Chương 5SỰ RA ĐI
Tôi ngập ngừng bước lên những bậc thang màu đỏ thẫm dẫn vào nhà mẹ, lòng biết rằng mình không thể quay lại được nữa. Có thể suốt cuộc đời này, tôi sẽ không thể nào hiểu được tại sao mình vẫn thấy buồn vì bà ấy như vậy. Tôi để bà Turnbough ở lại Plymouth. Tôi không muốn kéo người mẹ nuôi ấy vào thế giới nhớp nhúa một thời của tôi nữa. Lên đến bậc thang cuối cùng, tôi hít thật sâu để không quay đầu bỏ chạy. Tôi gõ mạnh cửa. Ngay lúc đó, tôi nhận thấy đôi bàn tay mình run rẩy và ướt nhẹp mồ hôi. Tôi giấu bàn tay ra sau lưng, giữ tư thế của một quân nhân. Tôi còn nghĩ đến việc chải tóc lại cho thẳng hoặc làm gì đấy tương tự để trông mình thật chỉnh tề trước khi có ai đó mở cửa.
Có tiếng cọt kẹt quen thuộc, rồi một cậu bé xuất hiện ngay cửa. Cậu nhìn bộ đồng phục không quân của tôi từ trên xuống dưới rồi cất tiếng:
- Này, anh cũng là người nhà Pelzer đúng không?
- Nói rồi cậu nhóc quay vào trong hét to. - Mẹ ơi! Ra mà xem ở đây có một người họ Pelzer nữa này…
- Chúa ơi, Kevin đấy hả em? - Tôi buột miệng thốt lên.
Ký ức hiện về trong tôi rõ mồn một. Lúc ấy Kevin vẫn còn là một cậu nhóc bé xíu, bò lóp ngóp khắp nhà. Những tiếng cười la giòn tan đầy phấn khích trong lúc nó vui đùa bao giờ cũng khiến trái tim tôi như tan chảy. Mặc dù bị mẹ cấm, nhưng tôi vẫn lén nhìn nó và luôn muốn ôm nó thật chặt vào lòng. Nhưng giờ đây, nhìn biểu hiện của nó, tôi biết chắc Kevin không hề nhận ra tôi là ai.
Thằng bé mở to mắt, khuôn mặt lộ rõ vẻ sửng sốt.
- Mẹ à?
Thêm một người nữa sấn tới từ đằng sau. Đó là một thanh niên cao lớn, khuôn mặt đầy tàn nhang. Cậu đẩy Kevin sang một bên, tư thế bặm trợn như sẵn sàng tấn công người khác. Cậu ta vừa quan sát tôi từ đầu đến chân vừa ra vẻ hùng hổ. Tôi nhận ra ngay là Russell. Russell càng cố che giấu, tôi càng đọc được vẻ căng thẳng lộ rõ qua những cử chỉ bồn chồn lo lắng của nó. Nó hất mặt hỏi như thách thức:
- Anh muốn gì đây? Tôi thận trọng trả lời:
- Anh cần gặp mẹ. Được chứ? - Tôi cố xoa dịu thái độ hằn học của cậu em.
- À, được thôi. - Russell gật đầu, như thể tôi có hẹn trước với bà ấy vậy.
Russell chỉ tay về phía phòng khách, ra hiệu cho
tôi vào nhà, nhưng lại đi theo sau tôi như thể đang áp giải tù binh. Tôi nghĩ cách hành xử của Russell một phần là do kết quả của những năm tháng mẹ thực hiện tẩy não cho nó, nhưng cũng có thể là do sự đố kỵ vì tôi đã thoát khỏi móng vuốt của mẹ, trong khi nó và những người anh em khác vẫn phải ở lại nhà này. Chẳng hiểu sao tôi có một cảm giác kỳ lạ là Russell rất căm ghét tôi, có thể vì tôi trốn thoát và thằng bé đã trở thành vật thế thân chăng?
Trong lúc Kevin không ngừng nhún nhảy trước mặt tôi, tôi tranh thủ đảo mắt khắp căn phòng. Bảy năm qua, mọi thứ vẫn không có gì thay đổi. Phần lớn đồ vật trong nhà đều ở nguyên vị trí như trước kia. Có khác là căn phòng đã trở nên nhỏ hẹp và tối tăm hơn trước bởi những tấm rèm cửa mỏng tang dơ bẩn và bốn bức tường loang lổ bám màu ni-cô-tin. Cả căn phòng ngập ngụa trong mùi hôi thối đến nồng nặc, thứ mùi mà tôi tin chắc là do lũ chó mèo phóng uế dồn ứ suốt mấy năm qua. Mắt tôi cay xè. Tôi ho sặc sụa và lắc đầu với cảm giác ghê tởm. Đây chính là ngôi nhà của người phụ nữ lịch thiệp một thời từng đón tiếp những đoàn khách lịch sự đến chơi và tự hào với phong cách bài trí nhà cửa trang nhã của mình đó sao?
Bước qua cửa bếp, tôi thấy bóng mẹ thấp thoáng. Cả người tôi như tê cứng lại - hai tay tôi buông thõng, đầu cúi gằm, mắt dán vào những chấm nhỏ nhiều màu trên sàn nhà. Phải mất một lúc tôi mới trấn tĩnh trở lại. Nhưng đã quá trễ. Giọng cười đáng sợ của mẹ chứng tỏ bà đã nhìn thấy mọi phản xạ vô thức của tôi. Tôi đứng cách mẹ một khoảng vừa đủ để tôi có cảm giác an toàn. Tôi chắp hai tay sau lưng, tựa người vào cạnh bàn ở tư thế nghỉ để định thần trở lại.
Mẹ đang trút một bao giấy màu nâu đầy đồ tạp hóa ra ngoài. Bỗng bà liếc nhìn tôi và cười bằng giọng cay độc:
- Vậy là… tao nghĩ là mày đã đến gặp ông ấy?
- Vâng, thưa mẹ. - Tôi trả lời không chút xúc động.
- Vậy ông ấy bây giờ thế nào? - Mẹ cười chế nhạo. Tôi hỏi lại mẹ, cân nhắc từng từ:
- Mẹ vẫn chưa gặp cha, đúng không?
Ngay lập tức bà chống nạnh, lườm mắt và bước đến trước mặt tôi. Thật kỳ lạ, lần đầu tiên trước thái độ hung tợn của bà, tôi vẫn không lùi lại. Tôi đứng im, giữ nguyên tư thế của mình.
- Việc quái gì đến mày mà hỏi! - Bà rít lên. - Nghe cho rõ đây, đồ cặn bã! Tao là người đã ban cho mày một ân huệ! Tao không cần phải gọi điện thoại cho con mụ - con mụ nhận nuôi mày đấy. Tao không cần phải làm điều đó, mày hiểu chứ.
- Bà Turnbough. - Tôi chậm rãi sửa lời mẹ.
- Ai cũng được! - Mẹ quay lại bàn bếp và bắt đầu ho sặc sụa, nghe giống như phổi bà sắp nổ tung. Bà hành động như thể mình đang trong trạng thái căng thẳng lắm vậy. Nghe thấy cơn ho dữ dội của mẹ, Russell vội chạy lại toan đỡ lấy bà, như thể bà sẽ ngã xuống bất cứ lúc nào. Phán đoán được hành động đó của Russell, mẹ hất tay, nghiêng đầu ra sau, la lớn:
- Mẹ khỏe. Mẹ không sao. - Chỉ đến khi Russell lùi lại, bà mới bỏ tay xuống. Rồi với một giọng đầy thù hận, bà lại rít lên:
- Tất cả các người, các người không có quyền. Không ai có quyền phán xét tôi. - Khuôn mặt mẹ chuyển từ đỏ bừng sang trắng bệch. - Không ai biết, - mẹ nức nở, - không ai biết điều này khó khăn… đối với tôi như thế nào hết!
- Giờ thì xem anh đã làm những gì kìa! - Russell hét lên.
Tôi thoáng bối rối. Phải chăng câu hỏi thẳng thừng của tôi khiến mẹ trở nên như vậy, hay chính sự xuất hiện của tôi khiến mẹ cảm thấy quá sức chịu đựng? - Tôi thầm nghĩ. Nhưng cũng có thể đây là một màn kịch bà ấy dựng lên nhằm lôi kéo sự quan tâm của mọi người vào bản thân bà, chứ không phải vào tình huống đang được đề cập đến. Nghĩ đến đó, tôi châm thêm:
- Con chỉ không thể nào hiểu nổi. Sao cha nằm viện lâu như vậy mà mẹ chưa một lần đến thăm là thế nào?
Mẹ trừng mắt quát lớn:
- Những tổn thương tao phải chịu đã quá nhiều rồi. Mày không hiểu sao? Tao hiểu ông ấy hơn… bất cứ ai. Như thế, như thế là quá đủ rồi!
Tôi gật gù, ra vẻ đồng tình với câu nói vừa rồi của mẹ. Nhưng trong lòng, tôi mỉa mai: Và giải Oscar dành cho vai diễn xuất sắc nhất - dưới sự ép buộc giả tạo - đã thuộc về… Catherine Roerva Pelzer!
Không để tôi tiếp tục suy nghĩ, mẹ lại buông lời chỉ trích:
- Mày không hiểu được đâu. Ông ấy không bao giờ ở bên cạnh tao hay các con của ông ấy. Nếu không đi làm, ông ấy lại lang thang đàn đúm, uống rượu với bạn bè ở những nơi mà chỉ có Chúa mới biết thôi.
Một lần nữa, tôi lại gật đầu còn trong lòng thì hiểu rõ mẹ đang cố bao biện cho nếp sống bừa bãi và thiếu lòng nhân của bà.
- Các con, - mẹ nói lớn, - xin lỗi các con. - Bà ra lệnh bằng một cái phẩy tay.
- Nhưng, mẹ ơi… - Kevin lên tiếng.
- Mẹ nói rồi, lui hết vào trong! - Bà rít lên. - Trước khi mẹ cho chúng mày biết tay đấy!
Như có ma lực, mấy đứa em của tôi nhốn nháo chạy khỏi phòng.
Trong khi mẹ liên tục càm ràm, than thở, tôi bắt đầu nhận ra đầu óc mình đã trở nên quá tải sau một ngày với biết bao chuyện xảy ra. Tôi không biết mình sẽ còn ở trong ngôi nhà này thêm bao lâu nữa.
- Vậy, - tôi cắt ngang, - chuyện cha thế nào?
- Tao đã nói với mày rồi mà! - Mẹ gào lên.
- Không, mẹ à. - Tôi đáp lại bằng một giọng nhẹ nhàng. Bà nhìn tôi chằm chằm, bởi bà biết lần này tôi sẽ không nhượng bộ. - Cha vẫn là chồng của mẹ. Cha hoàn toàn cô độc. Hiện giờ cha đã yếu lắm rồi.
- Tôi cố giữ bình tĩnh. Trước mặt mẹ - trong ngôi nhà của bà ấy - tôi phải giữ được sự điềm tĩnh tuyệt đối. - Cha không còn sống được… bao lâu nữa. Không còn nhiều thời gian nữa.
Tôi trông chờ phản ứng của mẹ, chờ mẹ thức tỉnh, mặc áo khoác vào và đi ngay để gặp cha. Ngay lúc đó, tôi cũng ý thức rằng mình đang đứng trước một thời khắc không bao giờ quay trở lại, thế nên tôi bước đến trước mặt mẹ, nhìn thẳng vào mắt bà và nói khẽ, đủ để bà nghe thấy:
- Ông ấy là cha của các con của mẹ. Đừng kết thúc mọi chuyện như thế này. Làm ơn đi, con xin mẹ. Hãy làm việc cần làm đi mẹ. Đến gặp cha đi.
