Ô
ng ngoại có chia cho mẹ tôi một đám ruộng ngoài bưng khi ông không còn đủ sức lao động nữa. Những năm mới giải phóng, nhờ đám ruộng 60 cao(7) này mà cả nhà tôi không phải ăn độn bo bo hay khoai lang, khoai mì như những gia đình viên chức khác. Ba tôi là giáo viên, nhưng thời cuộc lúc đó đã biến ông thành một thầy giáo biết làm ruộng như nông dân thực thụ. Tôi cũng vài lần được ba dẫn đi ruộng để… chơi trong những ngày Chủ nhật.
7 60 cao ruộng tương đương 6.000m2 đất.
Vì ruộng ngoài bưng nên muốn tới được nó, cha con tôi phải dùng tới ba… phương tiện. Đầu tiên là xe đạp. Đạp ngang qua Tha La xóm đạo với um tùm bóng tầm vông và âm vọng ngân nga tiếng chuông giáo đường. Đến bến Cầu Hàn thì gửi xe đạp để lên ghe qua sông. Qua sông rồi thì đi bộ một quãng nữa mới tới. Hơi mất thời gian và vì mất thời gian nên ba tôi thường thức dậy từ 4 giờ sáng, chạm mặt ruộng khi mặt trời chưa lên hẳn. Ba tôi sẽ tháo nước, be bờ, xịt thuốc hay nhổ cỏ gì đó cho đến khi mặt trời đứng bóng thì về. Nói chung là làm ruộng rất cực, và không có gì thú vị trong trí óc non nớt của tôi. Trừ chuyện chiếc ghe của cô Năm Đẩu, vì nó hiểu… tiếng người.
Cô Năm là một người phụ nữ lỡ thời, đưa đò từ đời nảo đời nào tôi không biết rõ. Ông ngoại tôi thì nói, hồi ông đi làm ruộng ngoài bưng, khi qua sông đã nhờ ghe của gia đình ông Hai Sao rồi, tức là cha cô Năm bây giờ. “Chắc con Năm thay cha nó chèo đò từ khi ổng mất!”.
Lần đầu qua sông, ghe cô Năm chở cha con tôi và bốn người nữa. Nước cứ mấp mé mấp mé hai bên. Cô Năm dặn tôi nín thở cho ghe… nó nhẹ. “Con mà thở là ghe nặng chìm luôn nghe hôn!” Tôi dạ, tôi sợ chết nên ráng nín thở, nhưng tới giữa sông thì thở ra cái khì. Cô Năm cười ngặt nghẽo nói thầy giáo có đứa con gái khờ thiệt, nó nín thở nãy giờ kìa. Cả ghe cười rần rần, chiếc ghe chao chác, xao động một khúc sông.
Bận về, chiếc ghe được cột dây vào cây bình bát như chờ sẵn cha con tôi. Không có cô Năm thì ba tôi tự chèo về, rồi lấy mấy đồng cắc bỏ vô cái bình bông cô để sẵn ở bệ cửa sổ. Ba kêu tôi chào cô Năm một tiếng. Cô đang lui hui trong bếp ới ra, “thầy giáo và con gái về nhen, tui đang lỡ tay”.
Một tuần sau gặp lại, tôi mang nỗi tò mò hỏi cô, sao chiếc ghe được cột ở bên kia sông còn cô thì ở nhà nấu cơm được dạ, cô chèo qua để đó rồi tự bơi về sao? Cô Năm lại nửa đùa nửa thật, “chiếc ghe của cô biết tiếng người, cô biểu nó trôi qua sông đón con chớ sao”.
Cầu Hàn thực ra là một bến sông nhỏ. Gọi là cầu nhưng ở đây không có cầu nên cô Năm cứ ngày ngày chèo qua chèo lại đưa những người nông dân qua sông làm ruộng. Thỉnh thoảng có vài chiếc ghe lớn đậu vào để xuống gạch ngói. Có khi là lu, khạp hoặc muối mắm ở miền Tây đậu về. Những chiếc ghe lớn này đậu lại chừng một ngày hay một buổi thì đi, sau khi đã xuống đủ hàng. Còn khách của cô Năm thì luôn ổn định, có chừng ấy khuôn mặt, từ mùa đông xuân qua tới hè thu. Họ qua bưng làm ruộng nên chuyện tiền nong có vẻ như không có mặt trong dịch vụ vận chuyển này. Ai trả bao nhiêu cô không biết, không trả cô cũng chẳng màng. Tôi biết cô không có nhiều tiền, nhưng mà tôi thấy cô vui vẻ lắm, thần sắc lúc nào cũng nhẹ nhàng, thanh thản. Cái bình bông của cô Năm cứ nằm im trên bệ cửa, cũng chẳng lo con nít trong xóm ngứa tay. Thỉnh thoảng nó leng keng lên vài tiếng vui khi có người vừa qua sông trong niềm vui được mùa. Một hai ngày thì cô trút ra một lần để đi chợ.
Chiếc ghe neo ở đó cô cũng không sợ mất. Nhiều khi đang bận làm gì đó, khách tự chèo qua bên kia sông rồi cứ cột dây vào gốc bình bát. Buổi trưa có ai về sớm thì khỏi mất công gọi cô, sẵn ghe đó mà chèo về. Chỉ cần hai lần là tôi hiểu, cô Năm không có gì thần thông để mà sai khiến chiếc ghe tự trôi qua sông đón cha con tôi về. Và hẳn nhiên, chiếc ghe làm sao hiểu được tiếng người.
Rồi tôi lớn lên, ba tôi không làm ruộng nữa mà cho người ta thuê. Một lần về quê thì nghe kể cô Năm mất rồi. Trong cái đêm gió lốc cô trút hơi cuối ấy, chiếc ghe cũng bứt dây trôi mất tiêu. Thì thôi xong một kiếp người, chiếc ghe lần này có lẽ là trôi theo lời cô biểu thiệt. Nó trôi đến nơi chỉ có cô mới biết mà thôi.
Sau này, tôi lại biết thêm một chi tiết nữa. Thời gian cô Năm mất cũng là lúc một chiếc cầu vừa được xây xong, cách bến Cầu Hàn chừng cây số. Không có ông kỹ sư xây dựng nào để cô Năm phải lòng cả, cô mất vì giản dị hai chữ “trúng gió” mà thôi.
Bến Cầu Hàn vẫn không có cầu. Không còn cô Năm và không cả những người nông dân qua bên kia sông làm ruộng nữa. Cả cánh đồng đã được quy hoạch thành vườn công nghiệp thật quy mô.
Sông vẫn miệt mài trôi. Bến Cầu Hàn không ai lai vãng.