• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đêm nay con có mơ không?
  3. Trang 34

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 46
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 46
  • Sau

Những chiếc lá thơm tho

B

à nội tôi là một thợ may giỏi. Bà may đồ cho khách từ cái thời chưa có máy, phải may bằng kim tay. Nhớ lúc nhỏ, có lần bà chỉ cho tôi biết cái lá dứa, không phải loại lá dứa lấy màu, lấy mùi trong chế biến món ăn, mà là loại dứa họ hàng với thơm, lá dài, có gai, trái to và chua hơn thơm. Bà nói, hồi xưa người ta may bằng mấy sợi gân chạy dọc trong cái lá này. Lúc đó tôi không hiểu làm sao người ta “rút chỉ” được từ cái lá cứng cáp, gai góc đó và những sợi chỉ kia thì bền dai được bao lâu, tôi chỉ ậm ừ ngạc nhiên mà không hỏi thêm, cho nên, tới bây giờ thắc mắc vẫn cứ lơ lửng hoài trong đầu. Thắc mắc mang hình những cái lá có gai.

Năm trước, anh tôi đi du lịch Nepal, ghé qua Việt Nam Phật Quốc tự(11), mang về tặng tôi một cái thiệp, bên trong có ép một chiếc lá bồ đề. Dĩ nhiên, nó không phải là một chiếc lá mướt xanh, nó chính xác là một bộ xương lá. Những đường gân lá màu vàng ngà không giòn mà mềm mại, và đẹp. Phải nói là rất đẹp. Tôi thích cầm chiếc lá đưa lên gần mắt rồi ngước lên nhìn mặt trời. Chiếc lá bồ đề nhỏ xinh chợt như một cái lưới trời lồng lộng. Ai nghĩ mình thoát được, chứ tôi thì không! Tôi mang chiếc lá bồ đề khoe với vài người bạn. Ai cũng xuýt xoa thích thú xuất thân quý giá của chiếc lá thú vị kia kèm theo thắc mắc là làm sao mà người ta có thể biến một chiếc lá xanh mướt thành cái mạng gân như thế. Lúc này, tôi sẽ nói dễ ợt, hồi nhỏ, mình làm hoài. Có điều, tôi không làm với lá bồ đề, nhà tôi không có cây bồ đề mà cũng không gần chùa, nhà tôi chỉ có lá cao su. Bà nội bày cho đấy!

11 Việt Nam Phật Quốc tự: ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam được xây dựng trên đất nước Ấn Độ, gần Bồ Đề Đạo Tràng – nơi được mệnh danh là một trong bốn thánh địa quan trọng nhất của đất Phật. Chùa có kiến trúc theo phong cách chùa Việt Nam với cổng tam quan, mái cong, được Thượng tọa Thích Huyền Diệu cho xây năm 1987 và khánh thành vào năm 2003.

Hồi đó, mẹ tôi có cái khạp da lươn(12) bé tí dùng để muối dưa cải. Theo lời bà, tôi lén mẹ lấy cái khạp ấy đổ nước vào, rồi ra sau nhà hái một mớ lá cao su, chọn những chiếc lá già, thẫm xanh, phiến lá nhỏ nhắn hoặc có hình dạng đẹp lạ, xếp cho phẳng rồi đặt vô khạp nước, không quên lấy nửa cục gạch thẻ dằn lên trên để lá không bị nổi. Xong, tôi mang cái khạp giấu ở kẹt bồ lúa. Giấu xong thì quên luôn cho đến một ngày, mẹ tôi loay hoay đi tìm cái khạp để muối dưa.

12 Khạp da lươn: là cái lu lớn ở miền Tây Nam Bộ, dùng để hứng và đựng nước mưa hoặc đựng mắm, gạo..., có màu da lươn, trơn bóng, thường nhỏ hơn khạp da bò (bên ngoài màu vàng nâu như da con bò, sờ thấy nhám).

Một mình tôi biết cái khạp ấy đang trốn ở đâu. Lại lén mẹ, tôi ôm cái khạp vô bụng dọt qua nhà nội. Vừa chạy vừa thò tay vô khạp lấy cục gạch quăng đi, vừa chạy vừa khua khoắng vớt mớ lá cao su ra. Đến khi gặp được nội thì hỡi ơi, tôi ướt từ bụng ướt xuống và… hôi. Hôi không thể tả. Cái mùi hôi mà nội phải hái một mớ rau thơm trong vườn để chà xát cho tôi rồi tắm mà cũng cứ còn ngai ngái. Đó là mùi mục rữa của phần thịt lá. Tuy nhiên, phần còn lại thì đáng giá cho bất cứ ai quên đi cái mùi hôi kinh khiếp kia. Tôi rửa chúng thật sạch rồi mang phơi nắng. Chiếc lá xanh giờ còn lại những đường gân màu vàng ngà, chúng đã được sống lại trong một tinh thần rất khác, vừa kiêu hãnh vừa nhẹ nhàng, trong trẻo. Chúng mang vẻ thách thức, tự tin của một người đẹp không phấn son. Tôi đem vài chiếc nhuộm mực xanh, vài chiếc nhuộm màu mực tím. Bạn bè trong lớp mê tít, chiếc duy nhất tôi không nhuộm là để dành mang tặng bà.