Nhìn vẻ căng thẳng hiện rõ trên khuôn mặt mẹ, tôi biết những lời nói của mình ít nhiều đã tác động đến bà. Như một phép lạ, mẹ khẽ gật đầu đồng ý. Sau cặp kính gọng bạc đã xỉn màu của mẹ, tôi thấy mẹ khóc. Lần cuối cùng tôi thấy mẹ giũ bỏ vỏ bọc tự vệ của mình - giống như thế này - là vào ngày trước khi tôi được giải thoát, một ngày tháng 3 năm 1973, lúc đó cả hai chúng tôi cùng đứng trong một căn phòng, mẹ ngã quỵ và bắt đầu chia sẻ với tôi về những ngày tháng quá khứ của mình. Giờ đây, đứng trước mặt bà ấy, tôi lại nguyện cầu để không bao giờ đánh mất bà thêm lần nào nữa. Mục tiêu duy nhất của tôi là làm sao để mẹ trở về bên cạnh cha. Có thể, bằng cách nào đấy, tôi tự nhủ, một vài giây phút tĩnh tâm sẽ giúp gột rửa hết những năm tháng hận thù trong mẹ. - "Nhanh lên," - tôi khẽ giục mẹ, - "tất cả chúng ta hãy cùng đến gặp cha đi mẹ. Nhanh lên nào." - Tôi mỉm cười khi chìa bàn tay của mình về phía bà.
- David… - Mẹ khóc khi dang cánh tay run rẩy của mình ra. Không chút lưỡng lự, tôi nắm lấy tay mẹ. Ngay lúc đó, bà bỗng thở dài.
- Sẽ ổn thôi mà. Sẽ không sao cả. - Tôi trấn an mẹ. Cả thân người bà bắt đầu run lên. Mẹ nhắm nghiền mắt lại, như thể bà đang tẩy rửa mọi nỗi đau mà bà đã giữ chặt trong tim bấy lâu. Bà lại thở dài, như đang muốn thanh lọc chính bản thân và tâm hồn mình. Tôi nhìn vào khuôn mặt mẹ… Hình như… Sắc mặt bà dường như đang có sự thay đổi… Từ vẻ đang nhàu nhĩ vì buồn đau, ánh mắt bà trở nên đỏ ngầu, hung tợn. Cũng như bao lần trước, tôi biết chuyện gì sắp xảy ra. Bàn tay run run của bà cứng lại, chuyển sang lạnh băng như đá tảng.
- Đừng! - Tôi van nài. - Làm ơn đừng mà!
Tôi chưa kịp phản ứng, mẹ đã hất mạnh tay tôi ra. Cũng như phản xạ từ nhiều năm về trước, tôi vội bước lùi lại. Nhìn nụ cười hiểm ác và cay nghiệt của mẹ, tôi biết mẹ đã trở lại, tàn độc hơn bao giờ hết.
- Chao ôi, xem mày khua môi múa mép khéo léo chưa này, đồ cặn bã! Tao cá là bọn cha mẹ nuôi của mày chắc phải tự hào về mày lắm nhỉ! Còn ở đây, mày lại đang lảng vảng trong nhà của tao, dạy tao phải làm thế này thế nọ nữa chứ. Ai biến mày thành Đấng Cứu Thế vậy? - Mẹ dừng lại lấy hơi, rồi châm một điếu thuốc, đưa lên miệng rít một hơi dài. -
Mày, - bà chỉ thẳng vào mặt tôi, khói thuốc uốn éo luồn qua khe hở từ đôi môi tái bầm của bà, - tất cả lũ chúng mày không có quyền. Mày có thể có chút giá trị với Lực lượng Không quân của nước Mỹ, nhưng mày biết đấy, - mẹ ngập ngừng, như thể sợ tôi không hiểu hết những lời bà nói, - …mày biết mày là ai mà. Thực chất, mày chẳng là gì cả. Mày thậm chí còn không xứng đáng được thở chung bầu không khí với tao và các con của tao nữa kia. Làm sao mày có thể ngang nhiên bước vào nhà tao, như thể mày là chủ nó vậy, rồi còn dạy tao phải làm thế này, đừng làm thế kia chứ hả? Làm sao mày có thể làm như vậy, sau tất cả những gì tao đã làm cho mày, hả? Ai cho phép mày được quay lại đây?
Tôi cố gắng giữ cho mình vẻ điềm tĩnh. Cũng như nhiều năm trước, trước những lời miệt thị của mẹ, tôi chỉ biết nín lặng và thu mình lại - như một vật nửa người, nửa máy. Nhưng câu nói "sau tất cả những gì tao đã làm cho mày" khiến tôi không khỏi sững sờ.
- Những gì mẹ đã làm cho con ư? - Tôi lí nhí.
- Mày vẫn không hiểu ra à, thằng kia? - Mẹ cười khinh bỉ sau khi kéo một hơi thuốc thật dài. - Đáng lý tao đã không thả cho mày đi. Không! Tao đã để mày đi đấy chứ. Tao đã không còn liên quan gì đến mày nữa. Mày không có ích lợi gì cho tao cả, vì thế mày phải bị loại bỏ. - Mất một lúc, tôi mới hiểu được những gì mẹ đang nói. - Mày là thứ rác rưởi, và là rác rưởi thì tao phải vứt mày đi thôi. - Với điệu bộ như một nhà quý tộc tao nhã, mẹ tiếp tục mỉa mai. - Ôi Chúa ơi, sao mình lại thô lỗ thế này. Có phải tao đang đập tan giấc mộng hão huyền của mày không nhỉ? Và trong ngần ấy thời gian, tao cá mày đã nghĩ rằng tất cả những kẻ đáng kính đã giải cứu mày ở trường học là những kẻ chịu trách nhiệm cho cuộc giải thoát ngoạn mục của mày đấy. - Rồi bằng một giọng chỉ vừa đủ nghe, mẹ thì thầm vào tai tôi: - Mày không biết rằng mày đã may mắn thế nào đâu. Phải chi tao chấm dứt tất cả. Như… thế… này, - mẹ nhấn mạnh từng từ với một cái bật tay đánh tách. - Mày biết mày là cái gì mà, nên nếu tao là mày, tao sẽ biết giữ cái miệng tao ngậm lại. Đừng cố ép cái gì cả. Mày chỉ may mắn một lần thôi, vì thế đừng nghĩ rằng tao đã không làm gì cho mày đấy nhé.
Từ phía phòng ăn, Kevin thò đầu ra. Nhìn thấy thằng bé, mẹ lại trở về với vai diễn một người vợ đau khổ. Từng dòng nước mắt tuôn rơi lã chã trên gương mặt mẹ. Bà nghiêng đầu về phía sau như thể làm vậy là có thể xoa dịu nỗi đau khổ vô cùng tận mà bà đang phải chịu đựng. Mẹ lảo đảo ngồi xuống ghế như thể quá đau khổ không thể đứng vững được. Tất cả xảy ra trước mắt tôi như một màn trình diễn hoàn hảo. Tôi tin chắc rằng trước đó, cả Ron, Stan, Russell và Kevin đã chứng kiến cảnh tượng như vậy nhiều lần rồi.
- Quan tâm ư? - Mẹ với lấy Kevin bằng một cánh tay run rẩy quá mức. - Ồ, mẹ quan tâm đến cha của con - đến ông ấy chứ. Mẹ có quan tâm. Đó mới là vấn đề, mẹ quan tâm quá nhiều. - Nói xong bà đưa tay quệt nước mắt.
Tôi thận trọng đứng chịu trận, dẫu biết mọi thứ đang diễn ra như một màn kịch. Tôi nghĩ mình đã
đẩy bà ấy đi quá xa, nên tôi không muốn nói thêm bất cứ điều gì để khơi gợi lại câu chuyện ấy nữa. Mặc dù vậy, tôi vẫn thấy ngạc nhiên vì bản thân mình đã không hề khuất phục trước mẹ. Không thể ngờ là tôi đã thực sự nhìn thấu được những suy nghĩ bao biện của bà ấy, mặt đối mặt với mẹ và đặt câu hỏi với bà về tư cách của một người vợ. Có thể sau chừng ấy năm, hôm nay tôi mới có dũng khí để thực hiện điều đó, nhưng cũng có thể vì mẹ đã mất đi quyền lực của bà đối với tôi cũng nên.
Kevin phá vỡ bầu không khí căng thẳng:
- Vậy là anh đã từng sống ở đây sao?
Chắc hẳn mẹ đã nói gì về tôi với thằng bé và về lý do tại sao tôi không sống với họ nữa. Đương nhiên bà ấy phải giải thích về sự ra đi của tôi. Dù bà ấy có thâu tóm mọi thứ đến đâu, thì sự thật ít nhiều cũng phải rò rỉ. Tôi cười với Kevin, thằng bé cũng đáp lại tôi bằng một nụ cười toe toét.
- Đúng thế. - Tôi trả lời đầy tự tin. - Anh đã sống ở đây, nhưng cách đây rất lâu rồi…
- Ôi, không phải vậy, nó không có sống ở đây! - Mẹ phản bác. - Đừng nghe nó! Nó… nó là một thằng nói láo. Nó không giống với chúng ta đâu. - Để nhấn mạnh ý của mình, mẹ giơ tay lên. - Có nhớ mẹ đã nói gì với con không? Về… về những kẻ xấu đấy?
Tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ, tự nhủ: Bà nói đúng. Bà nói hoàn toàn đúng. Tôi không giống với bà.
Trước khi mẹ kịp tiếp tục, Kevin chen vào:
- Vậy, anh có muốn đi xem qua nhà của em không?
Một cảm giác tò mò xâm chiếm lấy tôi khi tôi đi ngang qua mẹ, theo Kevin đi vào phòng ăn. Tôi rảo quanh chiếc bàn ăn rồi dừng lại, nhìn xa xăm về phía những ngọn tháp màu đỏ của cây cầu Golden Gate. Những ký ức xa xăm của tuổi thơ lại hiện về, tràn ngập trong lòng tôi. Tôi nhìn xuống khoảng sân sau nhà mình, nơi tôi đã trải qua không biết bao nhiêu lần, bao nhiêu giờ đồng hồ ngồi trên hai bàn tay trong tư thế tù binh trên một thảm đầy đá - một hình phạt quen thuộc cho bất cứ tội trạng nào chẳng may tôi mắc phải. Tôi nhớ đến cảnh mình ngồi run rẩy trong màn sương mù dày đặc, quần áo mỏng manh nhưng lại sợ không dám chà xát hai bàn tay vào nhau cho ấm vì sợ bị mẹ bắt gặp. Tôi chùn lòng, cảm nhận rõ cảm giác hổ thẹn và yếu đuối đang ùa về trong lòng. Tôi quay mặt đi. Tôi lại nhớ về những tháng ngày tươi đẹp, khi Ron, Stan và tôi còn chưa đến tuổi đến trường, chúng tôi đã cùng nhau rượt đuổi ở mảnh sân sau nhà. Cũng nơi đó, mẹ đã dạy chúng tôi cách phân biệt các loài hoa và cách chăm sóc chúng. Thuở đó, dường như mẹ luôn dành hết thời gian để chăm sóc và vui đùa cùng chúng tôi. Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh mẹ quỳ trên mặt đất, tay mang đôi găng tay làm vườn, nhổ cỏ dại cho những thảm hoa tuyệt đẹp, những thảm hoa đã nhận được không biết bao nhiêu lời khen tặng của khách khứa đến chơi, và mẹ đã trang trí cho ngôi nhà của mình bằng những nhành hoa lan xinh xắn mà mẹ đã bỏ công chăm chút tỉ mẩn. Đến tận bây giờ, tôi vẫn còn nhìn thấy những dấu vết còn sót lại của cảnh tượng tuyệt đẹp một thời ấy.
