Khoảng giữa Bắc Quang - Hoàng Tsưphì, ngay bên con đường núi dốc, có một xóm Mèo tên gọi là Nặm Tỉ. Dân cư đếm vỏn vẹn chừng đâu non chục bếp. Họ chuyên nghề mã phu và sống trong những túp lều bám cheo leo vào vách đá, như những tổ diều hâu. Cuộc đời họ thực là buồn. Luôn luôn nó bị chìm khuất trong sương mù và cứ trôi theo một nhịp đều đều của tiếng suối mơ hồ đâu đó. Một đoàn lữ khách, thỉnh thoảng cũng đem tới cho Nặm Tỉ đôi chút ồn ào; nhưng sự náo động thoảng qua, nỗi đìu hiu càng bát ngát. Cuộc vui của dúm người mất tăm giữa hoang vu ấy chỉ là sự quây quần buổi tối quanh khuôn bếp, ánh lửa tỏa ra; một không khí đầm ấm làm tươi những gương mặt câm lì và long lanh những cặp mắt mơ màng xa vắng. Đó đây, vài chiếc đóm rễ thông phun khói nhiều hơn chiếu sáng bên những cô gái dệt cửi hoặc bên mấy anh con trai vót cánh nỏ, chữa yên thồ và đan giỏ mây. Họ vừa làm việc vừa bàn tán về mùa màng, chợ búa, hoặc kể những truyện ma quỷ, hùm tinh, những truyện sặc mùi cổ tích mà vẫn khiến ngay những người cứng bóng vía nhất phải rùng mình. Họ thường kéo dài cuộc hội họp như thế đến khuya, dù rằng, hôm sau, họ phải thức dậy từ tang tảng sáng.
Trong số dân siêng năng nhưng nghèo xác của Nặm Tỉ, có gia đình lão Ghình Gúng là khác hẳn. Nhà lão ở ngay đầu xóm, một nếp nhà năm gian, mái thấp hình mui luyện, nom xa như một con rùa đương ngủ. Bốn vách cùng lịa ván thông, trừ một cửa ra vào. Chung quanh nhà, vườn tược không mà rào giậu cũng không. Một dãy tàu ngựa bừa những phân và những bãi đái thẫm như nước nâu đứng án ngữ trước cửa, làm cho bên trong đã tối càng thêm tối.
Bên trong hai gian áp hồi tay phải dùng làm bếp nấu và cầu rửa. Có lần tre dẫn nước từ nguồn xa về. Ở gian chính, gần ngưỡng cửa, một cái cối xay ngồi lù lù trên cái máng gỗ; một đống cỏ băm vụn trộn với thóc lép dùng cho ngựa ăn, và lui vào phía trong một tí, vài cỗ yên thồ nằm ngổn ngang cạnh một cái thang bắc lên tầng gác lửng chứa lúa cum. Mỗi khi có khách trọ, lão Ghình Gúng lui vào buồng ngủ, trong gian đầu hồi bên trái, nhường cái phản kê áp vách lưng gian giữa cho họ nằm. Gian nhà, ngăn cách gian giữa với buồng ngủ, chứa toàn một thứ rơm khô cho ngựa ăn những hôm trời mưa gió. Rơm ấy còn dùng lót dưới chiếu nằm vì ở đây, quanh năm chỉ có một mùa đông. Ánh sáng chẳng bao giờ lọt thấu trong nhà, lại thêm đồ đạc thứ nào cũng bồ hóng bám đen kịt, thoạt bước chân vào, khách lạ có cảm tưởng rất khó chịu như vào một cái hang rỗng tuếch, mịt mù, hôi hám, và đầy khói. Ghình Gúng, trái lại, đã quen lắm, vì lão ở nhà này gần hai chục năm.
Trước khi rời đến Nặm Tỉ, Ghình Gúng cũng như hết thảy những người Mèo chính tông khác đã từng lặn lội qua bao nhiêu núi rừng. Lão ở Nặm Tỉ lâu hơn tất cả mọi nơi khác. Cũng bởi, từ ngày vợ lão chết đi rồi, lão thôi không nghĩ đến sự phiêu lưu nữa. Lão nhất định già đời ở cái xóm hẻo lánh này với con trai lão, Tum Đìang, và con gái lão, Tsina. Thực là một gia đình kỳ dị: ba bố con tựa hồ ba người lạ tình cờ gặp nhau trong một quán trọ bên đường. Suốt ngày, họ không nói với nhau một lời, trừ câu nào không thể không nói được. Mỗi người sống như thế trong một thế giới riêng và kín đáo. Họ vẫn đối diện nhau mà sự thực họ xa nhau chẳng kém các vì sao trong không gian.
