Tam Đảo ở đâu nhỉ? Tam Đảo có thật không nhỉ? Chắc phải có thật thì mới có tên chứ. Tỉ như Giếng Nghè, Cầu Khoai làng mình ấy. Lão Bật ngồi vót nan dưới gốc đa cổ thụ đầu làng cứ nghĩ vẩn vơ như vậy. Con dao dài cán cong hình chữ U lướt đi lướt lại loang loáng. Trời nắng lừ đừ mắt mà chỗ lão Bật ngồi vẫn mát mẻ thanh tịnh. Đống nan cao dần. Dáng lão Bật ngồi như pho La Hán đói, mặc quần đã thu ngắn ống, áo đã thu ngắn tay khoác hờ, nước da ngăm đen hơn chùng. Lão Bật là hạng tứ cố vô thân. Lão chiếm gốc đa làm của riêng mấy chục năm nay. Con dao vót nan cũng đã qua mấy đời. Lão làm nghề đan mà nghiễm nhiên kiêm luôn việc gác làng bất đắc dĩ. Ai đi ai về, ai sắm được đồ gì mới lão Bật đều biết tuốt. Lão còn nhận ra rằng, thời thế thay đổi nên cách thức người làng ra đi cũng khác nhau. Thời trước thường là người đi về trong ngày. Nếu trong ngày mà không về là biệt tăm luôn. Ai về được thì hiếm người được lành lặn hẳn hoi. Thời nay người đi hàng năm mới về, ai cũng béo tốt, trắng trẻo hơn. Người làng loãng đi trông thấy. Nhiều đứa đang tuổi chăn trâu cũng náo nức ra đi làm kinh tế. Vì làm gì còn trâu mà chăn. Trừ nhà thằng Trần Công Nghiệp, bạn thân nhất của lão Bật mấy năm nay. Thằng này rất máu làm giầu. Học hết lớp 5 nó đã lên kế hoạch tập trung phát triển kinh tế nông thôn “ly nông bất ly hương”: chăn trâu. Kế hoạch lập tức được thầy nó phê duyệt, u nó thông qua. Nó đã khảo sát kĩ lưỡng tiềm năng đất đai cho kế hoạch khả thi. Cả làng không có mống trâu nào, cỏ đồng tốt bời bời. Cứ thử tổng cộng chi li số bờ cỏ đồng làng mà xem, hơi bị ít đấy, kém gì quả đồi đâu, thả sức nuôi được một trại trâu. Trần Công Nghiệp tự ra quyết định thôi học để phấn đấu làm một “anh hùng” ngành chăn nuôi. Quyết định của nó rắn như đá tảng (có lẽ mọi thứ quyết định đều rắn như đá tảng thế) khiến cô giáo, ông trưởng họ, bác trưởng thôn đều toè lời vận động phổ cập. Sau mấy năm cần mẫn, từ một con trâu cái, nay nhà nó đã có ba con cái thay nhau đẻ. Hầu như lúc nào cũng có nghé. Nghé xấu xuất xe Min đi làm món thui. Nghé đẹp bán cho lái chọi Đồ Sơn. Trần Công Nghiệp còn táo bạo lên kế hoạch dựng sới chọi trâu nhưng kế hoạch mới chỉ ấp ủ, manh nha, chưa thể thực thi vì đồng tiền chi dùng thúc giục phải xuất nghé đi. Không có bạn chăn trâu, Trần Công Nghiệp đành đánh bạn với lão Bật đan. Nghe lão Bật nêu giả thiết và tự kết luận về Tam Đảo, Trần Công Nghiệp cũng thấy thú. Tam Đảo có thật à? Hẳn là thế. Không có thật sao lại có tên. Tỉ như Giếng Nghè, Cầu Khoai làng mình ấy. Vậy “nó” ở đâu nhỉ. ừ, nó ở đâu nhỉ? à, nó phải ở đâu đó ngoài tít tắp biển Đông. Đảo phải ở ngoài biển mà. Không phải thế, hình như nó ở phía tây. Những hôm trong trời tao thấy mấy ngọn núi lam ở lưng chừng trời tây. ánh mặt trời còn dát vàng, dát bạc trên đỉnh, đúng là núi chứ không phải là mây đâu. Trời trong khắc thấy núi đột ngột bay đến chắn tầm nhìn. Trời đất chẳng cho con người tầm nhìn xa mới ác chứ. Tao phục lão Trần Công Ngu, tổ nhà mày, dám hót núi hất đi. Dẫu biết việc chẳng đi đến đâu, nhưng ít ra cũng tỏ được thái độ đòi quyền được nhìn xa với đất trời. Phía tây cũng có biển à, sao không thấy ai gọi là biển Tây. ấy đấy, vấn đề là thế đấy. Cũng như làng