- Đó là thác nước do Stan làm đấy. - Mẹ lên tiếng, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Tôi giật nảy mình. Tôi mỏi mệt đến độ không hề nghe thấy tiếng bước chân của mẹ đằng sau. - Thằng bé rất khéo tay. Nó luôn làm cho mọi thứ sống động và sinh sôi nảy nở. Thằng bé là người tỉ mỉ, mày biết đấy. Khi Ronald nhập ngũ, tao thực sự không biết phải xoay xở ra sao. Stan bây giờ chính là người đàn ông của gia đình này. - Mẹ khoe bằng giọng tự hào. Giữa không gian ngột ngạt, tôi nghe thấy rõ tiếng Russell thở dài đầy thất vọng. Trộm nhìn Russell, tôi hiểu có một cuộc cạnh tranh ngấm ngầm giữa nó và Stan - người đã trải qua một trận sốt rất nghiêm trọng khi còn nhỏ khiến cơ thể phải chịu nhiều biến chứng. Lúc Stan còn nhỏ, mẹ luôn luôn tìm cách bảo vệ Stan một cách vô cớ - ưu ái tắm cho nó, khen nó can đảm, mạnh mẽ và thông minh. Nhưng ngay từ khi còn nhỏ, Stan đã bày tỏ lòng ghen tị với Ronald, người anh cả luôn được cha tin tưởng giao việc mỗi khi ông đi làm.
Kevin tiếp tục dẫn tôi đi qua phòng khách, rồi xuống phía hành lang hẹp. Vừa bước xuống lối đi, một mùi hương quen thuộc của nhiều năm về trước lấn át khắp các giác quan của tôi. Tôi nhìn xuống tấm thảm lót sàn đã cũ và dừng lại trước cửa nhà tắm. Kevin cũng dừng lại, nhìn tôi ngạc nhiên:
- Ta đi tiếp chứ?
Tôi đứng sững trước căn phòng bé xíu, nơi tôi từng tưởng mình đã chết vì bị nhốt trong đó với thứ hóa chất hỗn hợp amoniac và thuốc tẩy Clorox mà mẹ pha sẵn. Tôi ghé mắt nhìn vào góc trái trên nền nhà tắm, ở đó có một cái lỗ cống nhỏ - nơi tôi đã chúi đầu vào hít lấy một ít không khí để khỏi phải nôn ọe đến chết. Phía trên bồn nước là tấm gương cáu bẩn đã xỉn màu. Tôi từng đứng đấy, nhìn vào gương, để thấy rõ hơn những vết thương còn đỏ ửng dưới cằm, trên lưỡi và cả những mảng da bị lột nham nhở sau khi bị ép uống những muỗng amoniac. Cũng chính chiếc gương đó là nơi tôi thường xuyên nhìn vào để tự chửi mắng, xỉ vả mình vì những việc tôi đã làm sai khiến mẹ có cớ đánh đập, hành hạ tôi. Tôi từng căm ghét tất cả những gì thuộc về mình - vẻ ngoài nhếch nhác của tôi, tật nói lắp của tôi… tất cả mọi thứ. Nhiều lần tôi còn khao khát mình có thể biến vào trong gương, tan biến vĩnh viễn khỏi thế giới này, hay ít ra là khỏi căn nhà ma quái này.
- Anh có muốn vào trong nhà vệ sinh không? - Kevin hỏi, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.
- Không, anh không sao. - Tôi trả lời, giọng tự nhiên run rẩy.
Tôi liếc nhìn mẹ. Bà đang nhìn tôi cười đầy giả tạo.
- Có điều gì không ổn à? - Bà ta hỏi khẽ.
Kevin tiếp tục dẫn tôi vào phòng ngủ ở góc nhà, là nơi Kevin và Russell ngủ chung. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy căn phòng này là khi Kevin còn đang nằm trong nôi. Tôi gật gù toan quay đi, Kevin giật giật tay tôi. Nó dõng dạc:
- Còn đây là phòng của mẹ.
Đây là một trong những lần hiếm hoi tôi đặt chân
vào lãnh địa của mẹ. Mọi vật dụng dường như nhỏ lại. Kia vẫn là chiếc bàn trang điểm có gắn gương soi, và cả những lọ nước hoa phủ đầy bụi bẩn nằm lăn lóc…
Tôi dợm bước quay ra, bỗng giật mình ngoảnh lại nhìn mấy bức ảnh treo trên tường. Tấm ảnh phía trên, bên trái là một tấm ảnh màu chụp Ronald mặc quân phục. Nhìn nét mặt của Ron, tôi biết anh ấy đã sống đúng với con người thật của mình. Trông anh rất oai vệ trong bộ quân phục. Tôi cảm thấy tự hào về anh ấy. Anh ấy đã dám thoát ly. Bên cạnh là những tấm ảnh đã ố màu chụp Stan, Russell và Kevin khi còn là học sinh tiểu học. Ở vị trí trung tâm, bao quanh bằng nhiều tấm hình khác, là tấm chân dung trắng đen chụp mẹ trong ngày cưới. Catherine Roerva Pelzer đã làm tôi sững sờ. Đôi mắt bà rạng ngời yêu thương. Làn da bà không chút tì vết. Trông bà giống như mẫu cô dâu trẻ điển hình không thể trì hoãn cuộc sống hôn nhân ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Trong lúc say sưa ngắm nhìn bức chân dung của bà, tôi bỗng nhận ra cha không hề có mặt trong bộ ảnh đó. Cả tôi cũng không. Giờ thì tôi hiểu tại sao mẹ lại từ chối làm bất kỳ việc gì cho cha. Làm sao bà có thể toàn tâm toàn ý lo cho ông khi mà, trong lòng bà, ông đã chết từ lâu?
Tôi nhìn quanh để tìm mẹ, để xem phản ứng của bà thế nào trước những tấm ảnh đó, nhưng bà đã lui về không gian an toàn của mình trong nhà bếp tự lúc nào. Tôi thẫn thờ. Bởi tôi không hiểu sao con người ta lại có thể bấu víu vào thù hận để mà sống như thế. Và rồi hẳn là bà đã nghĩ cách để hợp thức hóa câu chuyện bịa đặt của mình với những cậu con trai. Bà ấy quả thật rất có khả năng làm cho những vấn đề phiền toái của mình hoàn toàn biến mất.
- Anh nghĩ gì về gia đình em? - Kevin cất giọng.
- Tốt cả. - Tôi mỉm cười trả lời.
Mẹ đang đứng ở cuối hành lang hẹp hút thuốc.
- Vậy là mày đã thấy hết những gì muốn thấy khi đến đây rồi chứ? - Mẹ trệu trạo bằng giọng của một kẻ bất lương. Đối diện với bà, tôi như người quẫn trí. Tôi biết mình nên đi, vì cố gắng thuyết phục mẹ đến gặp cha là điều vô ích. Cảm nhận được vẻ yếu thế của tôi, mẹ nói thêm. - Ronald đang ở trong quân ngũ, mày biết đấy. Thằng bé làm tốt lắm. Nó gửi cho tao tất cả các huân chương của nó. - Nói rồi mẹ đưa ra một chiếc hộp đựng những chiếc mề đay được phân loại rõ ràng. Tôi như chết lặng, chỉ biết đưa mắt nhìn chiếc hộp mà mẹ đang khoe khoang. - Đây là huân chương thiện xạ… còn đây là huân chương huấn luyện cơ bản… à… cái này… tao không nhớ rõ lắm. Nhiều quá mà, tao không thể nhớ hết được… Nó đang đóng quân ở Alaska. Thường thì họ không để bất cứ ai đóng quân ở đó. Thằng bé không nói ra điều đó, nhưng tao biết rõ. Nó là một trong những quân nhân giỏi nhất mà họ có. Tao tự hào vì một trong những đứa con của mình đang phụng sự cho đất nước. Mày không hình dung được niềm hãnh diện của tao đâu. - Mẹ thở dài. Bà vẫn huênh hoang như mọi khi.
- Con… đang phục vụ trong không quân.
Mẹ rời mắt khỏi chiếc hộp và nhìn lên, thoáng
chút bối rối, như thể bà ấy chưa hề biết gì về chuyện ấy, dẫu trước khi nhập ngũ, tôi đã gọi cho bà và ngay lúc này đây, tôi đang mặc trên người bộ quân phục của lính không quân.
- À, vậy sao, nghe hay nhỉ. Quân đội cũng nhận một kẻ như mày sao? - Bà vẫn không thôi giọng mỉa mai. - Thế có thật là mày đang làm việc bảo vệ đất nước này không đấy?
Tôi cười đắc ý.
- Con là một đầu bếp.
Nhưng ngay khi vừa nói xong câu đó, tôi thấy mình như một thằng ngốc.
- Đầu bếp ư? - Russell phá lên cười.
- Chứ không phải mày đã đăng ký làm lính cứu hỏa à? - Mẹ nói bằng giọng cay nghiệt. - Chuyện gì đã xảy ra thế, người ta đã loại mày khỏi danh sách chứ gì? Tao cứ nghĩ không quân là phải làm gì đó liên quan đến máy bay chứ. Có ai đi làm đầu bếp đâu.
Không khí trở nên im lặng, nặng nề. Tôi thấy tim mình như bị bóp nghẹt. Tôi khẽ gật đầu, như thể để cảm ơn bà vì đã dành thời gian cho tôi, vì đã tiếp đón tôi, rồi tôi đi nhanh ra ngoài. Ra đến cửa, tôi vẫn cảm nhận rõ mọi ánh mắt vẫn đang dồn về phía mình, săm soi. Ngay khi tôi khép cánh cửa lại, phía sau lưng tôi là một tràng cười nghiêng ngã đầy miệt thị.
Tôi rảo bước ra xe, nơi bà Turnbough vẫn đang đợi tôi tự nãy giờ. Tôi ngồi vào xe, không nén được tiếng thở dài.
- Xong việc chưa con? - Bà Turnbough gạn hỏi.
- Rồi ạ. Bà ta chẳng có vẻ gì là sẽ đến gặp cha cả.
- Tôi trả lời không chút cảm xúc.
- Chúa ơi! Sao lại có một người phụ nữ như vậy chứ…
- Con chỉ hy vọng bà ấy suy nghĩ lại. Thật chẳng ra làm sao cả. - Tôi cố gắng trấn tĩnh. Đầu óc tôi tưởng chừng như sắp nổ tung vì cảm giác căm ghét và kinh sợ mà tôi dành cho mẹ. Bằng trực giác, tôi cảm nhận thấy mấy thằng con trai yêu quý của mẹ đang đứng ở cửa sổ phòng ngủ dõi theo tôi, thế nên tôi cố trấn tĩnh, khởi động xe và lái đi. Vậy mà, không hiểu sao, đã có lúc tôi lại nghĩ mọi chuyện sẽ khác đi. Nhưng, như mọi khi, khi đối diện với mẹ, tôi đã cư xử thật ngốc nghếch.
Sáng hôm sau, tôi quay trở lại phòng bệnh thăm cha. Đầu tôi nhức như có hàng trăm, hàng ngàn mũi khoan rì rầm xoáy thẳng vào óc.
Tôi cố nghĩ xem mình phải làm gì tiếp theo. Trong tôi như có sự thúc giục phải làm một điều gì đó. Tôi muốn lén đưa cha đi, muốn cùng chơi bóng chày với ông, cùng đi dạo công viên, hay thậm chí cùng ngồi với ông trong một quán rượu tồi tàn mà nói chuyện phiếm, tôi muốn đưa cha đi bất cứ nơi đâu khi cả hai cha con còn được ở bên nhau. Nhưng giờ thì tôi không cách nào làm được những điều đó.
Ngay lúc này đây, tôi cũng không biết chính xác cảm xúc trong tôi là gì. Là buồn đau, là xót xa, là bất lực, hay là căm phẫn? Tôi chỉ còn biết làm những gì
có thể. Tôi rút ví, lấy ra một tờ tiền nhăn nhúm để gọi điện thoại cho bà ngoại.
Chỉ ít phút sau khi tôi gác máy, em trai của mẹ là cậu Dan đã có mặt ở cửa thang máy bệnh viện. Sau khi ôm hôn tôi thật chặt, cậu kéo ghế lại gần giường của cha và thì thầm điều gì đó vào tai ông. Tôi đứng cạnh Alice, tựa lưng vào cửa nhìn ra ngoài để cho hai người đàn ông được tự do bên nhau. Tôi biết mình đã làm đúng.
- Suốt một thời gian dài, không ai biết tin gì về ông ấy cả. Không một ai. - Cậu Dan quay nhìn tôi.
