ cần ông tiến thêm một bước thôi.” Tôi nói. “Tôi sẽ bắn ông nát sọ! Người chết rồi không cắn được, ông biết rồi đấy.” Nói tới đó, tôi cười khùng khục trong cổ họng.
Lão không dừng lại ngay. Nhìn mặt lão, tôi biết lão đang suy tính gì đó, nhưng lão nghĩ lâu quá và trông khó nhọc quá, làm tôi trông thấy phải bật cười thật to trên chỗ trú ẩn an toàn mới tìm được. Cuối cùng, lão nuốt khan mấy cái rồi mới lên tiếng, mặt lão vẫn còn nguyên vẻ bối rối tột cùng. Và để mở miệng ra nói, lão phải bỏ con dao ra khỏi mồm, nhưng cả người vẫn đứng yên không nhúc nhích.
“Jim ạ!” Lão nói. “Ta thấy cả hai ta đều đang cảnh thất cơ lỡ vận, cả ta và cậu, chúng ta nên ký giao kèo, cùng dàn xếp sao cho êm. Nếu con tàu không bị đổ nghiêng, ta đã bắt được cậu rồi, nhưng ta lại không gặp may đến thế. Ta thấy ta nên đầu hàng, nghe khó chấp nhận thật đấy, cậu cũng biết mà, một tay thủy thủ lão luyện bậc thầy như ta mà phải đầu hàng thằng nhóc thủy thủ học việc trẻ măng như cậu, Jim ạ.”
Tôi như uống từng lời lão nói, lấy làm thích thú lắm, không giấu được nụ cười. Lúc tôi đang còn dương dương tự đắc như con gà trống đậu trên bờ tường, thì bất thình lình, lão vung tay phải ra sau vai. Có cái gì xé gió lao vút tới như một mũi tên; tôi thấy như mình vừa lãnh trọn một cú đấm cực mạnh, rồi tôi thấy đau nhói tới tận óc. Tôi bị ghim vai vào cột buồm. Trong cơn đau tột cùng và nỗi bất ngờ - tôi hoàn toàn không cố ý và chắc chắn, tôi không hề có chủ đích - cả hai khẩu súng của tôi đều phát nổ và cùng tuột khỏi tay tôi. Nhưng chúng không rơi xuống một mình; cùng một tiếng thét nghẹn lại nơi cổ họng, lão thủy thủ lái cũng buông tay khỏi mạng dây néo và đâm đầu xuống dưới nước.
[1] . Nguyên văn: “cross-trees”. Hai thanh xà ngang nhỏ, ngắn nằm ở gần đỉnh cột buồm để đỡ cột và chăng dây lèo.