Một chiều kia, một chiều thu, không khí trong suốt, trời nhẹ lâng lâng và, đằng phía tây, sau dãy núi tím mờ, nhuộm phớt màu lòng trứng... một bọn khách dừng vó ngựa trước nhà Ghình Gúng, nhờ trọ một đêm. Đó là một viên quản khố đỏ, nhân đến hạn hưu trí, đem vợ con từ Hoàng Tsưphì ra Bắc Quang để đáp xe về quê. Giữa lúc cảnh vật đang lắng nghe cái bí mật của đêm ngàn trở lại, xóm Nặm Tỉ bỗng xôn xao những tiếng người, tiếng vật. Họ kéo ùa vào nhà lão Ghình Gúng, tìm gạo thịt, hỏi giường chiếu, mặc cả giá tiền thuê năm con ngựa và thuê lão già hộ tống ra đến Bắc Quang, thay cho bọn mã phu kia bắt buộc phải đảo lại Hoàng Tsưphì. Rối rít lên như thế chừng hai tiếng đồng hồ, đâu đó mới lại dần dần yên tĩnh. Giờ thì họ đã ngủ say như chết. Và, thỉnh thoảng, một tiếng nghiến răng, một câu mơ sảng nổi lên để tắt đi ngay, làm cái im lặng quanh Ghình Gúng càng mênh mông, sâu thẳm.
Lão già vẫn thức. Lão ngồi hút thuốc lá ở trước một lò than rừng rực. Ánh đỏ chờn vờn chiếu lên mặt lão, nom phảng phất một pho tượng bằng đất nung. Phải, chính là một pho tượng chứ người đâu lại có người trơ ra hàng trống canh thế được! Lão ngồi xổm; tay trái ôm đầu gối; tay phải đỡ chiếc điếu can đồng cán trúc. Vì ánh sáng hắt ngược từ dưới lên, hai mắt lão bị lưỡng quyền che khuất, thành hai cái vực sâu đầy bóng tối. Má lão hóp lại khiến miệng lão thêm dẩu ra như cái mõm lợn. Và, trước hàm răng khểnh, cặp môi mỏng và trắng bệch cong cớn hẳn lên một cách vừa thảm đạm vừa tức cười. Ghình Gúng là một ông già không có tuổi. Hơn nữa trông cái thân hình khô héo ấy, người ta không thể tin được nữa rằng còn có máu nóng, nhất là còn có một linh hồn. Đã lâu lắm Ghình Gúng tuyệt nhiên không nhúc nhích. Tất cả cái tỏ ra lão còn sống chỉ tóm thu vào đầu chiếc điếu can thỉnh thoảng được nhắc ra hoặc để vào giữa cặp môi không che kín nổi mấy cái răng lung lay.
Mấy con ngựa, vì tranh ăn, cắn nhau chí chóe và đập chân xuống bùn bèn bẹt. Lão già khẽ ngẩng đầu, mở mắt to thêm một chút và lắng tai nghe. Sự nhộn nhịp im dần. Bên ngoài, chỉ có tiếng nước lần đổ như mưa rào là làm át cả mọi tiếng khác, những tiếng động của cuộc sống ngấm ngầm mà tràn ngập, vô hình mà đẫm máu của rừng khuya. Thực thế, đêm tức là giờ cả Sơn lâm thức dậy, rình mò, sục sạo, cắn xé, giết chóc và đực cái để rồi, hôm sau, khi mặt trời mọc, đâu đó lại im thin thít, nhu mì và nhiều khi lại xinh đẹp nữa.
Lão già vẫn trơ trơ không động. Từ miệng lão, một ít khói xanh vẫn còn, và trên đầu gối bên phải, chiếc điếu can vẫn cựa quậy một cách hững hờ.
Bỗng, con chó xù, từ nãy vẫn nằm nhắm mắt bên cạnh chủ, vùng đứng dậy. Nó hoạt động bất ngờ. Đuôi nó ve vẩy, chân nó loăn xoăn; một tiếng rít khẽ phát ra từ cuống họng.
Ghình Gúng nhắc điếu can ra khỏi miệng. Lão lắng nghe: từ thẳm mù đêm, một cái gì thấm qua tiếng nước chảy như một giọng hát buồn:
Lão già lẩm bẩm:
- Tum Đìang sao về muộn thế!