Nhìn cha và cậu Dan ở bên nhau, tôi đoán họ từng rất thân thiết.
- Này, Steve, - Dan lầm bầm, - nhanh nào, anh mặc quần áo vào đi. Em có mấy chai rượu ngon lành và hai cô em xinh đẹp trong xe kia kìa. Nhanh nào, đừng để họ đợi chúng ta lâu chứ. - Tôi hoảng hồn, không thể tin vào tai trước những lời cậu Dan vừa nói. Ngay lúc này thì cậu không thể nói những điều khiếm nhã như vậy được. Nhưng nhìn vào ánh mắt trả lời của cha, tôi nhận ra thâm ý của cậu Dan. Tôi chợt nhận thấy mình thật ích kỷ, ích kỷ bởi cái cách tôi luôn muốn chăm sóc và bảo vệ cha như một đứa trẻ. Alice nhẹ nhàng kéo tôi rời khỏi phòng. Tôi ngồi bất động ở một băng ghế dài trong bệnh viện, chợp mắt chốc lát và nghĩ đến những việc cần làm.
Một lát sau, cậu Dan lay tôi dậy và khuyên tôi nên về nhà với Alice. Nhìn sang cha, tôi cảm thấy nhu cầu tầm thường là được ngủ của mình giống như một kẻ phản bội đối với ông. Cảm giác có lỗi với cha, niềm phấn khởi khi được gặp lại cậu Dan và cảm giác căm phẫn đối với mẹ cứ đan vào nhau, lởn vởn trong đầu tôi suốt đoạn đường về nhà, mãi đến khi tôi ngả người trên chiếc trường kỷ quen thuộc ở nhà Alice.
Tôi vừa chợp mắt được một lúc, Alice đánh thức tôi dậy. Tôi bật dậy, trong đầu bấn loạn nghĩ đến tình huống xấu nhất. Nhưng vừa đưa điện thoại cho tôi, Alice vừa kịp trấn an tôi rằng người gọi không phải là Bệnh viện Kaiser mà là bà ngoại của tôi. Lúc nào cũng vậy, đối diện với bà ngoại luôn là một điều khó khăn đối với tôi. Từ khi tôi còn bé, mẹ và bà đã có một mối quan hệ yêu-ghét sâu đậm. Đó là điều cả mấy anh em chúng tôi đều cảm nhận được mỗi khi chứng kiến những cuộc cãi vã giữa bà và mẹ. Mặc dù không có nhiều cơ hội gần gũi nhau, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn luôn có cảm giác bà ngoại là một đồng minh không chính thức của tôi khi tôi còn bé.
Tôi dụi mắt, cố gắng định thần. Vì biết năm nay bà cũng đã lớn tuổi lắm rồi nên tôi chủ tâm nói giảm đi bệnh trạng của cha. Bởi những hành xử thiếu tôn trọng của mẹ đối với cha, nên tôi luôn thấy mình giống như một trọng tài đứng giữa họ vậy. Nhưng hôm nay, tôi thấy tự hào về bản thân mình. Lần đầu tiên trong đời, tôi đã làm được một việc có ích cho gia đình. Nghĩ thế, nên tôi mỉm cười và nói chuyện với bà bằng giọng vui vẻ:
- Bà ơi! Gặp được bà cháu vui lắm. Mọi thứ ổn cả bà ạ. Cha đang ngủ và thực sự không có gì thay đổi sau khi…
- Việc quái gì đang xảy ra ở đấy thế hả? Mày đang làm cái quái gì thế hả? - Giọng bà tức giận.
- Sao cơ ạ? - Tôi lúng túng hỏi lại. - Có chuyện gì thế ạ? Cha cháu khỏe mà. Cháu…cháu chỉ vừa… về nhà thôi. - Sự im lặng của bà ở đầu dây bên kia khiến tôi thấy lo lắng. - Cháu chỉ vừa rời khỏi cha cách đây hơn một giờ thôi ạ. Cháu xin lỗi, cháu chỉ định chợp mắt một lát. Cháu đã nói chuyện với y tá. Ông ấy nói rằng mọi chuyện ổn cả và nếu có thay đổi gì thì ông ấy sẽ gọi ngay cho cháu. Cháu thề đấy. Kể từ khi về nhà, cháu chưa hề chợp mắt một lúc nào cả. Cháu thật sự xin lỗi. - Tôi biết mình không nên rời khỏi bệnh viện để nghỉ ngơi trong khi cha đang đấu tranh từng giờ từng phút để giành lấy sự sống đang dần rời xa…
Bà ngắt lời tôi:
- Mày đang lải nhải cái quái gì vậy? Bây giờ tao không quan tâm đến cha mày. Tao muốn có ngay một lời giải thích. Mày đã làm gì? Sao mày có thể… vào thời điểm này kia chứ? Lạy Đức Mẹ lòng lành… mày phải giải thích đi chứ, thằng nhóc!
Tôi thật sự bối rối.
- Gì cơ ạ? - Tôi van nài. - Bà à, làm ơn, bình tĩnh đã ạ. Cháu đã làm gì cơ? Bà nói gì thế ạ…?
- Đừng có ngắt lời tao như thế chứ. Đừng có phóng đại mọi chuyện lên như thế chứ. Tao đã phát bệnh và quá mệt mỏi vì mày, vì tất cả những kẻ đã qua mặt tao. Tao sẽ thật là khốn khổ nếu cứ phải ngồi đây, ngồi đây một mình và chịu đựng… cái trò này! - Tôi không thể tin vào tai mình. Tôi dằn vặt. Không lẽ đến giờ phút này mà tôi còn phạm phải một lỗi lầm nghiêm trọng nào nữa sao? Tôi dằn
lòng, cố bình tĩnh nghe xem bà đang đề cập đến chuyện gì.
- Mày biết rõ mày đã làm những gì mà - hồi chiều này mày đã xông vào nhà mẹ mày…, mày huênh hoang và nói sảng như một thằng điên… mày đe dọa mẹ mày và phá nát mọi thứ mày thấy… mày ném đồ đạc trong nhà… yêu sách điều này điều nọ… mày lục lọi từng căn phòng cứ như thể mày là lão tướng Patton
(12) vậy! May cho mày là mẹ mày đã không gọi cảnh sát đấy. Mày nghĩ mày là ai vậy? Làm sao mày có thể hành xử như vậy trong thời điểm này chứ? Có ai quan tâm đến… đến cảm giác của bà già này không? - Bà dừng lại, tôi nghe thấy tiếng bà khóc ở đầu dây bên kia. - Tao trơ trọi một mình ở đây này. Tao không còn trẻ nữa… tao gần một trăm tuổi rồi… Tao rất là… rất là xấu hổ vì mày, David James Pelzer ạ!
Nghe bà liên tục mắng nhiếc, tôi chỉ có thể lắc đầu bất lực. Tôi biết sẽ thật vô ích để giải thích với bà rằng, thật sự tôi không hề đe dọa mẹ hay hủy hoại nhà cửa của bà ấy. Sau chừng ấy năm, mẹ vẫn mưu mẹo và nguy hiểm như ngày nào. Đồng hồ lúc bấy giờ cũng sắp gõ hết ngày. Cũng như mẹ, bà là người không ai có thể ngăn cản nổi. Tôi chỉ còn biết thỉnh thoảng đáp lời bà bằng từ "Vâng, thưa bà" hoặc "Không phải đâu, bà ạ" khi nào tôi cảm thấy câu trả lời của mình là cần thiết. Một giờ sau đó, sau khi bà đã lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần những lời trách móc, tôi chen ngang:
- Bà ạ, cháu đã gặp mẹ ngày hôm qua, không phải hôm nay. Và khi bà nói chuyện với mẹ, trước khi bà gọi cho cháu, mẹ cháu đã say… có phải không ạ?
Tuy cách xa nhau đến hàng trăm dặm, tôi vẫn có thể nghe bà hít vào một hơi thật sâu. Tôi cố tâm đề cập điều bà không muốn nói đến. Không cố ý vô lễ với bà, tôi làm vậy chỉ để ngăn bà khỏi nổi điên mà thôi. Thấy bà có vẻ lắng dịu lại, tôi chớp thời cơ đưa bà trở về với thực tại bằng một câu hỏi khiến bà phải suy nghĩ và nhận ra sự thật: Tất cả chỉ là một trò bịa đặt vô ích của mẹ mà thôi.
- Thế à, - bà vẫn khăng khăng, - mày biết rõ mẹ mày thế cơ à! Say rượu ư? Mẹ mày lúc nào chẳng say. Tao đến phát bệnh và quá mệt mỏi vì những cú điện thoại của nó rồi. Tao còn phải lo việc của tao, mày biết đấy. Tao chẳng muốn quan tâm đến ai hết, vậy mà ngày nào tao cũng phải giải quyết hết chuyện này đến chuyện nọ của nó. Tao đã nói với tất cả mọi người và giờ là với mày: tao không còn trẻ trung gì nữa. Thật không dễ dàng chút nào… nhưng có ai quan tâm xem tao cảm thấy thế nào không? Có ai không? Hả…?
Những lời than thân trách phận của bà ngoại và chuỗi ta thán kể lể của mẹ cách đây một hôm giống nhau đến từng lời, từng chữ.
- Thưa bà? - Tôi nhẹ nhàng xen vào. - Nếu mẹ đã say khi gọi cho bà, có lẽ bà không nên, bà biết đấy… không nên để tâm đến những lời mẹ cháu nói làm gì cả. - Dù thế nào đi nữa thì rõ ràng bà tôi cũng không phải là một người kém thông minh; trái lại, bà là một người thông minh và độc đoán, người thi thoảng vẫn thích thú với việc làm bẽ mặt con gái của mình. Cẩn trọng thăm dò bà, tôi đột nhiên nhận ra một vấn đề: điều bà quan tâm không phải là chuyện đang xảy ra trước mắt, mà là chính bản thân bà và cảm giác của bà tại thời điểm mọi chuyện đang xảy ra.
Tôi cảm thấy kiệt sức và gần như sụp đổ hoàn toàn. Trước khi bà kịp nói thêm một tràng những lời mắng nhiếc, chì chiết, tôi nói luôn:
- Bà nghe đây ạ, cháu biết đã trễ quá rồi, vì vậy cháu sẽ gọi lại cho bà sau. Cháu xin lỗi đã làm phiền bà. Cháu phải đi. Cháu sẽ gửi những lời chúc tốt đẹp nhất của bà đến cha cháu. Tạm biệt bà.
Trong lúc hạ từ từ ống nghe xuống, tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng bà lồng lộn ở đầu dây bên kia:
- David James Pelzer! Mày đừng có nghĩ đến việc cúp máy ngang như thế chứ! Tao đang phát bệnh, tao mệt mỏi vì bị tất cả dẫm đạp lên như một tấm thảm chùi chân rồi đây này. Mày phải thấy rằng với tất cả những gì tao đã làm, thì họ cũng phải tử tế mà nghĩ cho cảm giác của tao chứ…
Tôi mỏi mệt lê bước về phía chiếc trường kỷ. Alice kêu lên:
- Chúa ơi, trông con nhếch nhác quá đấy! - Vì luôn cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất việc nhìn mình trong gương, nên tôi chỉ có thể tưởng tượng ra bộ dạng của mình mà thôi. - Mấy hôm nay con đã
không ngủ được thẳng giấc, còn ăn uống thì chẳng được là bao. Giờ thì mặt mũi và đầu cổ con còn đỏ ửng lên thế kia kìa… - Bà Turnbough sờ tay lên trán tôi và lắc đầu lo lắng. - … Con sốt cao lắm rồi đây này.
Khi Alice đi vào nhà tắm, tôi vật vã, Trời ơi, chuyện gì đang xảy ra thế này? Một lúc sau, Alice trở lại, mang cho tôi vài viên aspirin và một ly nước. Tôi đón lấy nắm thuốc rồi cho tất cả vào miệng, nốc một hơi cạn ly nước.