mình ai bảo là có trâu, thế mà lại có trâu nhà mày đấy. Lão Bật ví dụ sát sàn sạt khiến Trần Công Nghiệp cứng họng. Nghe nói người ta còn dựng cả tháp truyền hình trên đỉnh Tam Đảo, cứ đi theo đường sóng truyền là tới. Mày lớn rồi cũng nên làm chuyến xem sao. Này, trên đó có tiên đấy. Lên đó kiếm cô vợ tiên cũng hay đấy chứ. Thế sao lão không kiếm vợ tiên cho chính lão trước đi? Tao khác. Tao tuổi canh, canh biến vi cô, cô độc quen rồi. Nhưng kể ra đi được một chuyến cũng hay. Mày có dám cùng đi với tao không. Sợ gì, làm trai chí lớn để đời, đi thì đi. Thế là lão Bật đan và Trần Công Nghiệp, một già một trẻ kết nghĩa anh em, lên kế hoạch đi Tam Đảo. Tiền ăn đường không lo, Nghiệp bắt chước Cuội bán trâu. Hết tiền thì con dao nan và bàn tay vàng của lão Bật sẽ được việc. Đi bộ để rèn luyện sức khoẻ một thể. Nghiệp thủ đôi giày da Côxưghin của bố. Lão Bật có sẵn đôi giày da gia truyền. Chọn đúng ngày thiêng mồng Tám tháng Tư xuất phát.
*
Ngày mồng Bảy, mồng Tám, mồng Chín tháng Tư người làng Khoai nhộn nhịp đi chơi hội Khám, hội Dâu, hội Gióng. Chẳng ai để ý đến sự thiếu vắng lão Bật, thằng Nghiệp và đàn trâu. Hội tan cả làng mới nhộn lên giúp nhà họ Trần tìm người tìm của. Chạy ra gốc đa hỏi thăm thì lão Bật cũng mất tăm, chỉ còn lại đống nan và mấy cái mê đan dở. Giả thiết, rất nhiều giả thiết. Bán tín bán nghi. Người bảo báo đi công an ngay. Người bảo chẳng cần, lão Bật sức mấy bắt nổi thằng Nghiệp đem bán. Mà lão Bật cũng lạ, dám bỏ gốc đa ra đi thì loạn thật. Cái thời xô nhau làm tiền này con người như dở hơi cả. Chẳng lẽ lão Bật rủ thằng Nghiệp đi đào vàng. Thế còn mấy con trâu đâu. Của đống tiền chứ ít à. U thằng Nghiệp khóc tru tréo lên vì xót con. Thầy thằng Nghiệp quát nhặng xị vì xót của. Rồi xóm làng cũng lặng đi trở lại nếp thường. Cháu họ lão Bật thừa kế gốc đa, dựng lên quán bia bom có karaôkê phục vụ. Hậu cung quán có ban thờ lão Bật, nhưng chủ quán nói thác đi là ban thờ thổ địa.
Trong khi đó có huynh đệ lão Bật sóng bước mải miết về phía tây. Lão Bật vai khoác tay nải, tay cầm dao vót nan gia truyền. Trần Công Nghiệp khoác ba lô lộn, tay khư khư chiếc đài có tai nghe, vừa đi vừa nghe nhạc. Cứ cắt góc phương vị mà đi. Qua làng. Qua đồng. Qua sông. Qua núi. Đói ăn bánh mì, lạc rang. Khát uống nước sông, nước suối. Tối trải áo mưa ra nằm. Kể ra mấy ngày đầu cũng mỏi, Nghiệp ta muốn bỏ về, nhưng lão Bật chỉ nhắc chuyện đàn trâu là nó ngại, lại quyết đi tiếp. Cũng có lần ngủ nhờ ở một làng ven sông Cà Lồ, suýt bị rắc rối vì thằng Nghiệp không có chứng minh thư. Ai tin được nó là người họ Trần làng Khoai. Nhỡ nó là phần tử Ankêđa thì sao. Dân quân khám ba lô lộn, không tìm thấy vũ khí chất nổ, chỉ có chiếc rađiô là khả nghi. May mà khi kiểm tra các núm nút, rađiô chỉ biết nghe chứ không biết phát. Băng nhạc cũng chỉ có băng Đan Trường và băng quan họ, không phải văn hoá phẩm đồi truỵ. Nhưng làm sao chứng minh anh đúng là Trần Công Nghiệp làng Khoai đây. Nghiệp đành kể tỉ mỉ tên các xứ đồng, tên các gia đình hàng xóm, tên một loạt cán bộ thôn, xã. Bí thư xã là Trần Khắc Tiến à. Thế thì tôi biết. Ti vi vừa phát hình hôm qua. Xã ấy đang là điểm quy chế dân chủ cơ sở đấy. Thôi cho qua. Đôi bạn một già