Bà hay bày cho tôi cách chơi với những chiếc lá. Những con cào cào, con chim sẻ, con rết thắt bằng lá dừa. Những cái lồng đèn bằng lá cau kiểng. Hay là lá chuối, xé ra cho đều rồi trở mặt dạy tôi cách đan nong mốt, nong hai. À, bà còn chỉ tôi làm cái đầu trâu với cái lá xoài, làm cái làn xách đi hái hoa bắt bướm bằng lá dừa nước nữa…

Những chiếc lá của bà, đã từng, kỳ diệu hơn cả thuốc tiên khi tôi còn nhỏ. Sau này, sống một mình nơi phố thị, mỗi khi bị cảm, tôi mua ở tiệm thuốc tây vài viên thuốc xông. Nấu một nồi nước rồi cho dung dịch trong viên thuốc ấy vào nồi, hơi nóng bốc lên cũng thơm hương sả, hương lá bưởi lá chanh, cũng vã mồ hôi, cũng thông mũi sảng khoái, rồi thôi. Tôi vẫn phải uống thuốc, vẫn phải bẹp dí ở nhà hai ba bữa mới ngóc đầu dậy nổi. Những ngày như thế, tôi thèm được ở gần bà, để nhõng nhẽo, để sụt sịt rồi bà sẽ thương mình “đứt ruột” mà đi nhanh ra sau nhà, hái bảy tám loại lá vào nấu cho tôi một nồi xông. Tôi thường tuyên bố mình hết bệnh sau khi chui ra khỏi chăn, mồ hôi nhễ nhại, ngồi quay lưng cho bà lật áo lau mồ hôi khắp người. Đôi khi tôi nghĩ, hay là nồi lá xông ngày xưa nhờ có mồ hôi của bà mà tôi nhanh hết bệnh? Còn bây giờ, tìm được một người đổ mồ hôi cho mình sao nghe khó quá, nên tôi bệnh hoài, nên uống thuốc hoài.

… Những chiếc lá của bà thơm. Thơm ngọt ngào suốt hành trình tuổi thơ tôi. Thơm bâng khuâng cho đến tận bây giờ. Và, thơm dịu dàng cho cả những ngày mai. Những chiếc lá của bà, còn thơm ở một hành trình thiên thu khác, hành trình ông tôi trở về cát bụi.

Tôi nhớ ngày đó, dường như biết trước sự ra đi của ông, bà sai anh rể tôi ra ngoài bưng hái lá tràm khuynh diệp. Anh tôi chèo ghe dọc sông Vàm Cỏ, hái được đầy xuồng thứ lá thơm nồng ấy. Anh chở về cho bà ba bao to, bà đổ hết chúng ra phơi trước sân nhà. Ba buổi chiều liên tục, khi trời hết nắng thì bà ngồi gom chúng lại trên một chiếc đệm bàng to. Bà im lặng làm, không sai bảo cháu con, mà dáng bà ngồi gom lá nhìn sao buồn quá. Khi ấy tôi còn nhỏ, tôi không biết bà nghĩ gì trong lòng, cũng không biết mình sắp sửa mất đi một người thân, rất thân. Tôi không biết bà phơi lá làm gì, nhưng sự tỉ mẩn, toàn tâm và nét u sầu của bà khiến tôi ngại ngần không dám hỏi.

Nhà tôi những ngày ấy thơm mùi khuynh diệp mà ai nấy đều xao xác, thất thần, nhất là ba tôi và bà. Vài ngày sau thì ông tôi đi. Người ta dùng toàn bộ số lá ấy lót dưới đáy hòm, rồi phủ lên một tấm vải trắng… Ông tôi nằm trên ấy, chắc là êm lắm. Lúc đó tôi mới biết, bà tôi cầu mong gì cho hành trình thăm thẳm của ông. Tôi tin là ông nghe được hương tràm thơm, thơm mùi hạnh phúc khi được người bạn đời của mình chăm lo ân cần như thế. Kể cả khi ông đã nhắm mắt, buông bỏ hết mọi thứ.

Bây giờ, tôi hay chạnh lòng nghĩ linh tinh, đời mình, liệu có phúc được như ông? Đời người ngắn ngủi, nhưng hành trình thiên thu chắc là dài, có ai lo cho tôi thơm tho, có ai lo cho tôi êm ái. Hay chỉ đơn giản là, bỏ vô một cái túi nylon to, tưới lên người vài lít phoóc-môn là yên tâm cho mấy ngày kèn trống.

Giờ đây, hễ nghe mùi tràm khuynh diệp, tôi lại có linh cảm của mất mát, của tử biệt sinh ly. Có lẽ do cái cách mà tôi quen biết mùi này nên với tôi, khuynh diệp chưa bao giờ là mùi của hân hoan. Kể cả khi tôi có con, đêm đêm sợ lạnh chân, tôi dùng dầu khuynh diệp xoa vào gan bàn chân cho con, nghe lòng mình dậy lên nỗi buồn không cơn cớ…

Vậy đó, tuổi thơ tôi thơm tho và rực rỡ với bà và những chiếc lá thần thánh. Những chiếc lá diệu kỳ cho đến tận hôm nay. Mỗi khi cầm chiếc lá bồ đề để ngước nhìn mặt trời, tôi thấy mình như bé lại, bé tí như hạt đậu, nằm ngoan ngoãn trong lòng tay bà chờ một ngày được nảy mầm, bật lên những chiếc lá xanh. Có bao giờ bạn cầm một chiếc lá ngắm nhìn thật kỹ, thấy trời xanh thiên thu, thấy nồng nàn từng tế bào lá úa, hay chỉ có mình tôi, để rồi suốt một quãng đời dài thấy mình cứ loanh quanh giữa những đường gân lá.