- Con không hiểu… - Tôi nghẹn ngào nói với Alice. - Họ không quan tâm. Không ai hết. Cả mẹ lẫn bà ngoại, không ai hỏi thăm cha hết. Giờ đây, - tôi uất nghẹn theo dòng cảm xúc đang tuôn trào, - họ làm như thể cha chưa hề tồn tại. Điều đó khó khăn với họ lắm sao. Hay vì cha không có vai trò gì với họ cả? Con không biết. Họ đã không hỏi han gì về cha con cả - ông ấy thế nào, chuyện gì đang xảy ra, không hề quan tâm gì cả. Họ không mảy may muốn giúp cha con, ngay cả lúc ông không còn sống được bao lâu. Tại sao lại như vậy? Sao lúc nào họ cũng chỉ biết đến bản thân mình? Họ chỉ luôn miệng than van họ đau khổ thế nào này, họ đáng thương thế nào này, họ tội nghiệp thế nào này. Khốn nạn thật! - Tôi đấm tay mạnh xuống ghế, vỡ òa trong cơn tức giận.
Nhưng rồi tôi nhanh chóng trấn tĩnh lại.
- Con xin lỗi. - Tôi không muốn Alice nghĩ rằng tôi đang suy sụp tinh thần. Cảm thấy như lòng mình đã lắng xuống, tôi nói thêm: - Con không biết giờ mình có thể làm được gì nữa… Ý con là, làm gì cho cha con ấy. Con chỉ mong ước có một gia đình mà ở đó mọi người yêu thương nhau hoặc có thể một lần chôn vùi lòng thù hận và làm những gì cần thiết cho nhau. Con chỉ mong như vậy thôi mà…
- David! - Alice kêu to. - Dậy mau, chúng ta trễ mất rồi. Hơn chín giờ rồi. Chúng ta ngủ quá giờ rồi.
Tôi vội bật dậy, lao ra khỏi chiếc trường kỷ, vuốt lại bộ quân phục nhăn nhúm mà tôi đã mặc suốt bốn ngày qua và nhảy bổ ra trước cửa nhà. Alice và tôi lái xe đến bệnh viện trong một thời gian ngắn kỷ lục.
Tôi hộc tốc chạy về phía hành lang và gặp Steve ở cửa ra vào phòng của cha. Steve dang tay chặn tôi lại.
- Chúng ta nói chuyện một lát. - Ông ấy đề nghị. Tôi liếc nhìn về phía cha. Dường như mọi thứ vẫn như vậy, ngoại trừ việc cha được trợ thở nhiều hơn. Nhưng nhìn nụ cười gượng của Steve, tôi như hiểu tất cả. - David, cậu cần phải hiểu rằng… đôi khi người ta không thể… người ta không thể ra đi… cho đến khi họ biết được rằng những người mà họ yêu thương vẫn khỏe mạnh. Cậu… à, cậu có hiểu được điều tôi nói không, David?
Tôi hoàn toàn hiểu thấu được điều Steve nói, chỉ là tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần mà thôi.
- David này, cha của cậu, ông ấy đang đau đớn lắm. Cậu phải nói với ông ấy là cậu sẽ ổn. Cậu phải để cho ông ấy ra đi. Cậu hiểu mà, đúng không, David? Ông ấy sẽ không thể ra đi nếu cậu không làm như vậy. Hãy giải thoát cho ông ấy. Điều đó cần thiết cho ông ấy lắm. Điều đó rất đáng để làm. Ông ấy sẽ không thể ra đi cho đến khi…
Tôi quay sang Alice.
- Mẹ vào trong trò chuyện với cha con, được không mẹ? - Tôi khẩn khoản rồi bần thần đi về phía cuối hành lang, buông người trên một băng ghế dài bằng gỗ. Hàng triệu triệu ý nghĩ đang ngổn ngang trong đầu, tôi vẫn ngồi đó, bất động, mắt dán vào chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Timex rẻ tiền của mình. Chỉ còn vài phút nữa là đến mười giờ. Tôi đan tay vào nhau, khẽ cầu nguyện. - Con thật sự chưa bao giờ xin Ngài điều gì quá lớn. Ngài cũng biết con đã trải qua những gì. Con đinh ninh, con nghĩ rằng con có thể cứu sống cha con… Vì vậy, nếu Ngài chứng giám cho con điều này… nếu không còn cách nào khiến cha con khá hơn… thì Ngài hãy mang cha con đi. Hãy giải thoát cha con khỏi những đau đớn và hãy mang cha con đi. Amen.
Tôi lau nước mắt, định tâm trở lại và đi về phía phòng của cha, trong lòng vẫn không biết phải làm gì tiếp theo. Một toán y tá, chuyên gia, những người có lẽ đã trở thành cầu nối liên hệ giữa cha với thế giới bên ngoài trong suốt mấy tháng vừa qua, dạt ra, nhường lối khi tôi bước vào phòng. Alice quay về phía tôi sau khi vỗ vỗ nhẹ vào tay cha.
- Ông là một người tốt, ông Pelzer ạ. Chúa sẽ phù hộ ông. - Alice nói khẽ, nước mắt bà chảy dài trên má, rồi bà rời khỏi phòng.
Steve thì thầm từ sau lưng tôi:
- Hãy để ông ấy ra đi.
Nói rồi Steve quay bước. Những người còn lại cũng lần lượt theo ông rời khỏi phòng.
Chỉ còn mình tôi bên cha. Sao căn phòng hôm nay lại lạnh và rộng thế này? Những tấm rèm được mở rộng hơn, để những tia nắng ấm áp ngoài kia len vào. Ngoài chiếc giường cha đang nằm, mọi vật dụng và dụng cụ y tế đều đã được mang đi hết. Tấm ra trải giường tinh tươm, chiếc áo bệnh nhân cha mặc trên người trông rất mới. Âm thanh duy nhất trong căn phòng lúc này chỉ là tiếng thở khó nhọc của cha. Tôi nhìn cha thật lâu, ngắm cha thật kỹ… Đến hôm nay tôi mới thấy dải băng dưới cổ cha không còn nữa. Chỗ ấy giờ đây là một khoảng da đã đen lại vì biểu hiện di căn của căn bệnh ung thư. Dù rất muốn xoa dịu nỗi đau của cha, rất muốn giúp cha thanh thản ra đi, tôi vẫn không tài nào nói lời từ biệt với cha.
Tôi ngồi cạnh cha, nắm lấy bàn tay run rẩy của ông. Tận sâu trong lòng, tôi thấy cảm xúc đang dâng trào, và tôi phải cố hết sức để nén đau thương:
- Con, à,… con có vài tin tốt lành đây cha ơi. - Tôi nói dối. - Bác sĩ nói rằng mọi chuyện sẽ ổn… và … họ sẽ giúp cha qua khỏi và xuất viện sớm thôi. - Một mặt, tôi thấy mình thật xấu xa khi nói những lời giả dối đó, nhưng chẳng hiểu sao tôi cứ thế tưởng tượng ra những điều tốt đẹp hơn để nói với cha. Nhìn vào khuôn mặt của cha, tôi đĩnh đạc nhấn giọng: - Con chưa nói với cha điều này phải không… Con có một ngôi nhà ở cạnh Dòng sông Nga. - Tôi dừng lại, nhìn cha… Dường như ông hiểu được điều tôi vừa nói. -
Tường và trần nhà được làm bằng gỗ thông có nhiều mắt cha ạ. Phòng của cha còn có một bếp lửa làm bằng đá nữa chứ. Ngôi nhà luôn ấm áp và tràn ngập ánh mặt trời. Nó đẹp lắm cha ạ. Nó có tất cả mọi thứ. Nó nằm bên bờ sông, và khi mặt trời lặn, mặt nước trông như là mặt gương vậy. Ban đêm, cha có thể ngửi thấy hương thơm của những tán cây gỗ đỏ… Nơi đó là vùng đất thiên đường, cha ơi. Là thiên đường…
… Nhớ năm xưa, khi con còn nhỏ, hè đó cha đã dẫn con đi dạo dọc bờ sông… Cha đã nói nơi ấy cũng như là thiên đường. Cha con mình sẽ sống ở đấy… cùng đi câu cá, ngồi ngắm cảnh trên bãi biển Johnson, hay làm bất cứ điều gì chúng ta thích. Mùa hè… cha con ta có thể đến San Francisco và chơi một trò gì đấy ở Candlestick
(13) - lúc trước cha vẫn muốn như vậy mà. Cha con ta sẽ cùng tận hưởng thiên đường ấy. Chỉ có cha và con mà thôi.
… Chúng ta làm được mà, cha ơi! Chúng ta thực sự làm được mà! Mọi thứ sẽ ổn cả. Chúng ta sẽ ở bên nhau… cùng nhau sống một cuộc sống an bình. Chúng ta đã có một ngôi nhà, một ngôi nhà thật sự. Không còn cãi vã, không còn rắc rối, không còn ai đá chúng ta ra đường nữa. Chúng ta làm được điều đó mà cha! Sẽ ổn cả thôi mà cha. Cha cứ nghỉ ngơi đi... còn con… con sẽ chăm sóc cho cha… con sẽ lo liệu tất cả…
Tôi đột ngột dừng lại, cảm nhận rõ những ngón tay run rẩy của cha đang nắm chặt lấy tay mình. Cả quãng đời đã qua, cha và tôi chưa bao giờ nhìn nhau rõ và lâu đến vậy. Đôi mắt đen của cha thật trong trẻo. Ẩn sâu trong đôi mắt ấy, tôi đau đớn cảm nhận được sự tiếc nuối khôn nguôi, nỗi cô đơn cùng cực, nỗi buồn day dứt, và cả nỗi đau đớn đến tận cùng của cha…
- Cha biết không…Con luôn tự hào về cha. Cha luôn là vị anh hùng của con. Và với tư cách là con trai của cha, con thề có Chúa, một ngày nào đó, con sẽ, con sẽ khiến cha tự hào. Con đã và sẽ luôn luôn yêu cha, cha ơi. Giờ thì cha hãy nghỉ ngơi đi nhé… và cha con ta sẽ gặp nhau ở ngôi nhà ấm áp của chúng ta, ngôi nhà ở cạnh dòng sông…
Cha cựa mình. Cha dùng tất cả sức lực còn sót lại, cố gượng dậy để ôm hôn tôi. Tôi thận trọng đỡ lấy cha. Sau bao nhiêu năm tháng, cuối cùng thì cha con tôi cũng được ngồi cạnh nhau, thanh bình… như những người cha và con trai khác. Tôi nhìn cha, mỉm cười với ông và hôn nhẹ trán ông… Thời gian như lặng đi. Mọi vật quanh tôi như ngừng thở… Mùa hè năm ấy… Đã lâu lắm rồi, cha con tôi cùng nhau tản bộ dọc Dòng sông Nga, cha cũng nhìn tôi…nháy mắt với tôi… Tôi thấy cha nháy mắt với tôi, rồi đôi mắt ấy khẽ khép lại… Mấy ngón tay của cha buông lỏng, rơi trên người tôi… Cha thanh thản ra đi…
Tôi ôm cha thật lâu. Tôi hôn cha, hôn từng ngón tay đang co cứng của cha rồi nhẹ nhàng đặt ông nằm xuống chiếc gối trắng. Nhìn gương mặt của cha, tôi mới thấy mình ngu ngốc làm sao khi từng có ý nghĩ sẽ có cách nào đó cứu được ông. Tôi ngắm nhìn cha
thật kỹ, ngắm nhìn người đàn ông mà tôi luôn ao ước được kề cận. Sau khi vuốt mắt cha, tôi thầm cảm ơn Chúa đã để cho tôi được ở bên cha vào những giờ phút cuối đời của ông. Tôi đưa mấy đầu ngón tay sờ lên má, lòng cảm thấy chút ấm áp khi nhớ rằng trước giờ cha chưa từng hôn tôi. Mặc cho những khoảng trống đã từng tồn tại giữa cha và tôi trong quá khứ, giờ đây tôi đã có được ký ức đáng giá nhất của mình về cha. Đó là những gì mà suốt cuộc đời này tôi sẽ mãi nâng niu.