một trẻ cứ đi, đi mãi, chân dẻo ra không biết mỏi là gì. Càng về phía tây làng xóm càng thưa dần. Đường cũng hướng lên cao dần. Có lần đôi bạn đi mấy ngày không gặp làng nào để mua đồ ăn, đành phải dừng lại tát vét bắt cá. Nghe chừng sắp đến Tam Đảo rồi cũng nên. Họ động viên nhau như vậy. Đường càng lên cao càng vắng vẻ. Chỉ còn tiếng rừng, tiếng suối hoang sơ. Sương mù dày đặc. Thằng Nghiệp bỗng nổi máu thi sĩ liền cảm tác mấy vần thơ về cảnh mây cảnh núi: Ta kéo mây về đắp rừng cây lạnh/ Ta vén mây phơi nắng ấm chan hoà/ Đất trời khoả thân run rẩy/ Ta thắp lòng mình cháy với bao la. Nghe thằng Nghiệp vừa đi vừa ngâm nga ư ử, lão Bật gật gù tấm tắc: Mày có thể trở thành Huy Cận, Xuân Diệu của thiên kỉ mới lắm. Sương mù vẫn đùn lên dày đặc không nhìn rõ đường đi. Nếu không có chiếc đài thì khó mà biết được là ngày hay đêm. Đột nhiên đường đi cảm thấy bằng phẳng hơn và xuất hiện những giàn su su tầng tầng lớp lớp, bạt ngàn nối tiếp ven đường. Chắc có làng đâu đây. Phải thế chứ. Năm mươi con theo mẹ về non chẳng lẽ đến nay vẫn chưa có ai đến ở đất này hay sao? Vô lý lắm. Cái thời buổi tấc đất tấc vàng này làm gì có chuyện đất không người. Quanh co một thôi một hồi len lách qua các giàn su su, đôi bạn cuối cũng cũng gặp được một ông già. Lão Bật hỏi thăm đường. Tam Đảo hả? Hình như có đấy. Nó ở đâu đó phía tây kia kìa. Ông già nói xong lẫn ngay vào màn sương dày đặc. Đi tiếp, hết bài “Tương phùng tương ngộ” thì gặp mấy cô gái trẻ. Lần này Trần Công Nghiệp tiến đến hỏi thăm đường. Mấy cô gái cười ré lên khiến Nghiệp nóng bừng mặt xấu hổ. Có một cô vẻ thông thạo giảng giải: Thấy bảo Tam Đảo có hai hòn đảo nổi, một hòn đảo chìm, quanh năm sương khói mây mù che phủ. Đó là nơi tiên ở. Ai đến được đó thì không còn nhớ đường về đâu, chẳng lẽ hai anh không sợ hay sao mà hỏi đường đến đó. Làm trai chí lớn ở đời, sợ cả nơi tiên ở thì còn kể làm gì nữa. Hôm nay tối rồi, xin các cô chỉ giúp nơi nghỉ trọ. ở đây không có nhà trọ, nếu các anh không chê, mời vào nhà em tạm nghỉ cho lại sức đã. Huynh đệ lão Bật nhìn nhau, khẽ gật đầu đồng ý rồi theo cô gái về nhà. Nhà cô gái thưng toàn cây gỗ nguyên, lộng lẫy như một lâu đài. Thì ra cô gái chính là chủ nhân, còn mấy người đi cùng là người hầu. Họ nhanh nhẹn gánh nước, nhóm lửa đun nước cho huynh đệ lão Bật tắm. Nước ấm pha tinh dầu trám, làm cho cơ thể đôi bạn sảng khoái không thể tưởng tượng được. Tắm xong họ được mời ăn tối. Khai vị là rượu nếp cẩm ngâm lâu ngày nhắm với hạt dẻ. Cháo gạo nếp nấu lẫn củ từ tía, thêm món ngọn su su xào tỏi. Ăn xong lại có hồng ngâm tráng miệng. Lâu lắm mới được bữa nóng sốt, đôi bạn ăn như rồng cuốn. Sao lại lắm món đặc sản lạ miệng đến thế. Hương vị còn giắt mãi ở kẽ răng đầu lưỡi. Ăn uống xong, cô chủ mời đến phòng khách. Dưới ánh đèn dầu lạc leo lét, cô chủ tóc búi cao, mặc bộ đồ tơ tằm vàng óng trông lung linh huyền ảo khác nào tiên nữ. Đôi bạn không cả dám nhìn. Cô chủ duyên dáng giới thiệu:
- Thiếp là Trám Nương, con gái thứ chín Mẫu Hồng Đăng Ngàn. Thiếp là chủ khu rừng trám này. Do có duyên trời định với chàng Trần Công Nghiệp nên có ý đợi sẵn từ lâu. Nay chàng đã đến thì chúng ta mau kết làm vợ chồng, có đại huynh kết nghĩa làm chứng.