Tôi đứng dậy, kéo tấm chăn đắp kín cho cha rồi bước ra ngoài. Steve đang đợi tôi, dường như ông ấy đã hiểu mọi chuyện. Steve đưa điện thoại và một mẩu giấy cho tôi.
- Gì vậy? - Tôi hỏi với vẻ ngạc nhiên. Steve nhìn ra xa, trả lời:
- Mẹ cậu… bà ta muốn biết thời điểm cha cậu ra đi… ngay khi điều đó xảy ra.
Tôi nhắm mắt lại, cảm giác mỏi mệt và muốn buông xuôi tất cả. Ngay tại thời khắc tồi tệ nhất của đời người, vậy mà mẹ, bằng tất cả quyền uy của mình, một lần nữa lại giành được khả năng kiểm soát mọi thứ. Theo lẽ đương nhiên, tôi thậm chí còn không được vinh dự nằm trong danh sách không chính thức những số điện thoại cần liên lạc của quý bà ấy, thế nhưng tôi lại đủ khả năng giúp mẹ thực hiện công việc bẩn thỉu của bà. Ở đầu dây bên kia, tôi nghe thấy giọng nói nặng nề của mẹ. Tôi hít thở sâu và thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Đây là cuộc điện thoại báo tin cho bà hay rằng, chồng của bà, ông Stephen Joseph Pelzer, vừa mới qua đời.
Tôi dừng lại một lát, ngạc nhiên bởi chính giọng nói vô hồn và sự trơ lì của mình. Tôi cảm thấy mình không còn mấy quan tâm đến mẹ hay những màn kịch lố lăng, kệch cỡm của bà nữa. Mẹ cũng chẳng ngần ngại:
- À… thế à. Như thế thật tốt biết bao, đúng không nào? Ừm… - Rồi có tiếng mất tín hiệu ở đầu dây bên kia.
Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại. Tôi cũng không biết mình nên nghĩ gì vào lúc này. Steve đỡ lấy cái ống nghe từ tay tôi.
- Chúng ta cần nói chuyện một lát. - Ông ấy vừa nói vừa nhìn tôi cười tươi. - Có nhớ tôi đã nói với cậu rằng ông ấy sẽ không ra đi nếu chưa sẵn sàng không?
Nước mắt lã chã rơi trên khuôn mặt tôi. Tôi gật đầu với Steve.
- Trước khi cậu đến, cha cậu chưa sẵn sàng. Ông ấy đã nán lại… ông ấy đã chờ đợi… ông ấy đợi cậu.
- Đợi tôi ư?
- Đúng thế! - Steve nói với giọng quả quyết.
- Nhưng… không biết cha tôi có… - Tôi lắp bắp.
- Điều đó không quan trọng. Ông ấy biết mình đang làm gì. David, cậu hãy nghe cho rõ, cha cậu đã
đấu tranh với bệnh tật rất lâu và rất khó khăn so với bất kỳ người nào khác mà tôi biết trong hoàn cảnh của ông ấy. Đáng ra ông ấy đã bỏ cuộc trước đó rất lâu rồi. Ông ấy biết rõ kết quả, ông ấy biết mình sẽ không bao giờ ra khỏi được nơi đây. Ông ấy đã chờ đợi. Ông ấy đã đợi cậu!
- …
- Cậu có hiểu tôi nói gì không? - Steve gặng hỏi trong lúc tay giữ chặt vai tôi.
- Vâng, tôi hiểu rồi. Tôi thực sự đã hiểu. - Tôi quẹt nước mắt. - Tôi biết ơn vì mọi thứ mà ông và tất cả mọi người ở đây đã làm cho cha tôi. Ít ra, - tôi dừng lại và nhìn một lượt nhóm chuyên viên y tế, - ít ra cha tôi đã không cô đơn khi ở đây. Vì điều đó, tôi rất lấy làm biết ơn. Tôi thực sự biết ơn. Cảm ơn ông. Cảm ơn tất cả.
Tôi bắt tay tất cả mọi người, rồi dừng lại thật lâu bên Steve.
- Ổn cả thôi mà, anh bạn, tôi hiểu mà. - Steve nói rồi ôm lấy tôi. Tôi đưa tay vào túi quần lấy ra một chiếc túi da thuộc màu đen đã cũ sờn.
- Đây là tấm huy hiệu của cha tôi. - Tôi trở nên phấn chấn.
- Cha cậu muốn cậu giữ nó. Ông ấy đã nói với tôi như vậy. - Steve nắm chặt lấy tay tôi.
- Đó là thứ duy nhất cha tôi có, nó chính là… là thứ không ai có thể tước đi. - Tôi dừng trong chốc lát. - Một ngày nào đó, tôi sẽ khiến cha tự hào về
mình. - Tôi nhìn thẳng Steve, quả quyết tuyên bố. - Tôi sẽ làm được!
- David này, đừng quá đau buồn. Cậu đã làm được điều đó rồi. Ông ấy đã nói cho tôi nghe. Ông ấy tự hào về cậu. Ông ấy nói rằng cậu đã làm được điều đó… cậu đã làm được điều đó khi cậu chiến thắng được những hoàn cảnh mà cậu đã phải chịu đựng.
- …
- Ngay lúc này, cha của cậu đang ở trên kia. Ông ấy có thể nhìn thấy cậu. - Steve suy tư. - Có thể ông ấy không ở bên cậu, không bằng xương bằng thịt ở bên cậu, nhưng ở trên kia, ông ấy sẽ dõi theo cậu… mãi mãi.
Bốn ngày sau, vào một sáng thứ Hai sương mù dày đặc, tôi đỗ chiếc xe của ông Turnbough trước ngôi nhà thờ mà năm xưa, cả Ron, Stan và tôi đã đến cùng với cô của mình khi chúng tôi còn ở độ tuổi mẫu giáo. Nhìn quang cảnh chung quanh, tôi nghĩ mình đã đến trễ. Nghi thức đám tang đã được tiến hành. Tôi mặc bộ quân phục màu xanh ô-liu, cùng Alice bước thật khẽ nhưng thật nhanh dọc theo lối đi bên trái của giáo đường, rồi chen vào một trong những dãy ghế đầu tiên.
Tôi quỳ xuống cầu nguyện. Lòng tôi đau nhói. Không thể tin rằng tôi lại có thể bất kính với cha như vậy khi đến trễ trong lễ tang của ông. Sau khi tạ ơn Chúa vì đã giải thoát cha khỏi mọi nỗi khổ đau, tôi chăm chú theo dõi buổi lễ. Tôi nôn nao và mong ngóng được nghe những điều tốt đẹp mà người khác
nói về cha. Có lẽ như thế, tôi sẽ biết thêm điều gì đó về cha. Tôi đã luôn thắc mắc về quá khứ của cha mẹ mình, về suy nghĩ của họ, về dự định tương lai của họ, họ đã gặp nhau, yêu nhau thế nào, tại sao mọi thứ lại trở nên xấu đi như thế, làm sao mà một cặp vợ chồng tưởng như đã có tất cả nhưng rồi lại đánh mất mọi thứ như thế. Tôi đặc biệt thắc mắc về tình yêu mà tôi cảm thấy họ từng dành cho nhau. Nhưng thay cho những lời tốt đẹp mà tôi muốn nghe từ mọi người, vị mục sư chỉ vội vàng đọc một loạt những thông cáo.
- Buổi lễ vào chiều thứ Tư này sẽ được hủy bỏ. Nhưng bữa tối thường lệ vẫn được tiến hành như mọi khi…
Tôi quay sang Alice trong sự tức giận tột độ.
Rồi tôi chợt nhận ra không có bất cứ lẵng hoa, vòng hoa hay thậm chí một hộp nhỏ đựng đồ nào dành cho cha tôi phía sau bục giảng của mục sư.
- Nhìn kìa. - Tôi thúc khuỷu tay vào Alice. Bà Turnbough nghiêng sang và thì thầm:
- Mẹ con nói rằng cha con muốn được hỏa táng.
- Không đời nào! - Tôi như phát rồ. - Cha con là một lính cứu hỏa cơ mà! Nghe này, một lính cứu hỏa! Lính cứu hỏa thì không thể bị hỏa táng... Không! - Tôi nói, cố gắng kìm nén cơn giận của mình. - Điều này thật điên rồ. Hoàn toàn điên rồ. Cha không đời nào muốn thế!
- Ta biết. - Alice nhẹ nhàng trả lời. - Nhưng đã quá muộn rồi con ạ. Bà ấy đã…
Không muốn nghe lời phán quyết cuối cùng cho số mệnh của cha, tôi quay đi và nhận lấy một ánh nhìn đầy thù hận từ mẹ. Ánh nhìn hằn học đó cho thấy bà cảm thấy bị xúc phạm khi tôi đã ở trong cùng một tòa nhà với bà và những đứa con quý hóa của bà, những kẻ tỏ ra vô cùng buồn bã trong suốt buổi tang lễ. Tôi tập trung sự chú ý vào vị mục sư, người vừa lấy giọng để cất lên lời cầu nguyện cuối cùng:
- … nhân danh Cha, Con và Thánh thần. Chúa ở cùng anh chị em.
- Và ở cùng cha. - Giáo đoàn đáp lại.
- Anh chị em ra về bình an. - Mục sư kết thúc. Một cơn giận dữ dâng trào trong tôi. Làm sao
mình có thể kém cỏi và bỏ lỡ cả đám tang của cha như thế này cơ chứ? Quỳ trước mặt Chúa, tôi tự nguyền rủa mình vì đã nhầm lẫn thời gian tiến hành đám tang của cha.
Alice nghiêng sang, nói khẽ:
- Ta thề rằng mẹ con đã nói với con là tang lễ sẽ tiến hành vào lúc chín giờ.
Tôi gật đầu, xem lại đồng hồ vừa chỉ hơn chín giờ được vài phút.
Vị mục sư cúi chào mọi người trước khi rời bục giảng, ông toan quay đi thì sắc mặt ông đột nhiên thay đổi. Và tôi biết chắc rằng ông đã bắt gặp ánh nhìn của mẹ. Vị mục sư vội quay trở lại bục và mở một trang giấy:
- Tôi xin lỗi. - Ông ấy nói. - Nhà thờ muốn ghi nhận sự ra đi của Stephen Pelzer, người đã yên nghỉ thanh thản trong vòng tay của Cha trên trời. Một lính cứu hỏa đã nghỉ hưu của San Francisco, Stephen sẽ sống mãi… - Vị mục sư dừng lại để đọc mấy dòng chữ ghi trên trang giấy. - … Stephen sẽ sống mãi trong lòng người vợ hiền của ông ấy, bà Catherine, và bốn người con của ông ấy: Ronald, Stan, Russell và Kevin. Hãy cầu nguyện cho tất cả.
Tôi cúi đầu. Cảm thấy lạc lõng và tủi hờn. Đây chính là lời ca tụng người ta dành cho cha đó sao. Hai mươi, à không, ba mươi hai từ. Một cuộc đời mà chỉ được gói gọn trong một câu nói ngắn tựa hơi thở vậy thôi sao. Cha tôi thậm chí còn không xứng đáng có được một nhành hoa, một lời cầu nguyện, hay bất cứ thứ gì khác. Thật vô nghĩa, tôi tự nhủ, cả cuộc đời cha mà chỉ được gói lại trong một cái chớp mắt vậy thôi sao. Bỗng tôi giật mình. Bốn người con của ông ấy. - Ôi Chúa ơi! - Tôi nắm chặt hai bàn tay. - Bà ta lại làm cái trò đấy nữa rồi!
Tôi trừng mắt nhìn mẹ, bà ta đang lau nước chảy từ đôi mắt sưng mọng bằng một chiếc khăn tay trắng tinh. Như mọi khi, bà không bao giờ bỏ lỡ cơ hội thu hút sự chú ý của mọi người. Để cho thiên hạ trông thấy bà ấy cùng những đứa con của bà vây quanh, bà Pelzer đáng kính đang vào vai một góa phụ đáng thương một cách hoàn hảo.
Vị mục sư cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.
- Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em.
- Và ở cùng cha. - Giáo đoàn đáp lại.
- Tang lễ kết thúc. Anh chị em ra về bình an.
Tôi đứng lên, vẫn ném ánh nhìn giận dữ về phía mẹ. Bà ấy bị mất thăng bằng khi cố gắng đứng dậy. Tôi có thể nghe thấy nhiều tiếng thút thít phát ra từ đám đông. Trước màn kịch quá khéo của mẹ, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía bà ấy. Tôi còn nghe thấy cả tiếng người ta chen nhau để đến gần an ủi bà góa phụ. Tôi lắc đầu đầy căm phẫn.
- Dah-veed? - Có tiếng ai đó gọi to. - Dah-veed, cậu có nhớ không? Cậu có nhớ chúng tôi không?
Tôi quay sang một cặp vợ chồng đứng tuổi. Mất một lúc, tôi mới nhận ra họ chính là những hàng xóm cũ ở kế nhà tôi, ông Tony và bà Alice.
- Cậu nhớ ra chúng tôi rồi, đúng không? - Tony hỏi bằng một giọng Anh không chuẩn lắm. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh ông ấy vừa ngậm tẩu thuốc vừa đẩy máy cắt cỏ đi qua đi lại bãi cỏ trước nhà. Tôi còn nhớ một mùa đông nọ, mẹ bắt tôi trượt ván liên tục lên xuống dãy phố, không được dừng lại trong điều kiện thời tiết lạnh như băng, trong khi trên người tôi chỉ mặc một chiếc áo thun sờn mỏng và một chiếc quần cộc mà thôi. Mỗi lần Tony ra ngoài để lấy báo, lúc nào ông cũng co người trong một chiếc áo khoác dày cộp. Chúng tôi chỉ có thể gật đầu chào nhau. Không hiểu sao tôi vẫn có cảm giác là chúng tôi hiểu về nhau, tuy rất mơ hồ. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông ấy là vào ngày trước khi tôi được giải thoát. Bởi vì các căn nhà được xây san sát nhau, nên người ở nhà bên này có thể bước lên cầu thang dẫn lên cửa trước nhà mình và dễ dàng nhìn vào trong cửa sổ nhỏ của bếp nhà bên cạnh, nơi chỉ cách chỗ họ đứng
vài bước chân. Buổi trưa hôm đó, mẹ chà chân lên mặt tôi khi tôi nằm sóng soài trên sàn nhà bếp. Tony đã nhìn thấy tôi trong khoảnh khắc đó. Máu đã chảy ra từ miệng và mũi tôi. Cũng như nhiều lần khác, ông ấy thừa hiểu hoàn cảnh của tôi, nhưng không thể làm được gì cho tôi cả.
- Cậu giờ ổn hơn rồi đấy. Tôi thấy cậu ở quân đoàn không quân. Cậu đã ổn rồi… ổn rồi. - Tony nói với vẻ đầy tự hào khi nắm chặt lấy tay tôi. - Chúng tôi tự hào về cậu. - Tony vừa nói vừa nhìn sang vợ. - Ai cũng biết hết rồi. Cậu là một chàng thanh niên tốt. Một đứa con tốt. Tất cả chúng tôi, tất cả hàng xóm của cậu đều biết rằng cậu và Ronald đã nhập ngũ. Các cậu là những chàng thanh niên tốt. Các cậu luôn luôn là những đứa con tốt.
Quá bất ngờ và bối rối, tôi không biết làm gì hơn ngoài việc gật đầu.
- Khi nào quân đội cho về phép, hãy ghé thăm
Tony và Alice nhé.
Tôi chưa kịp trả lời thì một nhóm người mặc đồng phục xanh đen đi về phía chúng tôi. Tôi nín thở khi nhận ra đó là những đồng nghiệp cùng làm ở đồn cứu hỏa với cha tôi. Tôi thoáng bỡ ngỡ, nghĩ rằng chắc họ đã nhầm tôi với một ai đó trong gia đình của mẹ. Một người đàn ông mà tôi nghĩ là đội trưởng - vì vẻ ngoài oai vệ của ông - nắm chặt tay tôi và thì thầm vào tai tôi:
- Cha cháu là một người tốt và là một chiến binh của ngành cứu hỏa. Đừng bao giờ quên điều ấy nhé, con trai.
- Vâng, thưa chú. Cháu sẽ nhớ, thưa Đội trưởng.
- Này, cháu có nhớ ông chú này của mình không đấy? - Một giọng nói quen thuộc cất lên.
Giữa nhóm người là chú Lee, người đồng nghiệp lâu năm nhất của cha tôi. Chú bước đến và ôm hôn tôi thắm thiết. Từng người một của nhóm lính cứu hỏa bày tỏ lòng thành kính của mình với cha tôi, họ tạo thành một hàng dài như thể bảo vệ tôi khỏi ánh nhìn cay độc của mẹ.
- Cháu cảm ơn chú, chú Lee. - Tôi ôm chặt lấy chú.
- Vì điều gì?
- À… vì đã thừa nhận cháu. Cháu đã ở bên cạnh cha cháu… lúc cha lìa đời. Nhưng các chú không cần phải ở bên cạnh cháu. Cháu không muốn làm bất cứ điều gì có thể gây sự chú ý của bà ấy. - Tôi vừa nói vừa nhìn về phía mẹ.
- Thừa nhận ư? Ngốc ạ. Không điều gì có thể khiến chúng ta chùn bước. Cha cháu rất yêu các cháu. Cháu phải hiểu điều đó, David à. Có thể ông ấy không nói ra điều đó, mà cũng có thể ông ấy đã không ở bên khi cháu cần, nhưng ông ấy luôn nghĩ về các cháu. Mọi thứ chỉ là… chỉ là mọi thứ đã không đi đến đâu. Và nếu như Ronald có mặt ở đây, ta cũng sẽ nói với nó y như vậy. Các cháu cần phải biết. Không ai hoàn hảo cả. Cha của cháu đã làm những điều ngay cả ta cũng không ủng hộ, nhưng, - chú Lee thẳng thắn xác nhận, - cha cháu không phải là một người xấu. Cho dù ông ấy đã phạm phải lỗi lầm gì, thì những lỗi lầm đó không phải do ông ấy cố tình tạo nên. Cháu có hiểu ta nói không?
Tôi gật đầu.
- Cháu hiểu rồi ạ. Cháu cảm ơn chú, chú Lee.
- Nghe đây, - Lee quỳ xuống cạnh tôi, - cha cháu đã trao chiếc mũ bảo hộ của mình cho Ron. Còn cháu, cháu đã nhận được chiếc huy hiệu của ông ấy chưa?
Tôi đảo mắt nhìn quanh để chắc rằng không có ánh mắt nào đang theo dõi mình rồi trao bí mật của mình cho Lee:
- Vâng ạ, nhưng cháu không chắc mình có phải là người được giữ nó hay không. Có khi nào cháu phải giao nó lại cho các chú không ạ? Cháu phải làm gì đây ạ? - Tôi nghẹn lại một lúc. - Hay cháu phải đưa nó cho bà ấy?
- Đừng bao giờ làm thế! - Chú Lee kêu lên. - Nghe cho rõ đây. Đó là cách cha cháu nói rằng cháu có ý nghĩa với ông ấy như thế nào. Ông ấy luôn mong muốn để lại cho các cháu vật gì đó, thay cho cảnh sống ngục tù mà các cháu đã phải trải qua. David, cháu phải biết nói dối một chút và - chú Lee dừng lại để nhìn về phía bục giảng của mục sư - và chú mong cháu hãy hiểu ra vấn đề trước khi mọi thứ quá muộn. Cháu hãy giữ nó. Đối với cha cháu… thì, chiếc huy hiệu chính là hiện thân của mẫu người ông ấy muốn trở thành - trong cuộc sống cũng như trong công việc. Đối với ông ấy, nó còn quý giá hơn bất cứ món tiền bạc nào. Cháu có hiểu được điều đơn giản đó không?
Điều này cho dù mẹ cháu không biết thì cũng chẳng gây hại gì cho bà ấy. Vì thế, hãy im lặng và giữ lấy chiếc huy hiệu. Hãy để cho cháu được tự hào.
Tôi nhìn chú Lee, cảm thấy như mình đã lớn hơn trước rất nhiều. Trong phút giây tươi sáng ấy, tôi đã là một con người thực thụ.
Tôi đứng bên ngoài nhà thờ, run rẩy trong từng cơn gió lạnh thỉnh thoảng lại thốc tới. Cảnh vật xung quanh mờ ảo trong màn sương mù dày đặc.
- Xin lỗi! - Mẹ xuất hiện và nói bằng giọng mỉa mai, kệch cỡm. - Bà Trewnbow, tôi cần nói chuyện riêng với thằng bé một lát.
Alice - người suốt nhiều năm liền phải chịu đựng không biết bao đêm mẹ say xỉn rồi gọi điện lảm nhảm về những điều điên rồ - đã hiểu quá rõ về mẹ. Bà Turnbough toan buông lời chỉ trích mẹ, tôi đã kịp can thiệp và đưa mẹ đến bãi đậu xe cạnh nhà thờ. Vừa vào đến bãi đậu xe thưa vắng, mẹ chộp ngay lấy vai tôi và lắc mạnh:
- Mày nghĩ mày là ai chứ hả thằng khốn kia? Ai cho phép mày xuất hiện ở đây và bày trò như thế?
Sức chịu đựng của tôi hoàn toàn cạn kiệt. Tôi hất tay mẹ ra, chỉnh lại quần áo rồi buông lỏng tay hai bên đùi.
- Mẹ đã gọi. - Tôi nhìn thẳng bà và trả lời.
- Tao có nhớ đã từng gọi cho mày đâu nhỉ…. Tao không thể theo dõi hết mọi chuyện… và đừng… tất cả chúng mày đừng hòng phủ nhận tao… không phải ngày hôm nay đâu… đồ cặn bã! Tao không nói rằng tao đã gọi hay đã không gọi, và nếu tao đã làm như thế thì cũng vì phép lịch sự mà thôi. Mày phải đủ thông minh để hiểu rằng mày không được chào đón mới phải chứ. Nhưng mày chẳng bao giờ hiểu được như thế cả, có đúng không?
- …
- Còn nữa, ý mày là gì khi để cho bọn người kia vuốt ve mày như thể mày là gì đấy đặc biệt lắm vậy?
Tôi nhìn mẹ, thấy rõ bà đang cay cú.
- Mày nghe cho rõ đây! Tao chỉ đưa mày đến đây, ra khỏi doanh trại không quân đáng khinh của mày, vì lòng tốt của tao. Đáng ra tao không cần làm vậy, mày biết mà. Vì vậy, hãy tránh xa mẹ con tao ra! Mày biết rõ mày là ai và mày là cái gì. Mày không thuộc về nơi này. Mày đừng bao giờ bước chân vào nhà của tao nữa! - Mẹ rít lên. Giọng bà vẫn cay nghiệt, khuôn mặt vẫn hung tợn và vẫn sấn sổ lao vào tôi như nhiều năm về trước. Chỉ khác là lần này bà không dùng mấy đầu ngón tay nhọn hoắt nâng cằm tôi lên. Tôi ngẫm nghĩ điều gì đấy, rồi từ từ ngước lên nhìn thẳng vào cặp mắt đỏ ngầu của mẹ.
Bà vẫn hằn học trấn sát người tôi:
- Mày không có gì cho tao à? Ông ta không đưa cho mày thứ gì trước khi nhắm mắt sao?
Tôi kín đáo lần tay ra túi quần sau, cảm thấy nhẹ nhõm khi chạm được vào chiếc huy hiệu. Chiếc huy hiệu quý giá của cha vẫn còn đây. Không một cái chớp mắt, tôi đáp lại cái nhìn lạnh băng của mẹ:
- Không. - Tôi trả lời bằng giọng không chút cảm xúc. - Cha không đưa cho con thứ gì cả.