Trần Công Nghiệp không tin ở tai mình, vội hỏi lại:
- Cô không phải là ma, cũng không phải là tiên đấy chứ?
- Thiếp chỉ là vợ chàng thôi.
Chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào, chàng Nghiệp quay sang hỏi ý lão Bật. Lão đáp bừa: chắc là duyên phận phải chiều thì cứ chiều thôi. Anh xin chúc phúc cho chú em tốt số.
Trám Nương sai mở nhạc. Dòng nhạc véo von réo rắt tràn ra như lưu thuỷ hành vân. Đoàn nữ hầu xiêm y rực rỡ thướt tha tiến vào múa lượn. Chỉ thấy những khuôn mặt thanh tú, thân hình thon thả kiều diễm uyển chuyển trong mùi hương trám nồng nàn. Chàng Nghiệp hau háu như hổ đói thấy mồi, quên cả Trám Nương huyền ảo bên cạnh. Bực quá, Trám Nương phất tay một cái, đoàn múa vội lui ra như đàn chim chớp cánh về trời. Lão Bật cũng được mời đi nghỉ. Trám Nương đưa chàng Nghiệp vào hoa phòng. Chàng Nghiệp lẽo đẽo theo sau như trâu lạ về chuồng mới. Của đáng tội, chàng Nghiệp tuổi vừa đôi tám, thân thể tuy cường tráng đấy nhưng là hạng có lớn mà chưa có khôn, đứng trước con gái nào biết làm gì. Trám Nương thì thào: thiếp vẫn còn trinh, sao chàng cứ đứng ngây ra thế. Trám Nương càng giục chàng ta càng ngây như phỗng. Trám Nương đành tự cởi hết xiêm y nằm lên giường, gắt: Sao chàng bảo đi tìm Tam Đảo? Thì Tam Đảo đây, trời quanh mây tạnh đã nhìn rõ chưa? Hai đảo nổi phía trên, một đảo chìm phía dưới, nào đã nhìn rõ chưa? Thế mà cũng lớn tiếng làm trai cho đáng nên trai, chí lớn để đời kia đấy.
Bị Trám Nương mắng, chàng Nghiệp mới tỉnh cơn ngây se sẽ tiến về phía giường. Lại một lần nữa chàng Nghiệp ngây ngất trước vẻ đẹp nguyên sơ, kỳ vĩ của “Tam Đảo” mà tạo hoá đã ban cho loài người.
Sớm hôm sau chàng Nghiệp tỉnh giấc vì cái đài ọt ẹt bên tai. Bây giờ đang là mục “Quảng cáo và nhắn tin”. Giọng phát thanh viên rành rẽ: “Trần Công Nghiệp tuổi mười bảy, cao 1 mét 65, da trắng, bỏ nhà đi ngày mồng Tám tháng Tư, nay ở đâu hãy báo tin cho gia đình biết. Ai được tin báo cho gia đình theo địa chỉ: làng Khoai, huyện... tỉnh... hoặc cơ quan công an gần nhất, chúng tôi xin cảm ơn và hậu tạ”. Trần Công Nghiệp vội vùng dậy. Lâu đài và Trám Nương không thấy đâu, chỉ thấy một cây trám cổ thụ, gần đó là đền Cô đền Cậu. Lần đầu tiên Nghiệp thấy nhớ nhà da diết. Lần đầu tiên kế hoạch đi Tam Đảo bị cháy quăn trong nỗi nóng bỏng nhớ nhà. Chắc chắn thầy u cũng nhớ Nghiệp lắm mới gửi lời nhắn qua Đài tiếng nói Việt Nam. Đàn trâu trót dại bán rồi sẽ gây đàn khác. Người làm ra của chứ của đâu làm ra người. Trần Công Nghiệp len lén bỏ đi, mặc kệ lão Bật vẫn còn say sưa với giấc mơ Tam Đảo.