- Mày nói láo! - Mẹ rít lên. Cùng lúc đó, tôi cảm nhận được cái tát tóe lửa của mẹ vào mặt tôi. Tôi loạng choạng lấy lại thăng bằng. Tôi phun máu đang chảy ra từ phần môi bị đánh dập xuống vỉa hè. Sự hành hạ về thân xác kiểu này của bà đã không còn ý nghĩa gì với tôi nữa. Hành động này của mẹ là bằng chứng cuối cùng cho sự thua cuộc của bà ấy - bà ấy hoàn toàn không thể kiểm soát được tôi, và cách duy nhất mà bà ấy có để chế ngự tôi là đánh tôi. Ngay cả khi tôi còn bé, cách này của bà cũng chưa bao giờ có tác dụng với tôi, và chắc chắn là bây giờ cũng vậy. Điều đó cũng cho thấy mẹ đã thật sự bế tắc khi phải sử dụng đến cách xử sự đó, đặc biệt là ở nơi công cộng.
- Tao đã gọi cho bệnh viện… và họ đã kiểm tra lại mọi vật dụng của ông ấy. Họ nói rằng ông ấy có vài thứ giấy tờ khi nhập viện, vì vậy đừng đứng đây mà nói với tao rằng mấy giấy tờ đó đã xuất hiện rồi tự biến mất đấy nhé! Và ai cho phép mày sắp xếp lại quần áo của ông ấy bên căn nhà thuê của ông ấy vậy? Tao đã gọi và họ nói rằng mày đã ghé qua rồi đem tất cả đi. Vậy hãy nói tao nghe, nói tao nghe ai cho phép mày đến đó và…
- Chính bà! - Tôi cắt ngang. - Khi bà không đến thăm cha. Khi bà cố tình thờ ơ, không mảy may giúp đỡ cha. Khi bà để cho cha của những đứa con của bà, để cho chồng bà, cho một người đã cùng chung sống nhiều năm trời với bà, chết dần chết mòn trên giường bệnh trong ngần ấy tháng trời. Bà đã không
làm gì để giúp đỡ ông, bà chỉ khiến ông rơi vào hố sâu của cảm giác không còn chút giá trị và đơn độc mà thôi. - Tôi đáp trả, trút hết nỗi đau khổ của mình trước cái chết của cha và những gì ông phải chịu đựng. - Cho dù tôi đã làm điều gì, thì tôi đã làm với tất cả tấm lòng của mình. Ít nhất, tôi sẽ có thể tổ chức một lễ tang theo đúng nghi thức nhất cho cha. Tôi không hiểu tại sao bà lại… bà lại ghét mọi người và mọi thứ nhiều đến như vậy!
- …
- Bà nghĩ chỉ có bà là người duy nhất phải chịu đựng cảnh sống địa ngục sao? Bà mới chính là nguồn cội của tất cả mọi chuyện. Bà đã khiến cho cuộc đời của mọi người, của mỗi người trở thành cơn ác mộng có thật, rồi bà thoải mái ngồi thưởng thức điều đó. Bà tận hưởng nỗi thống khổ của người khác. Bà đã có mọi thứ. Rồi chính bà lại đạp đổ tất cả. Không phải tôi, không phải cha, không phải bà ngoại, không phải các thầy cô giáo, không phải những người hàng xóm, không phải bạn bè của bà, cũng không phải cậu Dan, Ron, Stan, Russell, hay là Kevin. Đó không phải là lỗi của tôi. Không phải, kể cả lúc tôi còn nhỏ hay ngay chính lúc này. Cha xứng đáng được đối xử tốt hơn thế. Cho dù đã xảy ra những bất kỳ cuộc cãi vã nào, cho dù lỗi lầm là của cha hay của bà, thì cha cũng xứng đáng được đối xử tốt hơn thế!
- Làm thế nào mày dám huênh hoang, thằng bẩn thỉu kia… - Mẹ lắp bắp không nên lời. Một lần nữa, bà lại giơ tay lên để trấn áp tôi.
- Bà đừng bao giờ nghĩ đến điều đó nữa! - Tôi phản ứng lại. - Bà phải biết rằng, - tôi hạ thấp giọng nhưng nói rành mạch, - mọi thứ bà đã gây ra cho tôi, cho cha, cho tất cả mọi người, sẽ quay trở lại với bà. Đau đớn, tổn thương, sự chịu đựng, cảnh sống ngục tù… tất cả!
- Mày… mày đừng có mà… cố gắng lảng tránh vấn đề của tao. - Mẹ phản bác vụng về. - Một y tá đã… đã nói với tao… ông ta nói đã nhìn thấy mày… lục lọi áo khoác của cha mày và lấy đi những giấy tờ đó.
Giấy tờ ư? Tôi không có chút khái niệm nào về những gì mẹ đang kêu ca. Trừ khi bà ấy đang nói đến lần đầu tiên khi tôi đi tìm chiếc huy hiệu của cha ở bệnh viện… và thấy được một xấp giấy tờ gì đó rồi cất hết vào túi sau, gần với chỗ để ví. Mối quan tâm duy nhất của tôi là chiếc huy hiệu của cha. Vừa phải đối phó với mẹ, với bà, lại thiếu ngủ trầm trọng, rồi một mình lo lắng cho những điều cha cần đến, thế là tôi đã quên không xem lại xấp giấy tờ kia…
Những biểu hiện trên gương mặt tôi hẳn đã tố cáo mọi suy nghĩ trong tôi.
- Đúng rồi. - Tôi lưỡng lự. - Tôi có giữ chúng. Tôi không cố tình… ý tôi là, tôi đã có ý đưa chúng…
- Câm miệng lại và đưa hết mấy giấy tờ chết tiệt ấy cho tao! - Mẹ ra lệnh.
Tôi chỉ có thể đoán xấp giấy tờ đó là một hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn mà cha đã mua nhiều năm về trước. Một phần trong tôi rất muốn chìa xấp giấy ra rồi nhìn mẹ quỳ mọp xuống đất khi tôi xé tất cả thành muôn nghìn mảnh giấy vụn. Trải qua những năm tháng chịu đựng khổ ải, những trò chơi, và đòn roi hành hạ của mẹ, giờ đây tôi đã nắm trong tay những gì mà bà ấy đang thèm khát đến tận cùng. Tôi bây giờ đã nắm quyền kiểm soát. Nhưng khi tôi đứng trước con người tội lỗi ấy, tôi nhận ra những suy nghĩ thoáng qua của mình không phải là điều sau cùng mà cha tôi hướng đến. Trên tất cả, tôi đã có được phần thưởng của riêng mình. Nhưng với việc nắm giữ xấp giấy tờ kia trong tay, tôi nghĩ rằng mình có thể sẽ gây tai tiếng cho phẩm cách mà cha đã gầy dựng được. Dù mẹ đã từng âm mưu giết chết tôi bao nhiêu lần đi nữa, việc hạ thấp mình bằng cách hành động giống như bà ấy quả thật không phải là điều mình nên làm.
- Đây. - Tôi vừa nói vừa đưa cho bà ấy tất cả giấy tờ tôi còn giữ. - Đây là lỗi của tôi. Tôi không nhớ là đã giữ chúng. Thật sự là tôi đã không nhớ. Tôi chưa từng có ý định lấy của bà thứ gì. Tôi sẽ giao chúng cho…
Ngay lập tức, mẹ vồ lấy mớ giấy trong tay tôi. Mắt bà ấy sáng lên và bà thở ra đầy vẻ mãn nguyện.
- Và giờ thì, thằng nhãi ạ, tao thật sự đã có tất cả những gì tao muốn.
- Bà thua rồi. - Tôi mỉm cười.
- Mày nói gì? - Mẹ hỏi lại trong lúc đọc lướt qua các giấy tờ.
- Suốt những năm tháng qua, bà đã cố gắng hạ gục tôi, vậy mà giờ tôi vẫn đứng ở đây. Cha cuối cùng cũng được giải thoát, Ron thì nhập ngũ, và sớm muộn gì những đứa con còn lại của bà cũng đi theo con đường riêng của chúng mà thôi. Tôi là một người tốt. Tôi cố gắng hết mình cho những việc tôi làm, cho những ý nguyện của tôi. Tôi cũng phạm sai lầm, tôi thất bại, nhưng tôi đã học hỏi được nhiều điều. Tôi không đổ lỗi cho người khác. Tôi đứng bằng chính đôi chân của mình. Và một ngày nào đó bà sẽ thấy, tôi sẽ làm được điều gì đó vượt lên trên cả giới hạn khả năng của chính tôi. Cho dù tôi có phải làm công việc đào mương rãnh, hay đứng bếp làm món ham-bơ-gơ cho quân đội, tôi cũng sẽ là người giỏi nhất, và bằng cách nào đó, theo một hướng đi nào đó, tôi sẽ không bao giờ lãng phí cuộc đời của mình. Nếu có điều gì bà đã dạy cho tôi, thì bà đã dạy tôi được nhiều điều rồi đấy.
Ở phía cổng nhà xe, tôi trông thấy những đứa con của mẹ đang loanh quanh cùng vài người lớn nữa. Tôi bước đến nửa bước, tiến đến sát mẹ, chỉ tay vào gương mặt đỏ gay của bà:
- Hãy tránh xa tôi ra. Mọi thứ bà đã gây nên với người khác… - Tôi dừng lại một chút khi thấy giọng mình đang run lên. Tôi cảm thấy mọi sức lực trong tôi như tan biến hết. Bảy ngày vừa qua đã khiến tôi kiệt sức. Tôi hít một hơi thật sâu rồi bỏ tay xuống, lùi ra xa. - Tôi cầu nguyện cho bà hàng đêm, thề có Chúa, tôi thực sự cầu nguyện cho bà hàng đêm. Bà có thể có được giấy tờ, có tiền của, bất cứ thứ gì, nhưng bà đã thua!
Mẹ bất động, miệng há hốc. Trước khi bỏ đi, tôi đan chặt hai tay vào nhau rồi làm dấu và ghé sát vào tai bà ấy, thì thầm:
- Cầu Chúa phù hộ cho bà, bà Pelzer, vì sẽ không còn ai khác ở bên cạnh bà nữa đâu.
Mười giờ sau, cách đó ba nghìn dặm, tôi đã quay trở lại Căn cứ quân sự Hurlburt
(14) ở Florida. Tôi nhanh chóng nhận ra tâm trạng buồn thảm của mình dường như không thích hợp với những gì đang diễn ra ở doanh trại. Sau khi phi đội chở hàng C-130 được trang bị đặc biệt hạ cánh, tôi mới biết tin đội bay đã trực tiếp tham gia và thất bại trong một cuộc giải cứu các con tin xấu số bị giam giữ ở Iran. Năm trong số tám người đã tử nạn. Mọi thứ còn tồi tệ hơn khi tôi biết những đồng đội của mình đã hy sinh đúng vào ngày cha tôi ra đi.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy và nhận thấy mình hầu như không thể thở như bình thường - cổ họng của tôi đã sưng lên như trái cam. Sau khi được xét nghiệm nhanh tại phòng y tế của doanh trại, tôi được khẩn cấp đưa đến bệnh viện và được chẩn đoán bị nhiễm bệnh tăng bạch cầu đơn nhân cấp tính. Vì đó là lần đầu tiên tôi nhập viện, cộng thêm nỗi đau vì mất cha, tôi đã rơi vào một trạng thái hết sức hoảng loạn. Cũng chính vì tình trạng đó, tôi được cho uống thuốc an thần liều cao. Khi thuốc phát huy tác dụng, tôi mới có thể quên đi nỗi đau của mình và tất cả những rắc rối để đi vào giấc ngủ.
Suốt đêm ấy, tôi mơ thấy mình được nằm bên cạnh cha. Tôi cố đưa tay ra để nắm lấy tay cha, nhưng tôi hoàn toàn không thể cử động. Tôi vùng vẫy gào thét gọi cha, để nói với cha điều gì đấy, bất cứ điều gì cũng được. Nhưng, cũng như cha, tôi không thể nói được dù chỉ một lời.